Khóa luận Hoàn thiệp pháp luật về hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm ở Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Hoàn thiệp pháp luật về hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_hoan_thiep_phap_luat_ve_hoat_dong_cua_doanh_nghiep.pdf
Nội dung text: Khóa luận Hoàn thiệp pháp luật về hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm ở Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOÀN THIỆP PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP XẾP HẠNG TÍN NHIỆM Ở VIỆT NAM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH LUẬT KINH DOANH Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2014-L HÀ NỘI, 2018
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP XẾP HẠNG TÍN NHIỆM Ở VIỆT NAM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH LUẬT KINH DOANH Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2014-L NGƯỜI HƯỚNG DẪN: THẠC SĨ KHUẤT QUANG PHÁT HÀ NỘI, (2018)
- MỤC LỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT 4 DANH MỤC CÁC BẢNG 4 LỜI MỞ ĐẦU 5 1. Tính cấp thiết của đề tài 5 2. Tình hình nghiên cứu 6 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 7 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 8 5. Phương pháp nghiên cứu 8 6. Bố cục của báo cáo 8 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XẾP HẠNG TÍN NHIỆM VÀ DOANH NGHIỆP XẾP HẠNG TÍN NHIỆM 9 1.1. Luận về xếp hạng tín nhiệm. 9 1.1.1. Khái niệm xếp hạng tín nhiệm. 9 1.1.2. Vai trò của xếp hạng tín nhiệm. 11 1.1.3. Phân loại xếp hạng tín nhiệm. 14 1.1.4. Phương pháp xếp hạng tín nhiệm. 14 1.2. Luận về doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm. 15 1.2.1. Khái niệm doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm 15 1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm trên thế giới 16 1.2.3. Lịch sử hình thành và phát triển của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam 19 1.2.4. Mô hình doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm 24 1.2.5. Các hình thức kinh doanh dịch vụ của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm . 25 1.2.6. Nguyên tắc hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm 25 1.3. Pháp luật xếp hạng tín nhiệm tại một số quốc gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 27 1.3.1. Bộ Nguyên tắc cơ bản về hoạt động của tổ chức xếp hạng tín nhiệm 27 1
- 1.3.2. Pháp luật điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm của Mỹ 31 1.3.3. Hệ thống thang điểm xếp hạng tín nhiệm phổ biến 38 Kết luận Chương 1 41 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP XẾP HẠNG TÍN NHIỆM Ở VIỆT NAM 42 2.1. Thực trạng pháp luật về hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm ở Việt Nam. 42 2.1.1. Tình hình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động xếp hạng tín nhiệm 42 2.1.2. Các qui định pháp lý về thành lập doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm ở việt Nam. 44 2.1.3. Các qui định pháp lý về hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm ở Việt Nam. 48 2.2. Thực tiễn thực thi pháp luật về hoạt động của công ty xếp hạng tín nhiệm ở Việt Nam. 54 2.2.1. Những thuận lợi trong hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam. 54 2.2.3. Những khó khăn trong hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam. 57 Kết luận chương 2 63 CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP XẾP HẠNG TÍN NHIỆM TẠI VIỆT NAM 64 3.1. Một số giải pháp mang tính tiền đề cho hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm. 64 3.1.1. Mô hình của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm. 64 3.1.3. Giới hạn việc thành lập doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm 66 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm. 67 3.2.1. Đối tượng được xếp hạng tín nhiệm. 67 3.2.2. Phương pháp xếp hạng tín nhiệm. 68 3.2.3. Giải quyết vấn đề xung đột lợi ịch và đảm bảo tính độc lập 73 2
- 3.2.4.Quy định về hệ thống thang điểm xếp hạng tín nhiệm. 75 3.2.4. Quy định xếp hạng tín nhiệm bắt buộc. 77 3.2.5. Quy định cụ thể các trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm. 79 3.3. Các giải pháp mang tính bổ trợ cho hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm. 80 3.3.1. Phổ cập kiến thức pháp luật về doanh nghiệp đinh mức tín nhiệm 80 3.3.2. Xây dựng cơ chế cung cấp thông tin. 82 Kết luận chương 3 84 KẾT LUẬN 85 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87 3
- CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT CIC Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam IOSCO : Hiệp hội Quốc tế các Ủy ban chứng khoán IOSCO CODE : Bộ nguyên tắc cơ bản về hoạt động của tổ chức xếp hạng tín nhiệm NHNN : Ngân hàng Nhà nước NRSRO Tổ chức đánh giá tín dụng được công nhận trên toàn quốc (Hoa Kỳ) SEC : Uỷ ban Chứng khoán và Giao dịch Hoa Kỳ XHTN : Xếp hạng tín nhiệm DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1 Lịch sử hình thành và phát triển của doanh nghiệp xếp hạng Trang 19 tín nhiệm trên thế giới Bảng 2 Ký hiệu thang điểm xếp hạng tín nhiệm dài hạn của ba tổ Trang 38 chức xếp hạng tín nhiệm hàng đầu thế giới Bảng 3 Quy mô của thị trường trái phiếu của một số nước Châu Á Trang 58 tính đến hết tháng 12 năm 2017 Bảng 4 Bảng chuẩn xếp hạng tín dụng của CIC Trang 77 4
- LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam đang trong tiến trình phát triển, hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là hội nhập về tài chính. Bên cạnh việc mở cửa góp phần thúc đầy đưa nền kinh tế phát triển thì hội nhập kinh tế quốc tế còn là thách thức với mọi nền kinh tế, thách thức này càng khắc nghiệt hơn khi Việt Nam là một nước đang phát triển đồng thời là nền kinh tế chuyển đổi. Vì thế các chủ thể trong nền kinh tế Việt Nam phải không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh, phát triển về cả chất và lượng, không chỉ về con người, năng lực quản trị, công nghệ mà đặc biệt là còn về vốn. Nhu cầu về vốn luôn đặt các chủ trên thị trường tài chính vào những tình huống khó khăn khi hình thức huy động vốn gián tiếp qua ngân hàng đang dần không đáp ứng đủ yêu cầu của các chủ thể trên thị trường tài chính. Hình thức huy động vốn trực tiếp thông qua các công cụ nợ sẽ góp phần giải quyết bớt gánh nặng cho các ngân hàng. Vấn đề đặt ra là làm sao một tổ chức kinh tế có thể chứng minh sức mạnh tài chính của mình để tiếp cận các luồng vốn từ thị trường tín dụng, đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh của mình với chi phí vay, nợ thấp nhất? Còn đối với nhà đầu tư, làm thế nào để kiểm soát rủi ro các khoản đầu tư của mình khi còn có quá nhiều nguy cơ tiềm tàng, mất ổn định của môi trường đầu tư. Trong điều kiện mức độ hiểu biết của công chúng đầu tư của Việt Nam còn hạn chế, các kênh cung cấp thông tin và đánh giá rủi ro còn rất ít hoặc chưa có, sự xuất hiện của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm sẽ giúp các nhà đầu tư yên tâm hơn khi tiếp cận với thị trường, với vai trò là một tổ chức đánh giá trung gian, độc lập, chuyên nghiệp, doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm sẽ là phương thức tốt nhất để quảng bá những doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả. Đồng thời việc đánh giá hệ số tín nhiệm doanh nghiệp cũng giúp doanh nghiệp đó xác định chính xác hơn tình trạng của mình để xây dựng chính sách đầu tư, sử dụng biện pháp huy động vốn phù hợp với chi phí thấp và không ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh. Loại hình doanh nghiệp này đã ra đời rất lâu và càng khẳng định vai trò to lớn của mình ở các nước trên thế giới và khi vực nhưng vẫn còn khá mới ở Việt Nam cả về quá trình hình thành phát triển và khuôn khổ pháp lý quy định về vấn đề này. Đó chính là lý do để thôi thúc em chọn đề tài “HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP XẾP HẠNG TÍN NHIỆM Ở VIỆT NAM” để 5
- tìm hiểu làm rõ hơn về các đặc điểm và vai trò của các doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm đối với việc phát triển thị trường tài chính Việt Nam cũng như thực trạng hoạt động của một số doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam trong thời gian qua. Từ đó, nghiên cứu đề xuất những khung pháp lý về hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam trong thời gian tới. 2. Tình hình nghiên cứu Những báo cáo hay công trình nghiên cứu nói về xếp hạng tín nhiệm, phương pháp để thực hiện xếp hạng tín nhiệm thì đã có rất nhiều trong nước cũng như ngoài nước. Nhất là tại những quốc gia mà lĩnh vực xếp hạng tín nhiệm ra đời và phát triển rất sớm như Mỹ, Anh, Liên minh Châu Âu hay các nước phát triển trong khu vực như Hàn Quốc, Nhật Bản. Tại Việt Nam thì vấn đề xếp hạng tín nhiệm cũng đã được các nhà nghiên cứu, các học giả quan tâm, bằng chứng là chúng ta đã có một số công trình nghiên cứu đã gặt hái được nhiều thành công mang tính ứng dụng thực tiễn rất cao như sau: + Nguyễn Văn Hiếu, (2005), “Xây dựng hệ thống chấm điểm tín dụng doanh nghiệp tại ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu”, Đại học kinh tế Tp.HCM, luận văn thạc sỹ kinh tế. + Đinh Thị Huyền Thanh và Stefanie Kleimeier đã tiến hành nghiên cứu nguồn số liệu được tổng hợp từ các NHTM Việt nam theo 20 biến số gồm độ tuổi, thu nhập trình độ học vấn, .để xác xếp hạng độ ảnh hưởng của các biến này đến rủi ro tín dụng và qua đó xây dựng mô hình điểm số tín dụng cá nhân cho các NH bán lẻ ở Việt Nam. + Vương Quân Hoàng, Đào Gia Hưng, Nguyễn Văn Hữu, Trần Minh Ngọc và Lê Hồng Phương (2006), “Phương pháp thống kê xây dựng mô hình xếp hạng tín nhiệm khách hàng thể nhân”. + Đinh Thị Kim Đính, (2007)“Xây dựng công ty xếp hạng tín nhiệm trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh + Hoàng Ngọc Hà, (2007) “Phát triển dịch vụ xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam”, luận văn thạc sỹ kinh tế, Trường đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội) 6
- + Nghiên cứu của Lê Tất Thành, (2009), Ứng dụng hàm Logit xây dựng mô hình dự báo hạng mức tín nhiệm các doanh nghiệp Việt Nam, luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế Tp.HCM; + Phan Anh, (2012), Hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ đối với doanh nghiệp vay vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Trường đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội; Qua việc tổng kết các kết quả nghiên cứu trước đây ta thấy đã có rất nhiều các phương pháp hay mô hình đã được đề xuất, áp dụng và thu được những kết quả khá tốt trong thực tiễn, tuy nhiên các công trình này phần lớn là các công trình nghiên cứu cụ thể các phương pháp xếp hạng tín nhiệm về khía cạnh kinh tế học hay toán học dựa trên kinh nghiệm của thế giới và kiến nghị phương hướng áp dụng tại Việt Nam chứ chưa đề cập đến việc xây dựng một khung pháp lý cụ thể về thành lập, tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm. Và đặc biệt là sau khi sự ra đời của Nghị định số 88/2014/NĐ-CP ngày 26 tháng 9 năm 2014 của Chính phủ quy định về dịch vụ xếp hạng tín nhiệm thì cần có những nghiên cứu để đánh giá sự phù hợp của khung pháp lý được đưa ra với thực tế nền kinh tế ở Việt Nam cũng như đưa ra kiến nghị hoàn thiện thêm là điều cần thiết 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm, phân tích các quy định quốc tế có liên quan trong việc xây dựng quy chế hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm để từ đó đề xuất, kiến nghị những giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm ở Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu trên, nghiệm vụ nghiên cứu đặt ra là: - Về lý luận và thực tiễn: tập trung nghiên cứu bản chất, ý nghĩa của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm; cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định này; pháp luật một số nước trên thế giới về doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm; đánh giá các quy định về doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm ở Việt Nam và thực tiễn thi hành; 7
- - Từ việc đưa ra những nội dung lý luận cũng như thực tiễn quốc tế và Việt Nam để đưa ra các khuyến nghị nhằm xây dựng các quy định về doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm một cách hợp lý. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Khóa luận sẽ tập trung vào những vấn đề chính sau: - Những vấn đề lý luận về doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm; - Pháp luật về doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm trên thế giới và ở Việt Nam - Những khó khăn, bất cập và kết quả đạt được trong thực tiễn quá trình hoạt động của một số doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm ở Việt Nam. Khóa luận không đi sâu nghiên cứu các phương pháp liên quan đến kinh tế, toán học, các thuật toán hay phương pháp tính toán cụ thể để đưa ra kết quả xếp hạng tín nhiệm mà chỉ đừng từ góc độ pháp luật hiện hành của Việt Nam cũng như trên thế giới để nghiên cứu đưa ra những phân tích, đánh giá và kiến nghị 5. Phương pháp nghiên cứu Để có thể thực hiện việc nghiên cứu đề tài nhằm đạt được mục đích nêu trên, người viết có sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau: • Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích các số liệu, thông tin, quy phạm pháp luật để tìm hiểu về vấn đề xung quanh xếp hạng tín nhiệm và hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm • Phương pháp so sánh cách xây dựng các quy phạm pháp luật của các nước trên thế giới để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. 6. Bố cục của báo cáo Ngoài lời nói đầu, kết luận, mục lục, danh mục từ viết tắt, danh mục các bảng,danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 03 (ba) chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về xếp hạng tín nhiệm và doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam 8
- CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XẾP HẠNG TÍN NHIỆM VÀ DOANH NGHIỆP XẾP HẠNG TÍN NHIỆM 1.1. Luận về xếp hạng tín nhiệm. 1.1.1. Khái niệm xếp hạng tín nhiệm. Hiện nay, trong các giao dịch trên thị trường tài chính như việc cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng cho khách hàng hoặc các giao dịch mua bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán hay việc chào bán các công cụ nợ của tổ chức phát hành đều đòi hỏi phải có sự thông suốt thông tin, cập nhật thường xuyên và chính xác. Tuy nhiên, đa phần các giao dịch diễn ra vẫn đang dựa trên “sự tin cậy”. Khi cho vay, các tổ chức tín dụng luôn kỳ vọng khách hàng sẽ lựa chọn phương án đầu tư tốt, thực hiện tốt phương án để có đủ nguồn vốn hoàn trả đầy đủ gốc và lãi vay; khi quyết định đầu tư vào cổ phiếu hay các công cụ nợ thì nhà đầu tư cũng tin tưởng doanh nghiệp phát hành cổ phiếu làm ăn hiệu quả, trả cổ tức cao và giá cổ phiếu sẽ tăng giá, các tổ chức phát hành công cụ nợ có khả năng hoàn trả nợ đúng hạn. Đó là một trong những lý do tại sao tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng vẫn cao và có nhiều nhà đầu tư thua lỗ khi đầu tư chứng khoán hay các nhà đầu tư ít quan tâm đến các đợt phát hành công cụ nợ. Nguyên nhân chủ yếu là do tình trạng thiếu thông tin xếp hạng tín nhiệm uy tín và chính xác. Xếp hạng tín nhiệm (XHTN) với tính chất định lượng rủi ro từ lâu đã được coi là yếu tố quyết định trong đầu tư và được phát triển như một dạng hoạt động độc lập trên thị trường do các tổ chức chuyên nghiệp là các doanh nghiệp XHTN thực hiện. Xếp hạng tín nhiệm (credit rating) là thuật ngữ do John Moody đưa ra năm 1909 trong cuốn “Cẩm nang chứng khoán đường sắt”, khi tiến hành nghiên cứu, phân tích và công bố bảng xếp hạng tín nhiệm đầu tiên cho 1500 trái phiếu của 250 công ty theo một hệ thống kí hiệu gồm 3 chữ cái A, B, C được xếp lần lượt từ (AAA) đến (C). Theo đó thì xếp hạng tín nhiệm là ý kiến về khả năng và sự sẵn sàng của một nhà phát hành trong việc thanh toán đúng hạn một nghĩa vụ tài chính [16, tr.12]. Hiện nay, những kí hiệu này trở thành chuẩn mực quốc tế. Theo định nghĩa trong Bộ nguyên tắc cơ bản về hoạt động của Tổ chức xếp hạng tín nhiệm (IOSCO Code) do Hiệp hội Quốc tế các Uỷ ban chứng khoán (IOSCO) 9
- đề xuất thì xếp hạng tín nhiệm là đánh giá về giá trị tín dụng của một tổ chức hoặc một công cụ nợ bằng hệ thống xếp hạng đã được xác định và công bố [48, pg. 4]. Điều 3(a) của Luật cải cách tổ chức xếp hạng tín nhiệm năm 2006 của Hoa Kỳ định nghĩa: “xếp hạng tín nhiệm là việc đánh giá về khả năng trả nợ của một người có nghĩa vụ hoặc một chứng khoán cụ thể hoặc một công cụ thị trường tiền tệ cụ thể” [50, Article 3(a)]. Ở Việt Nam, thuật ngữ “xếp hạng tín nhiệm” đang tồn tại nhiều tên gọi như: xếp hạng tín nhiệm, định mức tín nhiệm, xếp hạng doanh nghiệp, xếp hạng tín dụng, định dạng tín dụng, xếp hạng khách hàng [44]. Theo Trần Đắc Sinh trong cuốn “Định mức tín nhiệm tại Việt Nam” thì định mức hay xếp hạng tín nhiệm được hiểu là hoạt động: “Đưa ra các nhận định hiện tại về mức độ tín nhiệm của nhà phát hành đối với một trách nhiệm tài chính nào đó, hoặc là đánh giá mức độ rủi ro gắn liền với các loại đầu tư khác nhau” [20, tr. 16]. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 7 Nghị định số 53/2009/NĐ-CP về phát hành trái phiếu quốc tế, hệ số tín nhiệm (credit rating) là hệ số mà các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm quốc tế xác định để đánh giá mức độ tin cậy của các quốc gia (hệ số tín nhiệm quốc gia) hoặc của các doanh nghiệp (hệ số tín nhiệm công ty) về mức độ rủi ro đầu tư và khả năng hoàn trả các khoản vay. Hệ số này được dùng làm căn cứ để xác định chi phí đối với việc huy động các khoản vay [2, Điều 7.2]. Định nghĩa này tiếp tục được giữ nguyên tại Khoản 9 Điều 2 Nghị định số 90/2011/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp [3, Điều 2.9]. Còn tại Khoản 5 và Khoản 6 Điều 4 Nghị định số 88/2014/NĐ-CP quy định về dịch vụ xếp hạng tín nhiệm thì xếp hạng tín nhiệm bao gồm xếp hạng tín nhiệm đối với doanh nghiệp, tổ chức và xếp hạng tín nhiệm đối với công cụ nợ. Đây là hoạt động phân tích, nhận định và xếp hạng về khả năng thực hiện đầy đủ và, đúng hạn nghĩa vụ nợ của doanh nghiệp, tổ chức hoặc của chủ thể phát hành đối với công cụ nợ tại thời điểm xếp hạng [4, Điều 4.5 và 4.6] Như vậy, có thể khái quát XHTN là sự đánh giá hiện thời về mức độ sẵn sàng và khả năng thực hiện đầy đủ và đúng hạn nghĩa vụ nợ của doanh nghiệp, tổ chức hoặc của chủ thể phát hành đối với công cụ nợ tại một thời điểm xác định. Hiện nay XHTN đã được mở rộng, các tổ chức xếp hạng tiến hành đánh giá khả năng trả nợ đối với một nhà phát hành tại một thời điểm nhất định theo định kỳ và trước mỗi đợt 10
- phát hành công cụ nợ. Đồng thời, phương pháp phân tích, đánh giá khả năng trả nợ đối với một nhà phát hành cũng được hoàn thiện hơn. Do vậy XHTN của một nhà phát hành không chỉ cho biết khả năng trả nợ của nhà phát hành, hơn thế nữa nó còn cho biết tình hình và khả năng phát triển của một tổ chức phát hành công cụ nợ. Nói cách khác, XHTN có thể cung cấp đánh giá tổng quát về tình hình và triển vọng phát triển của một nhà phát hành. 1.1.2. Vai trò của xếp hạng tín nhiệm. Trong quá trình hoạt động kinh doanh của các ngân hàng, các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp và các nhà đầu tư có những mục đích khác nhau trong việc XHTN. Vì có những mục đích khác nhau, nên những nhóm chủ thể này cũng có những nhận định khác nhau đối với XHTN. 1.1.2.1. Đối với Ngân hàng Hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường là một trong những hoạt động kinh tế có nhiều rủi ro. Có thể nói rủi ro như một yếu tố không thể tách rời quá trình hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường. Rủi ro trong cho vay còn được nhân lên gấp bội, vì ngân hàng không những phải hứng chịu những rủi ro do những nguyên nhân chủ quan của mình, mà còn gánh chịu những rủi ro do khách hàng gây ra. Hơn nữa, rủi ro trong hoạt động ngân hàng có thể gây ra những tổn thất to lớn cho nền kinh tế hơn bất cứ rủi ro của các loại hình doanh nghiệp khác, vì tính chất lây lan của nó có thể làm rung chuyển toàn bộ hệ thống kinh tế của một quốc gia và theo phản ứng dây chuyền nó tác động đến hầu hết tất cả các quốc gia trên toàn thế giới. Như vậy, đứng trên góc độ ngân hàng thì XHTN là đánh giá mức độ rủi ro của đối tượng khách hàng nhằm kiểm soát rủi ro tín dụng thông qua thang điểm được xác định bởi những thông tin tài chính và phi tài chính của khách hàng XHTN tiếp cận đến tất cả các yếu tố có liên quan đến rủi ro tín dụng, các ngân hàng không sử dụng kết quả XHTN nhằm thể hiện giá trị của khách hàng vay vốn mà đây là căn cứ để ngân hàng đưa ra ý kiến chấp thuận hay từ chối cấp tín dụng dựa trên các nhân tố rủi ro thông qua việc phân tích các thông tin trong quá khứ cũng như hiện tại của khách hàng, từ đó nếu chấp thuận cấp tín dụng thì cũng có chính sách tín dụng và giới hạn cho vay phù hợp đối với từng đối tượng khách hàng.Ngoài ra, XHTN 11
- còn giúp ngân hàng hiểu rõ những rủi ro mà ngân hàng sẽ đối mặt khi cấp tín dụng cho khách hàng [19, tr.14] 1.1.2.2. Đối với các nhà đầu tư và thị trường chứng khoán Trong nền kinh tế thị trường mang tính toàn cầu hóa như hiện nay thì sự tồn tại và phát triển của thị trường chứng khoán là một tất yếu khách quan. Cùng với sự tồn tại và phát triển của thị trường chứng khoán, các thông tin về XHTN của chứng khoán cũng như các tổ chức phát hành ngày càng có vai trò quan trọng. Vì vậy, mục đích của XHTN đối với các nhà đầu tư và thị trường chứng khoán là: XHTN cung cấp những thông tin cần thiết cho người đầu tư về tình trạng của nhà phát hành để lựa chọn khi đầu tư vào một chứng khoán thích hợp. XHTN tạo điều kiện huy động vốn trên thị trường chứng khoán thực hiện được dễ dàng, thuận lợi hơn. Với việc XHTN, người đầu tư sẽ an tâm, tin tưởng và dễ dàng lựa chọn chứng khoán để đầu tư. Từ đó làm cho người phát hành dễ dàng tiếp cận được với các nguồn tài chính có thể thực hiện huy động với quy mô lớn và trên một phạm vi rộng kể cả huy động vốn từ nước ngoài. XHTN góp phần quan trọng vào việc giảm bớt chi phí sử dụng vốn cho người phát hành. Khi một người phát hành có uy tín thì với việc XHTN sẽ giúp cho việc huy động vốn qua phát hành chứng khoán thuận lợi, dễ dàng hơn, đồng thời giảm được chi phí huy động vốn. Với nhà phát hành có thể phát hành trái phiếu với mức lãi suất thấp vẫn thu hút được các nhà đầu tư. XHTN thúc đẩy nhà phát hành nâng cao hơn trách nhiệm đối với các nhà đầu tư. Việc XHTN liên quan chặt chẽ đến uy tín của nhà phát hành, điều đó thúc đẩy người phát hành thực hiện tốt hơn các cam kết đối với các nhà đầu tư trong việc đảm bảo thanh toán lãi và vốn vay. XHTN là công cụ quản lý danh mục đầu tư. Trong danh mục đầu tư có rất nhiều loại chứng khoán khác nhau, dựa vào sự thay đổi của XHTN các nhà đầu tư đánh đổi các chứng khoán trong danh mục đầu tư để thu lợi nhuận và hạn chế rủi ro. XHTN là công cụ đánh giá một số rủi ro có liên quan. Các ngân hàng và các tổ chức tài chính trung gian khác với tư cách là một nhà đầu tư sử dụng XHTN làm một tiêu chuẩn quan trọng khi quyết định cho vay, tài trợ dự án, thoả thuận ngoại hối hoán đổi. 1.1.2.3. Đối với các doanh nghiệp được xếp hạng 12
- Các doanh nghiệp sử dụng XHTN nhằm biết rõ tình trạng hoạt động kinh doanh thực tế của mình, triển vọng phát triển trong tương lai, cũng như những rủi ro có thể gặp phải. Trên cơ sở đó đề ra các kế hoạch điều chỉnh chiến lược trong hoạt động kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả hay khả năng cạnh tranh. Trong trường hợp doanh nghiệp phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu, cổ phần hóa thì kết quả của XHTN là cơ sở để xây dựng giá trị của doanh nghiệp và giá trị của mỗi cổ phần phát hành. Đồng thời, XHTN là cơ sở cho phép các doanh nghiệp so sánh vị thế cạnh tranh của mình và các doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp từ kết quả XHTN có thể xác định được mức lãi suất vay hợp lý. Thông thường, hệ số xếp hạng tín nhiệm tỷ lệ nghịch với lãi suất vay. Điều đó có nghĩa là, nếu một tổ chức phát hành trái phiếu có hệ số XHTN càng cao thì không những thu hút được nhiều nhà đầu tư mà họ còn huy động được nguồn vốn vay lớn với lãi suất thấp. Ngược lại, nếu tổ chức phát hành có hệ số XHTN thấp thì lãi suất vay phải cao tương ứng hoặc họ sẽ không bán được trái phiếu [18, tr. 280] 1.1.2.4. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước Thông tin XHTN doanh nghiệp sẽ giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước đánh giá được đối tượng quản lý của mình, có cơ sở thông tin để so sánh theo ngành kinh tế, lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp. Là cơ sở giúp các cơ quan quản lý Nhà nước đưa ra những giải pháp thích hợp nhất để thúc đẩy sự phát triển và hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành kinh tế nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung, nhằm bảo đảm một môi trường kinh tế hoạt động lành mạnh. Thông tin XHTN doanh nghiệp sẽ giúp Chính phủ có thể xác định được hiệu năng quản trị, hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước. Trên cơ sở đó, Chính phủ có thể quyết định cổ phần hóa, sáp nhập hay giải thể doanh nghiệp, đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp. Đối với Ngân hàng Nhà nước (NHNN), qua thông tin từ XHTN doanh nghiệp, NHNN có thể biết được mức độ rủi ro theo từng ngành, vùng kinh tế, loại hình doanh nghiệp, từ đó có chính sách tiền tệ, tín dụng thích hợp, thanh tra giám sát các tổ chức tín dụng [33]. Như vậy, dù có những khác biệt về mục đích, song mục tiêu chung của tất cả các chủ thể XHTN đều nhằm đánh giá triển vọng và những nguy cơ tiềm tàng của một doanh nghiệp, nhà phát hành, 13
- 1.1.3. Phân loại xếp hạng tín nhiệm. Trên thế giới hiện nay, có nhiều cách để phân loại XHTN. Tùy thuộc vào căn cứ khác nhau, có thể có những phân loại về XHTN cơ bản như sau: • Xếp hạng tín nhiệm quốc gia: loại hình XHTN này đánh giá mức độ tin cậy của một quốc gia, để từ đó có thể so sánh môi trường đầu tư giữa các quốc gia. Quốc gia nào càng được XHTN cao thì càng nhận được sự tín nhiệm của các nhà đầu tư nước ngoài nên sẽ thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư. Việc XHTN các quốc gia dựa trên các chỉ số phát triển chung như: chỉ số phát triển các ngành, chỉ số an toàn vốn đầu tư, tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia, mức độ bình ổn chính trị, • Xếp hạng tín nhiệm các nhà phát hành: là việc xếp hạng tín nhiệm của các công ty tư nhân, các tổ chức bảo hiểm, các quỹ đầu tư trong việc thanh toán các nghĩa vụ tài chính đúng hạn cho các nhà đầu tư. • Xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp: đây là hình thức tập trung vào đối tượng xếp hạng là các doanh nghiệp. Việc XHTN doanh nghiệp được thực hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau, nhưng về cơ bản vẫn dựa trên các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính của doanh nghiệp để đánh giá. Xếp hạng tín nhiệm ngân hàng cũng là một thành phần của XHTN doanh nghiệp: là việc đánh giá khả năng của các ngân hàng cho việc thanh toán các nghĩa vụ về tiền lãi và vốn gốc đối với các khoản tiền gửi của khách hàng. Đó chính là việc đánh giá mức độ an toàn trong hoạt động của ngân hàng. • Xếp hạng tín nhiệm các công cụ nợ như: trái phiếu công ty, trái phiếu chính phủ và các loại trái phiếu, kì phiếu ngân hàng Ở một số nước và một số tổ chức XHTN hiện nay còn XHTN cả cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu thường Việc xếp hạng tín nhiệm (XHTN) đối với các loại công cụ đầu tư được thực hiện dựa trên một số chỉ tiêu như: khả năng thanh khoản, kì hạn, lãi suất, mệnh giá, các rủi có thể gặp phải [34]. 1.1.4. Phương pháp xếp hạng tín nhiệm. Đối tượng của xếp hạng là các tổ chức kinh tế trong mối quan hệ tín dụng trực tiếp, gián tiếp, đối tượng này bao gồm nhiều lĩnh vực, ngành nghề, nhiều cấp độ khác nhau, do đó đòi hỏi phải áp dụng các phương pháp thích hợp nhất cho từng đối tượng 14
- được xếp hạng. Hiện nay có nhiều phương pháp xếp hạng tín nhiệm khác nhau. Tuy nhiên có thể chia thành 3 nhóm chính: Nhóm phương pháp mô hình hóa: + Mô hình kinh tế lượng: Là phương pháp dựa trên lý thuyết kinh tế lượng để lượng hóa các quá trình kinh tế -xã hội thông qua phương pháp thống kê. Thực chất của phương pháp này là mô tả các mối quan hệ giữa các đại lượng kinh tế bằng một phương trình hoặc hệ phương trình đồng thời. + Mô hình nhân tố: Là phương pháp phân tích tương quan giữa các chỉ tiêu (nhân tố) với nhau và lượng hóa mối quan hệ này. Nhóm phương pháp chuyên gia: Trong trường hợp các số liệu thực nghiệm không đáp ứng được yêu cầu nghiên cứu hoặc đối tượng xếp loại là một tập hợp các dấu hiệu chất lượng không thể định lượng, hoặc có thể định lượng nhưng rất tốn kém thì phải sử dụng nhóm phương pháp chuyên gia. Phương pháp này sử dụng ý kiến đánh giá hay dự báo của các chuyên gia về nội dung cụ thể nào đó nhằm góp phần củng cố vào phân tích và xếp hạng tín nhiệm. Các ý kiến của chuyên gia là nguồn dữ liệu đầu vào quan trọng trong quá trình xếp hạng. Nhóm phương pháp kết hợp: Phương pháp này cho phép kết hợp những thế mạnh của mô hình hóa và phương pháp chuyên gia, phương pháp này được tiến hành theo một quy trình nhằm thực hiện việc xích lại gần nhau giữa các phương án nhận được từ việc mô phỏng theo mô hình hóa với các ý kiến của chuyên gia cho đến khi đạt được sự thống nhất chấp nhận được [16, tr. 25]. 1.2. Luận về doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm. 1.2.1. Khái niệm doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm Theo định nghĩa trong IOSCO CODE thì tổ chức xếp hạng tín nhiệm hay doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm là một tổ chức hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực phát hành xếp hạng tín dụng hay nói cách khác là xếp hạng tín nhiệm [48, pg.3] Các doanh nghiệp XHTN đánh giá mức độ tin cậy của người đi vay và các công cụ nợ bằng cách gán các mức tín nhiệm khác nhau cho họ. Việc xếp hạng quan tâm đến lợi ích của các nhà đầu tư và các tổ chức tài chính cũng như cá c nhà quản lý. Thị trường tài chính cần các tổ chức tạo điều kiện cho trung gian thông tin; doanh nghiệp 15
- XHTN theo truyền thống thực hiện chức năng này. Xếp hạng nói chung được coi là các ý kiến hoặc phán đoán về tính đáng tin cậy của người đi vay hoặc các công cụ nợ, nhưng không chứ không phải là một sự đảm bảo cho mức độ đáng tin cậy của các đối tượng này. Là những người trung gian thông tin, các doanh nghiệp XHTN giúp liên kết người cần vốn với người có vốn. Họ cung cấp cho các nhà đầu tư những thông tin hữu ích để ra quyết định. Trong vài thập kỷ gần đây, các nhà đầu tư và các tổ chức phát hành ngày càng coi trọng xếp hạng của các doanh nghiệp XHTN dẫn đầu. Toàn cầu hóa trong lĩnh vực tài chính, sự gia tăng của các tổ chức phát hành và sự phức tạp của các công cụ tài chính mới cho thấy vai trò ngày càng quan trọng của các doanh nghiệp XHTN. Trong các thị trường tài chính hiện đại, hầu như không thể bắt đầu việc chào bán công khai mà không có sự đánh giá của doanh nghiệp XHTN. Việc đánh giá các công cụ tài chính mới trong bốn thập kỷ qua đã dẫn đến các doanh nghiệp XHTN dẫn đầu có vẻ có nhiều lợi nhuận hơn bao giờ hết [52, pg. 6] 1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm trên thế giới Hiện nay trên thế giới, tại hầu hết các quốc gia phát triển đều có tồn tại ít nhất một tổ chức XHTN. Các tổ chức này hoạt động độc lập, chuyên nghiệp, có vai trò như một công cụ quản lý tài chính thúc đẩy và kiểm soát hoạt động của thị trường nợ nói riêng và thị trường tài chính nói chung. Trong vài thập niên gần đây, tổ chức XHTN đã phát triển mạnh mẽ cả về qui mô lẫn tốc độ. Tổ chức XHTN đã ra đời dựa trên cơ sở của các tổ chức hoạt động có liên quan đến XHTN trước đó ra đời tại Mỹ là: tổ chức thông báo tín nhiệm; tổ chức kinh doanh thông tin bằng các ấn phẩm chuyên ngành và ấn phẩm tài chính; ngân hàng đầu tư. Hoạt động của các tổ chức này phát sinh từ nhu cầu của thị trường chứng khoán và tổ chức XHTN đã ra đời trên cơ sở tổng hợp của ba loại hình tổ chức hoạt động nêu trên. Trong thế kỷ 19, các chức năng mà hiện do các tổ chức XHTN cung cấp được cung cấp bởi ba loại hình tổ chức: tổ chức kinh doanh thông tin bằng các ấn phẩm chuyên ngành và ấn phẩm tài chính, các cơ quan báo cáo tín dụng và ngân hàng đầu tư. Báo chí chuyên ngành báo cáo về các điều kiện kinh doanh cho các công ty và ngành công nghiệp. Đầu tiên là Tạp chí Đường sắt Hoa Kỳ, xuất hiện năm 1832. 16
- Henry Varnum Poor trở thành người biên tập của nó vào năm 1849, và sau đó tiếp tục xuất bản Cuốn Sổ tay Hướng dẫn Poor về Đường sắt của Hoa Kỳ. Năm 1916, Công ty Poor tham gia vào hoạt động xếp hạng trái phiếu và sáp nhập với Standard Statistics để hình thành S & P vào năm 1941. Các cơ quan báo cáo tín dụng (không xếp hạng) đánh giá khả năng thanh toán của các thương gia về nghĩa vụ tài chính. Cơ quan cấp tín dụng thương mại đầu tiên được thành lập ở New York vào năm 1841. Robert Dun mua lại cơ quan này và sau đó xuất bản cuốn hướng dẫn tín dụng đầu tiên năm 1859. John Bradstreet thành lập cơ quan tương tự vào năm 1849 và xuất bản cuốn hướng dẫn tín dụng vào năm 1857. Năm 1933, các doanh nghiệp được hợp nhất vào Dun & Bradstreet (D & B), và vào năm 1962, D & B mua lại Moody's Investor Services, đưa xếp hạng và báo cáo tín dụng cùng dưới tên một doanh nghiệp trước khi tách ra vào năm 2000. Các ngân hàng đầu tư dùng danh tiếng của họ để bảo lãnh cho các công cụ nợ là chức năng cơ bản của các doanh nghiệp XHTN sau này. Bằng cách đặt danh tiếng của họ vào cổ phần mỗi khi họ ký kết một khoản bảo đảm, các ngân hàng đầu tư đã giúp thị trường chứng khoán phát triển và thu hút người dùng và nhà đầu tư. Doanh nghiệp XHTN đầu tiên được John Moody thành lập vào năm 1909 và kết hợp ba chức năng của ba tổ chức nêu trên trong một doanh nghiệp, đặt nền móng cho ngành công nghiệp XHTN và gây dựng danh tiếng của công ty sau này. Đã có bốn giai đoạn tăng phát triển chính trong ngành công nghiệp CRA, như được tóm tắt trong Bảng 1 dưới đây. Giai đoạn đầu tiên kéo dài từ năm 1909 đến năm 1943. Thế chiến thứ nhất và những năm 1920 thịnh vượng đã dẫn đến một số lượng lớn các vấn đề cá nhân và công cộng. Những năm 1930 chứng kiến việc áp dụng xếp hạng tín dụng đầu tiên và việc mở rộng thị trường trái phiếu kéo dài cho đến khi kết thúc Thế chiến thứ hai. Giai đoạn thứ hai, 1944-1969, tức là thời kỳ sau Thế chiến thứ hai, là một trong những sự ổn định về tài chính và kinh tế. Kết quả là xếp hạng trái phiếu không phát triển mạnh trong thời gian này, và các doanh nghiệp XHTN hàng đầu dường như chỉ làm việc với một số ít các nhà phân tích, doanh thu có được từ việc bán báo cáo nghiên cứu cho các nhà đầu tư. Giai đoạn thứ ba được mô tả bằng những cú sốc thực tế từ năm 1970 đến năm 2001. Trong thời gian này, hệ thống tài chính toàn cầu đã trở thành thị trường, chuyển 17
- từ tỷ giá hối đoái cố định sang tỷ giá hối đoái linh hoạt, từ kiểm soát tín dụng định lượng đến quản lý nguồn cung tiền dựa trên giá và từ giá kiểm soát để định giá thị trường. Quy chế của các tổ chức tài chính chuyển từ kinh doanh sang cạnh tranh chức năng giữa tất cả các thành viên tham gia thị trường và kinh doanh chuyển từ các tổ chức sang các thị trường. Số lượng các tổ chức phát hành được xếp hạng toàn cầu từ khoảng 1000 năm 1970 lên gần 6000 vào năm 2006. Mặc dù điều này đã giảm dần sau đó, nhưng nó làm nổi bật xu hướng cơ cấu hướng đến một số lượng lớn các tổ chức phát hành mặc định về việc tìm kiếm nguồn đầu tư thông qua các vấn đề tín nhiệm. Giai đoạn thứ tư của phát triển ngành công nghiệp XHTN, từ năm 2002 đến nay, được đặc trưng bởi những thay đổi đáng kể trong ngành, cùng với xu hướng tiếp tục mở rộng của dịch vụ XHTN. Những thay đổi được thúc đẩy bởi sự gia tăng đột ngột của tình trạng phá sản doanh nghiệp, sự tăng trưởng to lớn của thị trường tài chính có cấu trúc và việc nhanh chóng chấp nhận Internet là động lực mạnh mẽ cho các cơ quan thông tin, bao gồm các doanh nghiệp XHTN. Đồng thời, các công cụ thị trường vốn ngày càng trở nên phức tạp và phổ biến. Khi phạm vi của các tổ chức phát hành, chứng khoán và nhà đầu tư đã mở rộng, xếp hạng ngày càng có liên quan nhiều hơn đến quá trình đầu tư tiết kiệm thông qua thị trường vốn. Việc mở rộng nhanh hơn xếp hạng bên ngoài chứ không phải bên trong Hoa Kỳ tạo ra những thách thức quản lý đòi hỏi đối với kinh doanh truyền thống của Mỹ [54, pg. 375]. 18
- Trước khi xuất hiện công ty XHTN 1832 1849 1841 1849 Tạp chí Đường sắt Sổ tay của Poor’s về Tổ chức tín dụng John Bradstreet Mỹ Đường sắt Mỹ thương mại đầu tiên được thành lập công (được mua lại bởi ty tín dụng thương Robert Dun năm 1859) mại và phát hành hướng dẫn tín dụng vào năm 1857 Bắt đầu xuất hiện công ty XHTN Giai đoạn 1 (1909–1943): Giai đoạn hình thành của nghành XHTN 1909 1916 1930 1933 1941 Công ty của John Công ty Poor Những quy định Công ty Dun& Sự sáp nhập của Moody thâm nhập thị đầu tiên về xếp Bradstreet được Công ty Poor với trường xếp hạng hạng tín nhiệm hình thành từ sự Standard tín nhiệm. John hợp nhất giữa Statistics Knowles Fitch công ty của thành lập công ty Robert Dun và Xếp hạng Fitch John Bradstreet Giai đoạn 2 (1944-1969): Giai đoạn ổn định kinh tế và nhu cầu XHTN thấp 1962 : Dun & Bradstreet mua lại Moody's Investor Services Giai đoạn 3 (1970-2001) : Giai đoạn của những cú sốc kinh tế lớn, nhu cầu XHTN gia tăng 1970 1975 1995 2000 Penn Central mặc SEC đã thành lập danh sách các tổ Công ty xếp Công ty xếp hạng định trên giấy chức đánh giá thống kê quốc gia hạng Fitch trở Fitch mua Công thương mại. Kết (NRSRO) thành một phần ty Đánh giá Tín quả là mô hình trả của Fimalac SA dụng Duff & tiền của người phát Phelps hành. Giai đoạn 4 (2002- hiện tại): sự phát triển nhanh chóng của nền tài chính mới, Công ty XHTN mở rộng ra ngoài phạm vi nước Mỹ Bảng 1: Lịch sử hình thành và phát triển của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm 1.2.3. Lịch sử hình thành và phát triển của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam Nhận thấy tầm quan trọng và sự cần thiết của việc XHTN các doanh nghiệp, ngày 29/01/2002, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã có Quyết định số 57/2002 QĐ- NHNN ngày 29/01/2002 về việc triển khai thí điểm phân tích, xếp hạng tín dụng 19
- doanh nghiệp cho phép trung tâm thông tin tín dụng triển khai đề án này thí điểm trong hai năm – đây có thể coi là văn bản pháp lý đầu tiên về dịch vụ xếp hạng tín nhiệm ở nước ta. Đối tượng thí điểm, phân tích, xếp hạng tín dụng là các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và công ty cổ phần. Trong thời gian thí điểm, trung tâm thông tin tín dụng chỉ được cung cấp sự đánh giá thông tin, xếp hạng tín dụng doanh nghiệp cho các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng; việc phân tích, XHTN doanh nghiệp được thực hiện tại Trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng nhà nước Việt Nam (CIC) theo phương pháp xếp loại và phương pháp so sánh. Theo quyết định này thì đối tượng thí điểm phân tích, xếp hạng tín nhiệm là các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các công ty cổ phần. Tại Điều 4 của quyết định trên cũng chỉ rõ: “Trong thời gian thí điểm, Trung tâm Thông tin tín dụng chỉ được cung cấp sự đánh giá thông tin, xếp loại tín dụng doanh nghiệp cho các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước; các tổ chức tín dụng. Các đơn vị sử dụng thông tin đúng mục đích; không cung cấp lại thông tin cho bên thứ ba.”[5, Điều 2]. Trong quyết định này đã qui định về việc cần thu thập các thông tin gì, đánh giá như thế nào và cũng đưa ra các thang điểm cho việc đánh giá xếp hạng: tối đa cho doanh nghiệp là 135 điểm, điểm tối thiểu là 27 điểm. Quyết định trên đánh dấu bước đầu tiên của Việt Nam trong thực hiện thí điểm việc xếp hạng doanh nghiệp. Việc làm này có ảnh hưởng quan trọng đến doanh nghiệp, các ngành kinh tế và cả Ngân hàng nhà nước cũng như các tổ chức tín dụng. Sau hai năm thí điểm đã đạt được nhiều kết quả khả thi nên ngày 28 tháng 4 năm 2004, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã chính thức đưa ra quyết định 473/QĐ-NHNN nhằm phê duyệt đề án phân tích, xếp hạng tín nhiệm các doanh nghiệp, cho phép CIC cung cấp các bảng báo cáo phân tích, xếp hạng các doanh nghiệp. Đối tượng được nhận các bảng báo cáo xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp là các đơn vị thuộc Ngân hàng nhà nước và các tổ chức tín dụng, không cung cấp cho các đối tượng khác. Trong bối cảnh Việt Nam chuẩn bị gia nhập WTO, tầm quan trọng của việc xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp ngày càng được khẳng định đối với sự phát triển của một nền kinh tế vững mạnh. Do vậy, vào ngày 21 tháng 6 năm 2006, Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã ký Quyết định số 1253/2006/QĐ-NHNN cho phép CIC chính thức thực hiện nghiệp vụ phân tích, xếp hạng doanh nghiệp và đối tượng được nhận báo cáo xếp hạng bao gồm các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước, các tổ 20
- chức tín dụng và một số tổ chức khác khi có yêu cầu trong một số trường hợp. Đặc biệt là các doanh nghiệp có nhu cầu tự xếp hạng có thể sử dụng kết quả phân tích của CIC để làm tài liệu tham khảo khi có nhu cầu vay vốn từ các tổ chức tín dụng hoặc để tự đánh giá năng lực hoạt động. Theo quyết định này thì phạm vi được mở rộng, đó là mọi thành phần kinh tế chứ không ràng buộc như trước nữa, bao gồm doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty có vốn đầu tư nước ngoài, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân [6]. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày kí và thay thế quyết định số 473/QĐ-NHNN. XHTN có vai trò quan trọng, không những đánh giá tình hình hạn mức doanh nghiệp mà còn tạo niềm tin của thương hiệu doanh nghiệp được XHTN trên thị trường. Vì vậy trong Quyết định có qui định hàng năm phải tổ chức đánh giá lại hệ thống xếp hạng tín nhiệm và chính sách dự phòng rủi ro cho phù hợp với tình hình thực tế và các quy định của pháp luật. ❖ Theo Quyết định số 57/2002/QĐ-NHNN thì Trung tâm thông tin tín dụng CIC của Ngân hàng nhà nước Việt Nam là tổ chức đầu tiên được Ngân hàng nhà nước Việt Nam cho phép triển khai đề án phân tích, xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp từ năm 2002. Trung tâm sử dụng các thông tin về bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, tình hình dư nợ ngân hàng và các thông tin phi tài chính khác để đánh giá xếp hạng. Các doanh nghiệp được đánh giá phân loại theo ngành kinh tế gồm nông lâm ngư nghiệp, thương mại dịch vụ, xây dựng và công nghiệp đồng thời phân loại theo qui mô lớn, vừa và nhỏ. Việc đánh giá xếp hạng tín dụng dựa trên các chỉ tiêu phân tích tài chính cơ bản gồm: chỉ tiêu thanh khoản, chỉ tiêu hoạt động, chỉ tiêu nợ và chỉ tiêu thu nhập [5]. Kể từ khi triển khai thí điểm Quyết định đầu tiên vào năm 2002 cho đến nay, ở Việt Nam cũng đã thành lập một số tổ chức XHTN cụ thể như sau: ❖ Công ty Thông tin Tín nhiệm và Xếp hạng Doanh nghiệp Việt Nam (VietnamCredit) hoạt động chuyên về thông tin tín nhiệm đầu tiên tại Việt Nam. Tiền thân là Công ty thông tin tín nhiệm và xếp hạng doanh nghiệp Việt Nam với số đăng ký kinh doanh No.0102012079 do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp ngày 13 tháng 4 năm 2004. Hoạt động chuyên biệt về thông tin tín nhiệm và xếp hạng doanh nghiệp trên nền công nghệ cao dưới tên giao dịch C&R Việt Nam. VietnamCredit độc lập khởi tạo và đăng ký dịch vụ cung cấp thông tin tín nhiệm và 21
- xếp hạng doanh nghiệp đầu tiên tại Việt Nam theo luật Doanh nghiệp và các luật pháp liên quan. Ngoài các chuyên gia quản lý với các cấp độ khác nhau, C&R Việt Nam có một hội đồng cố vấn và đội ngũ hơn 50 chuyên gia viết báo cáo tín nhiệm tại hai văn phòng Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. VietnamCredit là thành viên chính thức duy nhất tại Việt Nam của Cổng thông tin tín nhiệm châu Á – ASIAGATE (Asian Credit Information Gateway) [46] ❖ Công ty Cổ phần Xếp hạng Tín nhiệm Doanh nghiệp Việt Nam (CRV) được thành lập từ ngày 05/12/2006, đang phấn đấu trở thành nhà cung cấp tốt nhất các đánh giá tín nhiệm độc lập, đánh giá rủi ro, nghiên cứu ứng dụng, các dịch vụ đào tạo và tư vấn doanh nghiệp tại Việt Nam [23]. Có tiền thân là Trung tâm Đánh giá tín nhiệm Vietnamnet Ratings (CRV) thuộc Công ty Phần mềm và Truyền thông VASC ra mắt ngày 4/6/2005. Vietnamnet Ratings là tổ chức chuyên cung cấp cho thị trường các dịch vụ thu thập thông tin, đánh giá xếp hạng, XHTN của các tổ chức tài chính và xếp hạng DN. Quy trình đánh giá của công ty gồm hơn 100 chỉ tiêu tài chính và phi tài chính, được xử lý bởi phần mềm tính điểm với phương châm “Độc lập, khách quan và sát thực”. Phương pháp XHTN dựa trên cơ sở thống kê của CRV được cho là cần kho dữ liệu lớn và có thời gian tích lũy thông tin lâu dài. ❖ Bên cạnh đó, Trung tâm Khoa học thẩm định tín nhiệm doanh nghiệp (CRC) được thành lập theo Quyết định số 590/QĐ-LHH ngày 03 tháng 5 năm 2007 của đoàn Chủ tịch hội đồng Trung ương Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam. Trung tâm hoạt động theo Luật khoa học và công nghệ (năm 2000), được Bộ Khoa học và công nghệ cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động khoa học và công nghệ số: A-666 ngày 14 tháng 5 năm 2007 [39]. Hoạt động chính của CRC là thẩm định tín nhiệm doanh nghiệp gồm: đánh giá năng lực doanh nghiệp, đánh giá năng lực tài chính doanh nghiệp, đánh giá trình độ nhân lực, đánh giá các vấn đề khác (theo yêu cầu), xếp loại doanh nghiệp, xếp loại 10 doanh nghiệp đứng đầu ngành, thẩm định hệ số tín nhiệm vay vốn, CRC sử dụng công nghệ thẩm định được quốc tế chấp nhận rộng rãi. Các hoạt dộng này nhằm nâng cao uy tín cho các doanh nghiệp khi được xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp, góp phần công khai, minh bạch thông tin. ❖ Tại các ngân hàng thương mại: Ngày 08/02/2010, Ngân hàng Việt Nam Thương Tín (Vietbank) chính thức đưa vào hoạt động mô hình chấm điểm tín nhiệm bao gồm xếp hạng tín nhiệm cá nhân và xếp 22
- hạng tín nhiệm doanh nghiệp. Mô hình XHTN này ra đời nhằm phục vụ cho việc hoàn chỉnh hệ thống XHTN nội bộ theo Quyết định số 493/2005/QĐNHNN. Hệ thống XHTN này dựa trên những chỉ tiêu tài chính được thống kê từ báo cáo tài chính, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh trong vòng 2 năm gần nhất để tính toán lên những chỉ tiêu như chỉ tiêu thanh khoản, chỉ tiêu hoạt động, chỉ tiêu nợ và chỉ tiêu thu nhập. Ngoài những chỉ tiêu tài chính thì mô hình còn đề cao những chỉ tiêu phi tài chính như số lượng lao động, vốn điều lệ, ngành nghề kinh doanh của khách hàng (được thống kê trong 12 tháng). Ngân hàng công thương Việt Nam (Vietinbank) áp dụng mô hình và tiêu chí xếp hạng tín dụng khách hàng theo Quyết định QT.35.02 ngày 30/10/2006 của Tổng giám đốc Vietinbank theo nguyên tắc kết hợp song song hai chỉ tiêu tài chính và phi tài chính nhằm hạn chế sự chủ quan trong việc đánh giá đồng thời đưa ra kết quả chính xác hơn trong quá trình đánh giá. Mỗi nhóm chỉ tiêu tài chính đánh giá theo 3 quy mô (quy mô lớn, quy mô vừa và quy mô nhỏ). Việc phân chia quy mô theo từng doanh nghiệp được căn cứ trên một bảng chấm điểm quy mô doanh nghiệp được ngân hàng đưa ra bao gồm các tiêu chí được đánh giá như: nguồn vốn kinh doanh, lao động, doanh thu thuần và nộp ngân sách nhà nước. Ngân hàng phát triển nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long xây dựng mô hình XHTN với quy mô phân loại doanh nghiệp theo 6 nhóm với cùng các tiêu chí như vốn kinh doanh, doanh thu thuần, nộp ngân sách và lao động. Mô hình này xét về bản chất là khá giống với mô hình XHTN mà Ngân hàng nhà nước đưa ra trong Quyết định số 57/2001/QĐ-NHNN từ những chỉ tiêu cho đến đánh giá điểm và đưa ra các kết quả xếp hạng [21, tr. 32]. Ngày 26 tháng 09 năm 2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 88/2014/NĐ-CP quy định về dịch vụ xếp hạng tín nhiệm, điều kiện hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm được thành lập và hoạt động tại Việt Nam. Theo đó, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và công ty hợp danh là ba loại hình doanh nghiệp được kinh doanh dịch vụ xếp hạng tín nhiệm sau khi được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh [4]. Theo Quyết định số 507/QĐ-TTg ngày 17/04/2015 của Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch phát triển dịch vụ xếp hạng tín nhiệm đến 2020 và tầm nhìn đến 2030 của Thủ tướng Chính phủ vừa được ban hành, việc phát hành trái phiếu doanh 23
- nghiệp sẽ phải qua xếp hạng tín nhiệm kể từ năm 2020. Cũng theo Quyết định này, từ nay tới năm 2030, Bộ Tài chính sẽ xem xét và cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh cho tối đa 5 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xếp hạng tín nhiệm [9]. Ngày 21/7/2017, công ty Cổ phần Phát Thịnh Rating (Phatthinh Rating), một thành viên của Phát Thịnh Group, đã được Bộ Tài chính cấp giấy phép đủ điều kiện kinh doanh cung cấp dịch vụ xếp hạng tín nhiệm, trở thành tổ chức xếp hạng tín nhiệm đầu tiên ở Việt Nam. Cho đến nay, công ty Cổ phần Sài Gòn Phát Thịnh Rating là công ty xếp hạng tín nhiệm đầu tiên của Việt Nam được cấp phép hoạt động [45]. 1.2.4. Mô hình doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm Theo thời gian phát triển, trên thế giới hiện nay có ba loại hình doanh nghiệp XHTN: • Mô hình doanh nghiệp XHTN 100% vốn nước ngoài Loại hình doanh nghiệp này cho phép doanh nghiệp XHTN nước ngoài được thành lập và hoạt động dưới dạng mở chi nhánh tại nước sở tại hoặc đăng ký thành lập công ty. Mô hình này thường chỉ có một pháp nhân đứng ra thành lập hoặc có hai pháp nhân nước ngoài. Để mô hình này có thể đi vào hoạt động đòi hỏi phải có một thị trường trái phiếu phát triển nhất định và có sự đầu tư lớn từ trong nước cũng như quốc tế. • Mô hình công ty liên doanh với nhà đầu tư nước ngoài Mô hình này do các doanh nghiệp XHTN nội địa và doanh nghiệp XHTN nước ngoài cùng thiết lập liên doanh để khai thác một số dịch vụ của XHTN. Để xây dựng mô hình thì đối tác trong nước phải là một tổ chức tài chính hoặc một doanh nghiệp đã rất am hiểu về hoạt động của doanh nghiệp XHTN mới phát huy được vai trò của nó và tránh không bị đối tác nước ngoài chi phối. • Mô hình công ty cổ phần có sự tham gia của các cổ đông chiến lược nước ngoài Doanh nghiệp XHTN trong mô hình này đóng vai trò là một công ty cổ phần, trong đó ngoài các cổ đông trong nước còn có sự tham gia của các cổ đông chiến lược nước ngoài. Họ là những nhà đầu tư lớn, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc chuyển giao công nghệ đào tạo nhân sự và cử người điều hành doanh nghiệp. Trong mô hình này không có sự phân biệt đối xử giữa cổ đông trong nước và nước ngoài về tỷ lệ sở 24
- hữu. Nguyên tắc phân bổ tỷ lệ sở hữu là tùy thuộc vào vai trò của từng nhà đầu tư trong việc hình thành sự ra đời và hoạt động của doanh nghiệp XHTN. XHTN là gồm cả đánh giá định tính và định lượng về sức mạnh tín dụng của người phát hành. Người phát hành có thể là các doanh nghiệp, chính quyền địa phương thậm chí là cả một quốc gia trong trường hợp phát hành nợ của chính phủ. Doanh nghiệp XHTN đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của thị trường tài chính. 1.2.5. Các hình thức kinh doanh dịch vụ của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm Hoạt động của các doanh nghiệp XHTN rất đa dạng với nhiều hình thức và dịch vụ khác nhau. • Cung cấp thông tin tín nhiệm doanh nghiệp: Đây là dịch vụ mà các doanh nghiệp XHTN có nghĩa vụ sẽ thường xuyên xếp hạng tín nhiệm các công ty có yêu cầu được XHTN nhằm phục vụ cho nhà đầu tư của công ty. Trong suốt thời gian hiệu lực của hợp đồng, doanh nghiệp XHTN sẽ luôn cập nhật thông tin, theo sát các công ty và những sự phát triển có ảnh hưởng kết quả xếp hạng nhằm đảm bảo quá trình XHTN hoàn thành một cách chính xác. Ít nhất một năm một lần, các doanh nghiệp XHTN phải đánh giá lại mỗi công ty. • Đánh giá tín nhiệm và xếp hạng doanh nghiệp: Ở hầu hết các nước phát triển và nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á đã có các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực này. Đánh giá tín nhiệm hay xếp hạng tín nhiệm là việc đánh giá khả năng đáp ứng các nghĩa vụ nợ của một công ty, hay đánh giá mức độ rủi ro gắn liền với các loại đầu tư khác nhau. Mục đích của việc xếp hạng doanh nghiệp là đưa ra ý kiến đánh giá về khả năng thực hiện một nghĩa vụ tài chính đối với các doanh nghiệp thường sử dụng vốn kinh doanh từ nhiều nguồn khác nhau, từ các nhà đầu tư, các ngân hàng hay từ nguồn vốn của các nhà cung cấp. Vì vậy mà đánh giá tín nhiệm và xếp hạng doanh nghiệp rất cần thiết cho nền kinh tế, đặc biệt là đối với hoạt động của ngân hàng [24]. 1.2.6. Nguyên tắc hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm Tháng 9 năm 2003, Ủy ban kỹ thuật của IOSCO công bố Bản Tuyên bố Nguyên tắc về hoạt động của các tổ chức xếp hạng tín dụng (IOSCO CRA). Các nguyên tắc này được thiết kế để trở thành một công cụ hữu ích cho các nhà quản lý chứng khoán, các tổ chức xếp hạng tín dụng và những người khác muốn hiểu rõ các điều khoản và điều kiện mà doanh nghiệp XHTN hoạt động và cách thức sử dụng các 25
- ý kiến xếp hạng của họ. Các nguyên tắc của IOSCO CRA giải quyết bốn mục tiêu chính được thiết kế để thúc đẩy các phân tích và ý kiến nhận thức, độc lập của các doanh nghiệp XHTN. Điều này đến lượt nó, được thiết kế để thúc đẩy ba mục tiêu cốt lõi của các quy định chứng khoán xác định bởi IOSCO: bảo vệ các nhà đầu tư; đảm bảo rằng thị trường là công bằng, hiệu quả và minh bạch; và giảm rủi ro hệ thống [49]. Bốn mục tiêu của Nguyên tắc CRA IOSCO là: • Chất lượng và tính toàn vẹn của quá trình đánh giá tín dụng – doanh nghiệp XHTN nên cố gắng đưa ra các ý kiến giúp giảm thiểu sự không đối xứng của thông tin giữa các bên vay, bên cho vay và các bên tham gia thị trường khác; • Sự độc lập và tránh xung đột lợi ích - Các quyết định đánh giá của doanh nghiệp XHTN phải độc lập và không gây áp lực về chính trị và kinh tế và xung đột lợi ích phát sinh do cơ cấu sở hữu, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động tài chính của doanh nghiệp XHTN, hoặc lợi ích tài chính của nhân viên. Doanh nghiệp XHTN nên tránh xa các hoạt động, các thủ tục hoặc các mối quan hệ có thể gây tổn hại hoặc làm ảnh hưởng đến tính độc lập và khách quan của các hoạt động đánh giá tín nhiệm; • Tính minh bạch và kịp thời của việc công bố xếp hạng - các doanh nghiệp XHTN nên công bố và minh bạch một mục tiêu của các hoạt động xếp hạng; và • Thông tin bí mật – doanh nghiệp XHTN phải duy trì sự tự tin tất cả các thông tin phi công được truyền đạt bởi bất kỳ công ty phát hành hoặc đại lý nào của họ theo các điều khoản của thỏa thuận giữ bí mật hoặc theo cách khác để hiểu rằng thông tin được chia sẻ bí mật. Các nguyên tắc là các mục tiêu mà các doanh nghiệp XHTN, các nhà quản lý, các đơn vị được đánh giá, các bên có liên quan, các nhà tổ chức, và các bên tham gia thị trường khác nên cố gắng hướng tới việc cải thiện bảo vệ nhà đầu tư và sự công bằng, hiệu quả và minh bạch của thị trường chứng khoán và giảm rủi ro hệ thống. Nguyên tắc áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp XHTN hoạt động trong các khu vực khác nhau. Tuy nhiên, để tính đến các trường hợp thị trường, luật pháp và quy định khác nhau, các mô hình và mô hình kinh doanh khác nhau của doanh nghiệp XHTN thì cách thức áp dụng các nguyên tắc đã được để mở. Các nguyên tắc dự tính rằng có thể sử dụng nhiều cơ chế, bao gồm cả cơ chế thị trường và quy định pháp luật [48, pg. 4]. 26
- 1.3. Pháp luật xếp hạng tín nhiệm tại một số quốc gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. 1.3.1. Bộ Nguyên tắc cơ bản về hoạt động của tổ chức xếp hạng tín nhiệm 1.3.1.1. Giới thiệu về Uỷ ban Chứng Khoán Quốc tế và Bộ Nguyên tắc cơ bản về hoạt động của tổ chức xếp hạng tín nhiệm Tổ chức Ủy ban Chứng khoán Quốc tế (IOSCO) được thành lập vào năm 1983 là cơ quan quốc tế tập hợp các cơ quan quản lý chứng khoán của thế giới và được công nhận là một tổ chức chuẩn mực toàn cầu cho ngành chứng khoán. IOSCO phát triển, thực hiện và thúc đẩy tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế được công nhận về quy định chứng khoán. Tổ chức này hoạt động tích cực với G20 và Hội đồng ổn định về tài chính (FSB) trong chương trình cải cách quy định toàn cầu [59]. Tháng 9 năm 2003, Ủy ban kỹ thuật của IOSCO công bố Bản Tuyên bố Nguyên tắc về hoạt động của các Cơ quan xếp hạng tín dụng ("Các nguyên tắc của IOSCO về cơ quan XHTN"). Các nguyên tắc này được thiết kế để trở thành một công cụ hữu ích cho nhà quản lý chứng khoán, cơ quan/ tổ chức/ doanh nghiệp XHTN và những người khác có nhu cầu hiểu rõ các điều khoản và điều kiện theo đó tổ chức XHTN hoạt động và cách thức mà XHTN của họ nên nên sử dụng bởi những người tham gia thị trường. Sau một quá trình áp dụng, bộ nguyên tắc này được sửa đổi, bổ sung, góp ý nhiều lần trở thành Bộ Nguyên tắc cơ bản về hoạt động của tổ chức xếp hạng tín nhiệm (IOSCO CODE) và được sửa đổi gần đây nhất là vào tháng 3 năm 2015. Về mặt cấu trúc, IOSCO CODE chia thành 5 phần : • Chất lượng và tính toàn vẹn của quy trình xếp hạng; • Sự độc lập và tránh các xung đột lợi ích của tổ chức XHTN; • Trách nhiệm của tổ chức XHTN với các bên có liên quan; • Quản trị, quản lý rủi ro, và đào tạo nhân viên; và • Công bố và truyền thông với những người tham gia thị trường. 1.3.1.2. Nội dung Bộ Nguyên tắc cơ bản về hoạt động của tổ chức xếp hạng tín nhiệm - Chất lượng và tính toàn vẹn của quy trình xếp hạng: Để đảm bảo chất lượng và tính toàn vẹn của quy trình XHTN, doanh nghiệp XHTN chấp thuận, tuân thủ những điều sau: 27
- (i) Thiết lập, duy trì, lập hồ sơ và thực thi phương pháp đánh giá cho từng loại đối tượng hoặc nghĩa vụ. Mỗi phương pháp cần phải nghiêm ngặt, có khả năng áp dụng một cách nhất quán, và nếu có thể, kết quả xếp hạng có thể phải chịu một số hình thức xác nhận khách quan dựa trên kinh nghiệm lịch sử; (ii) Xếp hạng phải phản ánh tất cả các thông tin đã biết và được cho là phù hợp với doanh nghiệp xếp hạng, phù hợp với các phương pháp đánh giá tín dụng hiện hành. Do đó, doanh nghiệp cần thiết lập, duy trì các tài liệu và thực thi các chính sách, thủ tục và kiểm soát nhằm đảm bảo rằng các XHTN và các báo cáo liên quan mà nó công bố được dựa trên việc phân tích kỹ lưỡng tất cả các thông tin đó; (iii) Áp dụng các biện pháp được thiết kế hợp lý có tham vấn chuyên gia để đảm bảo rằng nó có chất lượng áp dụng cao; (iv) Tránh phát hành XHTN cho các đơn vị hoặc nghĩa vụ tài chính mà không có thông tin, kiến thức và chuyên môn phù hợp; (v) Phương pháp đánh giá tín nhiệm nên được áp dụng theo cách nhất quán trên tất cả các thực thể hoặc nghĩa vụ mà phương pháp đó được sử dụng; (vi) Xác định ý nghĩa của từng mức xếp hạng trong thang điểm đánh giá và áp dụng các loại này một cách nhất quán trên tất cả các loại thực thể được đánh giá và nghĩa vụ mà một thang đo đánh giá nhất định áp dụng; (vii) XHTN phải được phê duyệt dưới tư cách của doanh nghiệp; (viii) Chỉ định các nhà phân tích, từng cá nhân hoặc tập thể (Hội đồng đánh giá xếp hạng) có kiến thức và kinh nghiệm thích hợp; (ix) Duy trì hồ sơ nội bộ chính xác và đầy đủ chi tiết và toàn diện để tái thiết quá trình XHTN đối với một hành động đánh giá mức tín dụng nhất định. Các hồ sơ phải được giữ lại cho đến khi cần thiết để thúc đẩy tính toàn vẹn của quá trình xếp hạng tín dụng, bao gồm để cho phép kiểm toán nội bộ, tuân thủ và các chức năng kiểm soát chất lượng để xem lại các hành động đánh giá tín dụng trong quá khứ để thực hiện trách nhiệm của các chức năng đó. Hơn nữa, doanh nghiệp cần thiết lập, duy trì, tài liệu và thực thi các chính sách, thủ tục và kiểm soát được thiết kế để đảm bảo rằng nhân 28
- viên của doanh nghiệp tuân thủ các yêu cầu bảo trì, duy trì và bố trí hồ sơ lưu trữ nội bộ; (x) Cần đảm bảo rằng nó đã và dành các nguồn lực đủ để thực hiện và duy trì XHTN có chất lượng cao ; (xi) Cần thiết lập và duy trì chức năng đánh giá của một hoặc nhiều nhà quản lý cấp cao có kinh nghiệm thích hợp để xem xét tính khả thi của việc cung cấp xếp hạng tín dụng đối với một loại thực thể hoặc nghĩa vụ khác với các thực thể hoặc nghĩa vụ tài chính . [48, pg. 5]. - Tính độc lập và tránh xung đột lợi ích: Tính độc lập có thể bị tổn hại bởi số tiền doanh thu mà doanh nghiệp XHTN có được từ các nhà phát hành mà mình xếp hạng. Để tránh điều này, doanh nghiệp XHTN: (i) Không nên trì hoãn hoặc không thực hiện hành động xếp hạng tín dụng dựa trên tác động tiềm ẩn (kinh tế, chính trị, hoặc khác) của hành động xếp hạng đối với tổ chức được xếp hạng, chủ nợ, người khởi tạo, người bảo lãnh, nhà đầu tư hoặc các chủ thể tham gia thị trường khác; phải sử dụng đánh giá cẩn thận và chuyên nghiệp để duy trì cả tính chất và lượng của doanh nghiệp, sự độc lập và tính khách quan của nhân viên; (ii) Việc xác định XHTN của doanh nghiệp chỉ nên chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố liên quan đến việc đánh giá khả năng tín dụng của tổ chức phát hành hoặc các công cụ tài chính khác; (iii) Việc đánh giá tín nhiệm của một doanh nghiệp XHTN đối với một tổ chức hoặc công cụ nợ không nên bị ảnh hưởng bởi mối quan hệ giữa doanh nghiệp (hoặc các chi nhánh của doanh nghiệp ) với tổ chức được đánh giá, người có nghĩa vụ, nhà phát hành, người bảo lãnh hoặc doanh nghiệp bảo hiểm (hoặc bất kỳ của các chi nhánh của họ), hoặc bất kỳ bên nào khác; (iv) Doanh nghiệp XHTN phải hoạt động trong lĩnh vực xếp hạng một cách hợp pháp và nếu có thể thì tách biệt giữa ngành nghề kinh doanh xếp hạng tín nhiệm với các ngành nghề kinh doanh khác của doanh nghiệp XHTN. Đối với các ngành nghề kinh doanh không thể hiện xung đột lợi ích,doanh nghiệp cũng cần thiết lập, duy trì và thực thi các tài liệu, chính sách, thủ 29
- tục và kiểm soát để giảm thiểu khả năng xảy ra mâu thuẫn lợi ích [48, pg. 9] - Trách nhiệm của doanh nghiệp XHTN với các chủ thể có liên quan: Những người có liên quan ở đây bao gồm: công chúng tham gia đầu tư, các doanh nghiệp được đánh giá, chủ nợ, doanh nghiệp bảo hiểm, nhà bảo lãnh. Liên quan đến vấn đề này thì doanh nghiệp XHTN cần đảm bảo hai yếu tố là (i) tính minh bạch và kịp thời của việc công bố báo cáo XHTN và (ii) việc xử lý thông tin bảo mật [48, pg. 12]. - Quản trị, quản lý rủi ro, và đào tạo nhân viên: Doanh nghiệp XHTN nên tạo lập và duy trì những tài liệu hay quy định bắt buộc để thực thi những quy định trong Bộ Nguyên tắc. Doanh nghiệp XHTN cũng nên bổ nhiệm một nhân viên hoặc một nhà quản lý chuyên biệt để thực hiện nhiệm vụ quản lý rủi ro. Người này cần có kinh nghiệm chuyên môn trong lĩnh việc phát hiện, truy cập, kiểm soát, báo cáo rủi ro phát sinh từ các hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm nhưng không giới hạn rủi ro pháp lý, rủi ro về uy tín, rủi ro trong quá trình hoạt động và rủi ro chiến lược . Doanh nghiệp XHTN cần tạo lập, duy trì và thi hành những tài liệu, chính sách, thủ tục để đào tạo nhân viên về các vấn đề như quy tắc ứng xử, các phương pháp đánh giá, pháp luật về hoạt động của doanh nghiệp, - Công bố và truyền thông với những người tham gia thị trường: Những thông tin mà doanh nghiêp XHTN công bố cần phải đảm báo tính hoàn chỉnh, chính xác, công bằng và dễ hiểu đối với các nhà đầu tư và những đối tượng sử dụng khác; Doanh nghiệp XHTN cũng cần thiết lập và duy trì một vi trí trong công ty với trách nhiệm tiếp nhận, đánh giá và xử lý khiếu nại từ những người tham gia thị trường hay công chúng. Doanh nghiệp cần phải công khai các thông tin sau đây trên trang web của mình: nguyên tắc xếp hạng, mô tả chi tiết về phương pháp XH, thông tin về lịch sử dữ liệu hay bất kỳ các quy định về công khai theo quy định của Bộ Nguyên tắc mà được áp dụng theo mô hình kinh doanh của doanh nghiệp XHTN [48, pg. 15] 1.3.1.3. Nội dung học tập cho Việt Nam. 30
- Bộ Nguyên tắc này được coi như “luật mềm” điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp XHTN trên toàn cầu. Việt Nam có thể học hỏi cách mà Bộ Nguyên tắc khuyến nghị để gaiir quyết các vấn đề về đảm bảo tính minh bạch và chính xác, tránh được sự xung đột lợi ích trong XHTN và cách quản trị, vận hành doanh nghiệp tốt. Những vận dụng này sẽ được cụ thể hóa trong Chương III. 1.3.2. Pháp luật điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm của Mỹ Có một sự thật cần phải thừa nhận rằng trong nền tài chính Mỹ, các doanh nghiệp XHTN có một vai trò rất quan trọng. Do tổng tài sản quỹ đầu tư thị trường tiền tệ của Mỹ tính đến hết ngày 31/12/2017 là 3,125.5 nghìn tỷ đô la Mỹ nên tầm quan trọng của XHTN và cơ quan XHTN tốt đối với các nhà đầu tư không phải là vấn đề cường điệu. Trước đây, Standard&Poor’s, Moody’s và Fitch vẫn luôn được xem là những “tòa tháp ngà” của Phố Wall, đánh giá của các tổ chức này vẫn được giới đầu tư xem là những thông tin xác đáng.Tuy nhiên, kể từ sau khi khủng hoảng tài chính 2007-2009 nổ ra, nhiều ý kiến đã thể hiện thái độ nghi ngờ sâu sắc đối với đánh giá của các tổ chức đánh giá tín nhiệm, ít nhất là ở góc độ đối với các loại chứng khoán phát hành dựa trên nợ dưới chuẩn có gốc gác ở Mỹ. Khóa luận sẽ tập trung phân tích hai đạo luật chính trong việc điều chỉnh hoạt động của tổ chức XHTN ở Mỹ là Đạo luật cải cách Cơ quan xếp hạng tín dụng năm 2006 - the Credit Rating Agency Reform Act 2006 (“Đạo luật Cải cách năm 2006”) và Đạo luật Cải cách phổ Wall và Bảo vệ người tiêu dùng Dodd-Frank năm 2010 - the Dodd-Frank Wall Street Reform and Consumer Protection Act 2010 (“Đạo luật Dood – Frank”) 1.3.2.1. Đạo luật Cải cách cơ quan xếp hạng tín dụng năm 2006 - Bối cảnh ra đời: Kể từ đầu thế kỷ XX, các cơ quan XHTN đã công bố xếp hạng về khả năng trả nợ của nhà phát hành. Cuộc suy thoái kinh tế vào đầu những năm 200 và thực tế là các cơ quan XHTN không dự đoán chính xác các sự kiện của Enron và WorldCom là một nhu cầu nảy sinh để cải cách thực tiễn ngành công nghiệp XHTN ở Mỹ. Kỳ vọng đối với Đạo luật Cải cách là nó sẽ cải thiện chất lượng xếp hạng tín dụng, do đó bảo vệ các nhà đầu tư và hành động vì lợi ích công cộng bằng cách thúc đẩy tính trách nhiệm, minh bạch và cạnh tranh trong ngành đánh giá tín nhiệm. Vào ngày 29 tháng 9 năm 31
- 2006, Tổng thống George W. Bush đã hành động nhanh chóng bằng cách ký Đạo luật Cải cách và có hiệu lực chỉ ba tuần sau khi ký [55, pg. 95]. - Sơ lược về nội dung: Đạo luật có cấu trúc gồm 7 mục với các nội dung liên quan đến việc phát hành và sử dụng XHTN - các ý kiến của các cơ quan XHTN về khả năng và sự sẵn lòng của một tổ chức phát hành để thanh toán kịp thời các công cụ nợ mà nó đã phát hành trong suốt thời gian tồn tại của công cụ đó. Nhà đầu tư sử dụng XHTN để giúp đánh giá rủi ro tín dụng đối với các công cụ nợ và tổ chức phát hành. Các cơ quan xếp hạng lớn nhất, Standard & Poor's và Moody's, đánh giá phần lớn các công cụ nợ và các cổ phiếu được giao dịch công khai trong Hoa Kỳ. Đạo luật không tập trung vào các dịch vụ khác được cung cấp bởi các cơ quan XHTN - chẳng hạn như xếp hạng sức mạnh tài chính hoặc các phân tích rủi ro khác - trừ trường hợp cung cấp các dịch vụ đó có thể ảnh hưởng đến tính độc lập và khách quan của kết quả XHTN. Trong số rất nhiều cơ quan đánh giá hiện đang kinh doanh trên toàn cầu, tính đến nay chỉ có 10 doanh nghiệp XHTN được Uỷ ban Chứng khoán và Giao dịch Hoa Kỳ (“SEC”) công nhận là các Tổ chức đánh giá tín dụng được công nhận trên toàn quốc ("NRSRO") - Standard and Poor's, Moody's, Fitch, Dominion Bond, A.M.Best, Egan-Jones, HR Ratings, Japan Credit Rating Agency, Kroll Bond Rating Agency và Morningstar Credit Ratings [64]. Một số quy định liên bang và tiểu bang (cũng như các thỏa thuận tư nhân khác) yêu cầu sử dụng các kết quả xếp hạng của NRSRO liên quan đến các quyết định đầu tư nhất định. - Quá trình công nhận một NRSRO: Đạo luật nhằm tăng số lượng NRSRO (và do đó tăng cạnh tranh giữa các đánh giá của doanh nghiệp XHTN) bằng cách luật hóa quá trình công nhận. Mặc dù SEC trước đây đã chỉ định NRSRO thông qua quy trình chấp thuận bằng thư, SEC đã không bao giờ công bố các quy tắc chính thức về việc công nhận NRSRO hoặc tiêu chí đánh giá. Tuy nhiên, kể từ khi Đạo luật Cải cách năm 2006 có hiệu lực, các doanh nghiệp XHTN có thể làm hồ sơ yêu cầu công nhận là NRSRO trong đó bao gồm: thông tin về kết quả XHTN trong một khoảng thời gian; các thủ tục nội bộ và phương pháp XHTN; các chính sách và thủ tục để ngăn ngừa việc lạm dụng các tài sản hay thông tin nội bộ; cách chống lại các xung đột lợi ích; cơ cấu tổ chức; quy tắc đạo đức; những xung đột lợi ích tiềm ẩn; và danh sách 20 khách hàng lớn nhất và doanh thu nhận 32
- được [50, Sec.4.(a).(1)]. Ngoài ra, doanh nghiệp muốn được công nhận là NRSRO sẽ được yêu cầu gửi văn bản xác nhận của người mua/nhà đầu tư không thuộc tổ chức liên kết với doanh nghiệp đã sử dụng kết quả XHTN của doanh nghiệp trong ít nhất 3 năm. Chứng chỉ này không bắt buộc đối với NRSRO được công nhận trước khi thông qua Đạo luật. Đạo luật quy định rằng chứng nhận của doanh nghiệp XHTN với tư cách là NRSRO có thể bị đình chỉ hoặc thu hồi nếu Ủy ban xác định rằng nó sẽ là vì lợi ích công cộng để làm như vậy và một trong những điều sau đây xảy ra: (i) Doanh nghiệp XHTN hoặc bất kỳ người nào có liên quan đến đã cam kết tội phạm đã bị kết án, đã bị kết án về một tội có thể bị phạt tù một năm hoặc nhiều hơn; (ii) Cơ quan đánh giá không cung cấp chứng nhận hàng năm cho SEC rằng các thông tin- phù hợp với ứng dụng của nó là chính xác; hoặc là (iii) Cơ quan đánh giá không đủ khả năng quản lý và duy trì đủ nguồn tài chính. [50, Sec. 4.(d)] - Giám sát NRSRO: Ngoài các thay đổi trong quy trình công nhận NRSRO, Đạo luật yêu cầu SEC phải tiến hành các quy trình đưa ra luật lệ về việc thông qua các chính sách và thủ tục cụ thể để ngăn chặn việc sử dụng sai tài sản, thông tin nội bộ và cách quản lý những xung đột lợi ích tiềm tàng. Ngoài ra, Đạo luật yêu cầu SEC ra quyết định cuối cùng để ngăn cấm các hành vi mà SEC, sau một quy trình xây dựng luật, xác định là "không công bằng, cưỡng ép, hoặc lạm dụng". [50, Sec.4.(i).(1)]. - Vấn đề cạnh tranh: Đạo luật vẫn chưa thật sự cung cấp con đường để khuyến khích cạnh tranh trên thị trường. Liệu cạnh tranh có nên được ưu tiên hơn xung đột lợi ích, vì xung đột lợi ích chỉ có thể quản lý được chứ không phải là tận diệt. Hạn chế lớn nhất của Big Two KPMG và Price waterhouse Coopers (PwC) và các công ty kế toán khác ở Hoa Kỳ muốn trở thành một chỗ đứng vững chắc trong thị trường xếp hạng tín dụng là trở ngại do xung đột lợi ích kể từ khi các khách hàng mà họ kiểm toán cũng là những người trả tiền cho họ. Mặc dù các công ty này đã có kỹ thuật và chuyên môn ngành công nghiệp và kiến thức để có được công việc làm, nó chỉ là một vấn đề xử lý các thông tin theo một cách mới. Những gì KPMG đã làm là xem xét động thái thụ động như vậy hơn là chủ động thảo luận về nó, mặc dù nó có các kỹ năng, kiến thức và con 33
- người để cung cấp xếp hạng tín dụng. Giá trị mà KPMG, PwC và các kiểm toán viên khác có thể bổ sung vào xếp hạng tín dụng là cung cấp phản hồi chủ quan về vị trí của công ty chứ không phải là danh sách thống kê và số liệu. KPMG nhận thức được xung đột lợi ích, và điều này có thể khiến họ không thể vào thị trường ngay lập tức, nhưng họ là những người đánh giá tiềm năng nếu họ muốn tham gia vào thị trường trong tương lai. Theo KPMG, các kiểm toán viên cần phải có những đánh giá về những rắc rối trong kinh doanh cũng như những đánh giá lạc hậu về số doanh nghiệp, và đây sẽ là một bước tiến tới việc cải thiện quá trình xếp hạng tín dụng. "Đó là điều mà chúng tôi [KPMG] nói về một điều hợp lý để làm. Đó là một điều hiệu quả mà chúng tôi [KPMG] sẽ thành thạo khi làm nhưng hiện tại nó không nằm trong chương trình nghị sự " [61]. Nên nhớ rằng có ba doanh nghiệp XHTN lớn và có 4 công ty kế toán Big Four , tổng cộng sẽ có bảy công ty lớn cung cấp dịch vụ đánh giá và cạnh tranh với nhau. Điều này chỉ có thể xảy ra khi các công ty kế toán ở Mỹ và Anh áp dụng và được phép đăng ký làm NRSRO để mở ra sự cạnh tranh trong thị trường xếp hạng. Trong khi cả CRA và các công ty kế toán đều có mâu thuẫn về lợi ích, thì các công ty kế toán, hoạt động như kiểm toán viên và kiểm toán tài khoản của các công ty, đã có thêm lợi thế so với CRA. Lợi thế là, đầu tiên, các công ty kế toán lớn hiểu rõ hơn về khía cạnh hoạt động và khả năng hoạt động của công ty như là một vấn đề liên quan đến việc trả nợ. Thứ hai, trách nhiệm pháp lý của các công ty kế toán trong sự sơ suất được biết đến và ghi lại trong các tuyên bố tư pháp, và không giống như các doanh nghiệp XHTN, họ có đủ sức cản trở dưới hình thức trách nhiệm sơ suất trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với khách hàng và bên thứ ba, và điều này đảm bảo họ thực hiện công việc của mình một cách có trách nhiệm [65]. 1.3.2.2. Đạo luật Cải cách phổ Wall và Bảo vệ người tiêu dùng Dodd-Frank năm 2010 - Bối cảnh ra đời: Lý do ra đời Đạo luật Dodd-Frank bắt nguồn từ nhận thức lại của chính giới Mỹ về vai trò của bàn tay nhà nước và từ thực tiễn kinh tế-tài chính Mỹ suốt 3 thập kỷ trước đó. Cuộc khủng hoảng tài chính từ năm 2008 -nay, đã chỉ ra những điểm yếu cố hữu của hệ thống tài chính Mỹ nói riêng, và cơ chế kinh tế thị trường hiện hành của Mỹ nói riêng. Đạo luật Dodd-Frank có tên đầy đủ là Dodd-Frank Wall Street 34
- Reform and Consumer Protection Act, là một đạo luật dài 2.300 trang được chính quyền Obama thông qua vào ngày 21/7/ 2010 [41]. - Sơ lược về nội dung liên quan đến doanh nghiệp XHTN: Đạo luật Cải cách Phố Wall và Bảo vệ người tiêu dùng Dodd-Frank tăng cường cơ chế thực thi của SEC và bổ sung một số yêu cầu về NRSRO và có hiệu lực ngay lập tức (tức là không phụ thuộc vào việc lập nên nguyên tắc của SEC). Đạo luật Dodd- Frank cũng yêu cầu Ủy ban thông qua một số quy định mới liên quan đến: (i) Báo cáo hàng năm về kiểm soát nội bộ; (ii) Xung đột lợi ích liên quan đến hoạt động bán hàng và tiếp thị; (iii) "Sự đánh giá" khi các nhà phân tích tín dụng rời khỏi NRSRO; (iv) Tiền phạt và hình phạt; (v) Tiết lộ thống kê hiệu suất; (vi) Áp dụng và công bố các phương pháp đánh giá tín nhiệm; (vii) Hình thức tiết lộ dữ liệu và các giả định dựa trên xếp hạng tín dụng, trong số những thứ khác; (viii) Tiết lộ về sự cẩn trọng của bên thứ ba; (ix) Đào tạo và thử nghiệm chuyên gia; (x) Áp dụng các biểu tượng đánh giá và định nghĩa phù hợp; Ngoài ra, Đạo luật Dodd-Frank yêu cầu tất cả các cơ quan liên bang phải xem xét các quy định hiện hành đòi hỏi phải sử dụng đánh giá về tính tín nhiệm tín dụng của công cụ bảo đảm và bất kỳ tham chiếu nào đến xếp hạng tín dụng trong các quy định đó; để sửa đổi các quy định như đã được xác định trong tổng quan để loại bỏ bất kỳ tài liệu tham khảo hoặc yêu cầu dựa vào xếp hạng tín dụng; thay thế bằng tiêu chuẩn về tính xứng đáng về tín dụng do cơ quan xác định phù hợp với quy định đó [63]. - Giảm sự phụ thuộc vào kết quả XHTN: Cuộc khủng hoảng tài chính đã chứng minh rằng sự phụ thuộc vào xếp hạng tín dụng có thể là nguyên nhân dẫn đến hành vi lạm dụng đầu cơ, gây ảnh hưởng đến toàn hệ thống tài chính. Khi áp dụng Mục 939A trong Đạo luật, Quốc hội dự định "giảm sự phụ thuộc vào xếp hạng tín dụng". Nó dẫn đến sự thay thế của bất kỳ tài liệu tham khảo hoặc yêu cầu phụ thuộc vào xếp hạng tín dụng trong một quy định với tiêu chuẩn về tín dụng. Nó cũng dẫn đến việc loại bỏ các tham chiếu đến xếp hạng tín 35
- dụng trong các quy tắc và các mẫu được ban hành theo Luật Chứng khoán năm 1933 và Đạo luật Ngoại hối năm 1934. Rất khó để dự đoán liệu các gợi ý thay thế về việc thay thế các tiêu chuẩn tín dụng, nhà đầu tư phát triển đánh giá rủi ro tín dụng của riêng họ hay các quy trình kiểm định sẽ dẫn đến những quyết định đầu tư tốt hơn. Ngoài ra, các tiêu chuẩn thay thế có thể có những kết quả không mong muốn như cung cấp ít sự bảo vệ cho người tham gia thị trường và sự hoài nghi về việc kết quả sử dụng liệu có tốt hơn các XHTN của các doanh nghiệp XHTN không [55, pg.124]. - Trách nhiệm: Khi các doanh nghiệp XHTN không thể đảm bảo sự độc lập thì thị trường chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng. Rủi ro quá mức của sự quản lý khiến các nhà đầu tư phải chịu lỗ; doanh nghiệp XHTN đã “quảng cáo” cho các khoản vay thế chấp dưới chuẩn để đa dạng hoá và do đó giảm rủi ro, trong khi rủi ro thật sự của họ thường ít được hiểu và lớn hơn nhiều so với xếp hạng tín dụng của họ. Quốc hội lưu ý rằng trong một số hoạt động khác, như "tư vấn cho các nhà tổ chức các sản phẩm tài chính có cấu trúc về xếp hạng tiềm năng", các doanh nghiệp XHTN phải đối mặt với mâu thuẫn về lợi ích và vì vậy cần phải theo dõi cẩn thận và cần phải giải quyết rõ ràng vấn đề này trong luật pháp yêu cầu SEC phải có một cơ quan quản lý rõ ràng. Quốc hội yêu cầu tăng trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp vì nó "minh chứng cho giám sát cộng đồng và trách nhiệm giải trình" giống như những người giữ cửa”. Mỗi NRSRO phải: (a) Thiết lập và lập hồ sơ các chính sách và thủ tục nội bộ để xác định xếp hạng tín dụng, (b) phân chia nhân viên bán hàng và tiếp thị của mình và các nỗ lực từ hoạt động xếp hạng tín dụng theo các quy tắc do SEC phát hành và (c) có nhân sự riêng để theo dõi việc tuân thủ các chính sách, thủ tục và quy tắc này. Các NRSRO có nhiệm vụ báo cáo chuyển tiếp tới SEC trong những trường hợp nhất định [51, Sec.931.(4).(C)]. - Sửa đổi quy trình XHTN: Mục C của Dodd-Frank quy định các quy định mới liên quan đến các thủ tục XHTN và phương pháp luận. Để tăng tính minh bạch trong quá trình xếp hạng,doanh nghiệp sẽ phải sử dụng một mẫu chuẩn và công bố công khai phương pháp đánh giá, mô tả dữ liệu của người phát hành được xem xét trong quá trình đánh giá và bất kỳ 36
- thông tin bổ sung nào mà SEC có thể yêu cầu. Để tạo thuận lợi cho việc so sánh giữa các cơ quan xếp hạng, mỗi cơ quan sẽ được yêu cầu định kỳ tiết lộ thông tin thể hiện, trong nhận thức, mức độ chính xác của xếp hạng tín dụng trước đó. Để mở rộng phạm vi thông tin được xem xét trong việc xác định xếp hạng tín dụng, doanh nghiệp XHTN phải xem xét các thông tin đáng tin cậy và đáng kể từ các nguồn không phải là tổ chức phát hành. Dodd-Frank cũng yêu cầu SEC nghiên cứu các vấn đề liên quan đến quá trình đánh giá tín dụng đối với các sản phẩm tài chính có cấu trúc. SEC ban hành các quy định mới liên quan đến đại diện và bảo đảm trong việc chào bán chứng khoán có tài sản bảo đảm. - Thành lập cơ quan quản lý XHTN (OCR) Điều 932.(p).(1) Mục C của Dodd-Frank yêu cầu SEC thành lập Cơ quan quản lý XHTN (OCR) với các mục đích đã nêu nhằm bảo vệ người sử dụng xếp hạng tín dụng, thúc đẩy tính chính xác trong xếp hạng tín dụng và đảm bảo rằng các xếp hạng được phát hành không có xung đột lợi ích [51, Sec. 932.(p).(1)]. Nhiệm vụ của OCR liên quan đến việc quản lý các quy tắc SEC bao gồm các thực tiễn xác định XHTNcủa NRSRO, thúc đẩy tính chính xác của XHTN NRSRO và đảm bảo rằng các XHTN do NRSRO không có xung đột lợi ích. OCR được yêu cầu kiểm tra mỗi NRSRO hàng năm, công bố các báo cáo kiểm tra và xuất bản báo cáo về những phát hiện cơ bản của mỗi lần xem xét NRSRO hàng năm [51, Sec. 932.(p).(1).(3)]. 1.3.2.3. Bài học cho Việt Nam Cách mà chúng ta nhìn nhận được từ việc nghiên cứu pháp luật của Mỹ là cách họ thay đổi khi thật sự trải nghiệm những điều rủi ro đã trở thành thực tế trong cuộc đại khủng hoảng. Rủi ro về tính minh bạch, độc lập của các cơ quan XHTN đã một phần dẫn đến những hậu quả nặng nề. Đạo luật Cải cách đã cố gắng giải quyết vấn đề mâu thuẫn lợi ích và cung cấp tính minh bạch, các tiêu chuẩn khách quan và cách tiếp cận hợp lý đối với các quy định của doanh nghiệp XHTN, và quan trọng nhất là đảm bảo rằng doanh nghiệp XHTN đã hành động có trách nhiệm. Đạo luật Dodd-Frank, mặt khác, tìm cách áp dụng các nguyên tắc quản trị doanh nghiệp, giảm xung đột lợi ích và cải tiến quá trình đánh giá thông qua kiểm soát được tăng cường và minh bạch hơn. Dodd-Frank cũng mở rộng rất nhiều quyền hạn giám sát và thực thi của SEC và tìm kiếm trên lý thuyết để làm cho các nhà đầu tư dễ dàng 37
- hơn đưa ra các vụ kiện dân sự chống lại các cơ quan đánh giá. Ngoài ra, Dodd- Frank tìm cách giảm bớt sự phụ thuộc vào xếp hạng như là một thử nghiệm về chất lượng tín dụng đối với các tiêu chuẩn rộng lớn hơn bao gồm nhiều nhân tố và các tiêu chí tín dụng [57]. 1.3.3. Hệ thống thang điểm xếp hạng tín nhiệm phổ biến Đóng vai trò cốt lõi trong các báo cáo xếp hạng tín nhiệm, quyết định đối tượng được XHTN nằm trong khoảng an toàn hay rủi ro chính là dựa vào thang điểm quy đổi để xếp hạng tín nhiệm. Phân tích hệ thống thang điểm XHTN của 03 (ba) tổ chức XHTN uy tín, nổi tiếng trên thế giới là Standard & Poor’s, Moody’s và Fitch sẽ cho cái nhìn tổng thể về cách tình điểm cũng như ý nghĩa của những điểm chữ đã trở thành chuẩn mực trên thế giới trong thời gian qua. • Tương quan các mức xếp hạng tín nhiệm của 3 hãng xếp hạng tín nhiệm lớn nhất (Big 3): Moody's S&P's Fitch's Hạng đầu tư Hạng cực cao Aaa AAA AAA Hạng cao Aa AA AA Hạng trên trung bình A A A Hạng trung bình Baa BBB BBB Hạng không đầu tư Ít đầu cơ Ba BB BB Đầu cơ B B B Đầu cơ cao Caa CCC CCC Đầu cơ cực cao Ca CC CC Sắp vỡ nợ C C C Vỡ nợ C D D 38
- Bảng 2: Ký hiệu thang điểm xếp hạng tín nhiệm dài hạn của 03 tổ chức xếp hạng tín nhiệm hàng đầu thế giới • Ý nghĩa thang điểm của Moody’s là: - Aaa: Đối tượng được xếp hạng được đánh giá là có chất lượng tín dụng cao nhất, với rủi ro tín dụng tối thiểu. - Aa: Đối tượng được xếp hạng được đánh giá là có chất lượng cao và có thể rủi ro tín dụng rất thấp. - A: Đối tượng được xếp hạng được xem là lớp trên trung bình và có thể rủi ro tín dụng thấp. - Baa: Đối tượng được xếp hạng được đánh giá chịu rủi ro tín dụng vừa phải. Chúng được xếp ở mức trung cấp và như vậy có thể có các đặc tính đầu cơ nhất định. - Ba: Đối tượng được xếp hạng được đánh giá là có yếu tố đầu cơ và có thể ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng. - B: Đối tượng được xếp hạng được coi là đầu cơ và có thể rủi ro tín dụng cao. - Caa: Đối tượng được xếp hạng được đánh giá là có vị thế kém và có thể có rủ ro tín dụng rất cao. - Ca: Đối tượng được xếp hạng được đánh giá là có tính đầu cơ cao. - C: Đối tượng được xếp hạng được đánh giá thấp nhất của trái phiếu và thường được mặc định, với triển vọng phục hồi gốc hoặc tiền lãi là rất ít [60]. • Ý nghĩa thang điểm của Standard & Poor’s và Fitch Ratings: - “AAA”: Đây là xếp hạng tín nhiệm cao nhất cho hệ thống xếp hạng tín nhiệm của doanh nghiệp XHTN. Các doanh nghiệp được xếp hạng “AAA” có khả năng hoàn trả cao nhất các nghĩa vụ tài chính của mình. - “AA”: Các doanh nghiệp được xếp hạng “AA” chỉ khác các doanh nghiệp “AAA” ở một mức độ rất nhỏ. Các doanh nghiệp được xếp hạng ở “AA” cũng có khả năng hoàn trả các nghĩa vụ tài chính của mình rất cao với một ít rủi ro dài hạn. - “A”: Các doanh nghiệp xếp hạng “A” có thể dễ chịu ảnh hưởng của những thay đổi của hoàn cảnh và môi trường kinh tế hơn các doanh nghiệp được xếp hạng cao hơn. Tuy nhiên, khả năng hoàn trả các nghĩa vụ tài chính của các doanh nghiệp này vẫn khá cao. 39
- - “BBB”: Các doanh nghiệp xếp hạng “BBB” có mức độ an toàn tương đối tốt. Tuy nhiên, môi trường kinh tế và các thay đổi bất lợi của môi trường có thể làm suy yếu khả năng thực hiện các cam kết tài chính của doanh nghiệp. - “BB”: Doanh nghiệp xếp hàng “BB” có mức độ biến động thấp nhất so với các doanh nghiệp có tính chất biến động khác. Tuy nhiên, doanh nghiệp thứ hạng này phải đối mặt với các yếu tố không chắc chắn hoặc bị ảnh hưởng của các điều kiện kinh doanh, tài chính, kinh tế không thuận lợi đáng kể mà có thể gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc thực hiện các cam kết tài chính của mình. - “B”: Doanh nghiệp xếp hạng “B” dễ bị mất khả năng trả nợ hơn doanh nghiệp xếp hạng “BB”, tuy nhiên doanh nghiệp hạng “B” hiện vẫn có khả năng thực hiện các cam kết tài chính của minh. Các yếu tố bất lợi về kinh doanh, tài chính và kinh tế dễ ảnh hưởng xấu tới khả năng cũng như sự sẵn sàng thực hiện cam kết tài chính của doanh nghiệp. - “CCC” Doanh nghiệp xếp hạng “CCC” là doanh nghiệp hiện có nguy cơ không trả được nợ và phụ thuộc vào các điều kiện thuận lợi về kinh doanh, tài chính, kinh tế để thực hiện các cam kết tài chính của mình. Trong điều kiện kinh doanh, tài chính, kinh tế bất lợi, doanh nghiệp có ít khả năng thực hiện được các cam kết tài chính của mình. - “CC”: Doanh nghiệp xếp hạng “CC” có nguy cơ không hoàn trả được nợ rất cao. - “C”: Hạng “C” được sử dụng trong trường hợp nộp hồ sơ phá sản đã được nộp hoặc những hành động tương tự đã được thực hiện, tuy nhiên hiện doanh nghiệp vẫn đang tiếp tục thực hiện việc trả nợ. - “D”: Khác với các xếp hạng tín nhiệm khác, hạng “D” không được dùng để nói về tương lai mà chỉ được sử dụng khi doanh nghiệp đã thực sự vỡ nợ [58] [62]. 40
- Kết luận Chương 1 Xếp hạng tín nhiệm là hoạt động không thể thiếu trên thị trường chứng khoán, đặc biệt là ở các thị trường trái phiếu phát triển. Hoạt động xếp hạng tín nhiệm đã xuất hiện từ rất lâu ở các quốc gia vào khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Ở Việt Nam thì sự quan tâm giành cho hoạt động này mới được chú ý từ những năm đầu của thế kỷ XXI, nhưng cho đến nay thì vẫn còn khá mới mẻ. Qua nghiên cứu về xếp hạng tính nhiệm cũng như doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm ở các nước trên thế giới chúng ta có thể hiểu khái quát xếp hạng tín nhiệm là sự đánh giá hiện thời về mức độ sẵn sàng và khả năng thực hiện đầy đủ và đúng hạn nghĩa vụ nợ của doanh nghiệp, tổ chức hoặc của chủ thể phát hành đối với công cụ nợ tại một thời điểm xác định và doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm là cơ quan thực hiện việc xếp hạng tín nhiệm. Hoạt động xếp hạng tín nhiệm nói chung và hoạt động của doanh nghiệp định mức tín nhiệm nói chung phải tuân theo những chuẩn mực, nguyên tắc, phương pháp nhất định để đảm bảo được đúng ý nghĩa của hoạt động này, tạo nên sự an toàn cho thị trường tài chính. Chương 1 của khóa luận đã làm rõ được những vấn đề lý luận cơ bản về xếp hạng tín nhiệm và doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm; lịch sử phát triển của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm trên thế giới và Việt Nam; pháp luật về xếp hạng tín nhiệm theo khuyến nghị của quốc tế nói chung và Hoa Kỳ nói riêng để từ đó có cơ sở để phát triển thêm các vấn đề ở Chương II và Chương III của khóa luận. 41
- CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP XẾP HẠNG TÍN NHIỆM Ở VIỆT NAM 2.1. Thực trạng pháp luật về hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm ở Việt Nam. 2.1.1. Tình hình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động xếp hạng tín nhiệm Tính cho đến hiện nay thì các văn bản quy định về hoạt động xếp hạng tín nhiệm nói chung và công ty xếp hạng tín nhiệm nói riêng ở Việt Nam chỉ mới có một vài văn bản nhất định và cũng chưa được qui định trong một đạo luật cụ thể mà chỉ qua các nghị định của Chính Phủ hay Quyết định của Ngân hàng nhà nước, ví dụ như: ❖ Quyết định số 57/2002/QĐ-NHNN ngày 24/01/2002 về việc triển khai thí điểm đề án phân tích, xếp loại tín dụng doanh nghiệp. (đã hết hiệu lực) Nội dung văn bản cho phép Trung tâm Thông tin tín dụng triển khai thí điểm đề án phân tích, xếp loại tín dụng doanh nghiệp. Việc phân tích, xếp loại tín dụng doanh nghiệp được thực hiện tại Trung tâm Thông tin tín dụng theo phương pháp xếp loại và phương pháp so sánh với các đối tượng thí điểm phân tích, xếp loại tín dụng là các doanh nghiệp Nhà nước; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; Công ty cổ phần. Trong thời gian thí điểm, Trung tâm Thông tin tín dụng chỉ được cung cấp sự đánh giá thông tin, xếp loại tín dụng doanh nghiệp cho các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước; các tổ chức tín dụng. Các đơn vị sử dụng thông tin đúng mục đích; không cung cấp lại thông tin cho bên thứ ba. ❖ Quyết định số 1253/QĐ-NHNN ngày 21/06/2006 về việc thực hiện nghiệp vụ phân tích, xếp hạng tín dụng doanh nghiệp: Nội dung văn bản cho phép Trung tâm Thông tin tín dụng thực hiện chính thức nghiệp vụ phân tích, xếp hạng tín dụng doanh nghiệp nhằm mục đích tăng cường công tác quản lý rủi ro tín dụng trong hệ thống ngân hàng và đánh giá năng lực của các doanh nghiệp. Đối tượng phân tích, xếp loại tín dụng là doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế bao gồm doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty có vốn đầu tư nước ngoài, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. 42
- ❖ Quyết định số 304/QĐ-TTg ngày 06/02/2016 phê duyệt đề án nâng cao xếp hạng tín nhiệm quốc gia: Nội dung văn bản đưa ra các giải pháp chủ yếu để thực hiện các mục tiêu sau: a) Phấn đấu đến năm 2020 từng bước nâng bậc xếp hạng tín nhiệm quốc gia đạt mức xếp hạng tín nhiệm tối thiểu bằng mức khởi điểm đầu tư (Baa3 đối với xếp hạng tín nhiệm của Moody’s hoặc BBB- đối với xếp hạng tín nhiệm của S&P hoặc Fitch). b) Đưa quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các công ty xếp hạng tín nhiệm phát triển ngày càng thực chất, tin cậy và bền vững hơn. c) Thông qua việc tiếp xúc với các tổ chức xếp hạng tín nhiệm nhằm thúc đẩy, tuyên truyền và giới thiệu sâu rộng hơn về tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam cho các nhà đầu tư quốc tế. ❖ Quyết định số 61/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013 về việc cung cấp thông tin và phối hợp thực hiện công tác xếp hạng tín nhiệm quốc gia: Quyết định này quy định các nội dung sau: 1. Cung cấp thông tin, số liệu về tình hình kinh tế - xã hội phục vụ cho công tác xếp hạng tín nhiệm quốc gia. 2. Quy trình phối hợp giữa các Bộ, ngành, cơ quan liên quan trong việc phối hợp thực hiện công tác xếp hạng tín nhiệm quốc gia. Quyết định này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan tới công tác xếp hạng tín nhiệm quốc gia. ❖ Nghị định số 88/2014/NĐ-CP ngày 26/09/2014 quy định về dịch vụ xếp hạng tín nhiệm: Để hoàn thiện hơn nữa cơ sở pháp lý về dịch vụ xếp hạng tín nhiệm cũng như các điều kiện hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm được thành lập và hoạt động tại Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Nghị định 88/2014/NĐ-CP quy định về dịch vụ xếp hạng tín nhiệm, điều kiện hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm được thành lập và hoạt động tại Việt Nam. ❖ Quyết định số 507/QĐ-TTg ngày 17/04/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch phát triển dịch vụ xếp hạng tín nhiệm đến năm 2030. Quyết định đưa ra mục tiêu cụ thể cho giai đoạn cho đến năm 2030 như sau: + Đến năm 2030, xem xét cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh cho tối đa năm (05) doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xếp hạng tín nhiệm. 43
- + Trong quá trình triển khai thực hiện, Bộ Tài chính đánh giá kết quả hoạt động của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xếp hạng tín nhiệm và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh quy hoạch (nếu có). + Phấn đấu đến năm 2020, các đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp đều phải được xếp hạng tín nhiệm. ❖ Quyết định số 1191/QĐ-TTg ngày 14/08/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Lộ trình phát triển thị trường trái phiếu giai đoạn 2017-2020, tầm nhìn đến năm 2030. + Nghiên cứu, đề xuất về việc cho phép Bảo hiểm xã hội Việt Nam được đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp có kết quả xếp hạng tín nhiệm cao theo tỷ lệ nhất định, ngoài tỷ lệ gửi tiền, mua chứng chỉ, trái phiếu của các tổ chức tín dụng khi sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội. + Tiến tới yêu cầu bắt buộc doanh nghiệp phát hành trái phiếu ra công chung phải được đánh giá xếp hạng tín nhiệm khi thị trường trong nước có ít nhất 02 doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm đủ điều kiện đi vào hoạt động. + Phân biệt chính sách đầu tư giữa trái phiếu doanh nghiệp được xếp hạng tín nhiệm với trái phiếu doanh nghiệp không được xếp hạng tín nhiệm để vừa đảm bảo an toàn hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm vừa tạo nguồn vốn đầu tư dài hạn vào thị trường trái phiếu. 2.1.2. Các qui định pháp lý về thành lập doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm ở việt Nam. Nội dung vấn đề này đã được đề cập đến khá đầy đủ tại Nghị định số 88/2014/NĐ-CP ngày 26/09/2014 quy định về dịch vụ xếp hạng tín nhiệm. 2.1.2.1. Về loại hình doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 9 Nghị định số 88/2014/NĐ-CP thì các loại hình doanh nghiệp được cho phép kinh doanh dịch vụ xếp hạng tín nhiệm sau khi được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh theo quy định tại Nghị định này gồm: a) Công ty trách nhiệm hữu hạn; b) Công ty cổ phần; c) Công ty hợp danh. Doanh nghiệp XHTN của mỗi quốc gia sẽ có mô hình tổ chức riêng biệt nhằm phù hợp với đặc điểm của từng quốc gia. Đó là lý do Nghị định về dịch vụ xếp hạng 44
- tín nhiệm chỉ lựa chọn ba loại hình được phép thành lập doanh nghiệp XHTN là loại hình công ty TNHH, công ty cổ phần và công ty hợp danh. Vì trong thời gian qua, mô hình công ty nhà nước hoạt động không thật sự hiệu quả trên tất cả các ngành nghề tại Việt Nam (trừ những ngành nghề mang tính chất độc quyền hay các thành phần kinh tế khác không đầu tư). Mô hình doanh nghiệp tư nhân hoàn toàn không phù hợp trong lĩnh vực xếp hạng tín nhiệm còn khá mới tại Việt Nam, chỉ phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh ngành nghề với quy mô quản lý mang tính chất gia đình và với chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô hạn nên mức rủi ro của các thành viên là khá cao, cùng với việc loại hình này chưa phổ biến tại Việt Nam. Loại hình công ty liên doanh phải chịu sự ràng buộc chặt chẽ trong một pháp nhân chung và giữa các bên hoàn toàn khác nhau về truyền thống, phong tục, phong cách kinh doanh do vậy có thể phát sinh những mâu thuẫn không dễ giải quyết. Mô hình công ty TNHH là mô hình doanh nghiệp phổ biến nhất ở Việt Nam hiện nay. Loại hình công ty cổ phần là phù hợp cho doanh nghiệp XHTN, vì trong bước đầu phát triển luôn cần sự hỗ trợ của các cổ đông chiến lược nước ngoài nhằm phát huy hết lợi thế của quốc gia đi sau. Mỗi loại hình doanh nghiệp trên đều tồn tại những ưu điểm, nhược điểm trong quá trình thành lập và hoạt động. Điều này sẽ đặt ra vấn đề lớn cho doanh nghiệp XHTN tại Việt Nam phải thật cân nhắc, lựa chọn loại hình doanh nghiệp thích hợp cho loại hình kinh doanh XHTN theo từng giai đoạn phát triển kinh tế. Khi mà, trong thời gian qua đã có một vài doanh nghiệp XHTN thành lập và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp trong nước, nhưng vẫn chưa thực sự mang lại hiệu quả cũng như chưa khẳng định được uy tín của xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam. 2.1.2.2. Về vốn. - Vốn pháp định: Điều 11. Vốn pháp định “1. Mức vốn pháp định của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm đối với hoạt động xếp hạng tín nhiệm là mười lăm (15) tỷ đồng. 2. Mức vốn pháp định nêu tại Khoản 1 Điều này chưa bao gồm mức vốn pháp định của các lĩnh vực kinh doanh khác mà doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm được phép kinh doanh theo quy định của pháp luật.” So với mức vốn pháp định khi đăng ký kinh doanh của một ngành nghề liên quan như dịch vụ kiểm toán (5 tỷ - Điều 5, Nghị định số 17/2012/NĐ-CP ngày 13/03/2012 45
- quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật kiểm toán độc lập) thì mức vốn pháp định của công ty kinh doanh dịch vụ xếp hạng tín nhiệm ở mức cao hơn khá nhiều. Như đã nói trên thì xếp hạng tín nhiệm là một loại hình kinh doanh đặc biệt, kết quả xếp hạng tín nhiệm của doanh nghiệp XHTN ảnh hưởng rất lớn đến các tổ chức phát hành công cụ nợ và các công cụ nợ, tác động đến tâm lý của nhà đầu tư khi muốn đầu tư vào thị trường chứng khoán. Doanh nghiệp XHTN nắm vai trò quyết định như vậy, nên nếu quy xếp hạng vốn pháp định quá thấp thì rất dễ dàng để thành lập một doanh nghiệp XHTN, vấn đề về số lượng sẽ đảm bảo nhưng vấn đề cốt lõi là chất lượng liệu sẽ được giải quyết như thế nào? Thị trường tài chính Việt Nam đang rất cần sự hỗ trợ từ các doanh nghiệp XHTN hiệu quả và uy tín, nhưng cũng không đồng nghĩa với việc chấp nhận cho sự xuất hiện của quá nhiều doanh nghiệp XHTN, khi mà quy định về thành lập doanh nghiệp XHTN với mức vốn pháp định được cho là quá dễ đối với cá nhân hay tổ chức. 2.1.2.3. Cổ đông hoặc thành viên góp vốn trong doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm. Điều 10. Cổ đông hoặc thành viên góp vốn của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm “1. Việc góp vốn thành lập doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp và phải đảm bảo các nguyên tắc sau: a) Tổ chức, cá nhân đã góp vốn sở hữu trên 5% vốn điều lệ thực góp của một (01) doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm thì không được góp vốn thành lập hoặc mua, nắm giữ cổ phiếu hoặc phần vốn góp của một (01) doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm khác; b) Các tổ chức, cá nhân không được sử dụng vốn ngân sách nhà nước để tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm. 2. Doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh theo quy định tại Nghị định này không được góp vốn để thành lập doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm khác.” 2.1.2.4. Về cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm. Cơ cấu tổ chức của công ty XHTN được tùy theo hình thức công ty mà họ lựa chọn, tuy nhiên thì trong Luật có những quy đinh riêng về điều kiện của Tổng giám đốc hoặc Giám đốc doanh nghiệp, thành viên Hội đồng xếp hạng tín nhiệm và chuyên viên phân tích: Điều 19. Tiêu chuẩn, điều kiện của Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc doanh nghiệp 46
- “1. Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định tại Bộ luật Dân sự. 2. Không là cán bộ, công chức, viên chức theo quy định tại Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức. 3. Có trình độ từ đại học trở lên thuộc chuyên ngành kinh tế, tài chính, ngân hàng, kế toán, kiểm toán, thống kê hoặc quản trị kinh doanh. 4. Có ít nhất mười (10) năm làm việc trực tiếp trong lĩnh vực quy định tại Khoản 3 Điều này. 5. Cư trú hợp pháp tại Việt Nam trong thời gian đương nhiệm.” Điều 20. Tiêu chuẩn, điều kiện của thành viên Hội đồng xếp hạng tín nhiệm “1. Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định tại Bộ luật Dân sự. 2. Không là cán bộ, công chức, viên chức theo quy định tại Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức. 3. Có trình độ từ đại học trở lên thuộc chuyên ngành kinh tế, tài chính, ngân hàng, kế toán, kiểm toán, thống kê, quản trị kinh doanh hoặc chuyên ngành thuộc lĩnh vực kinh doanh của tổ chức được xếp hạng tín nhiệm. 4. Có ít nhất bảy (07) năm làm việc trực tiếp trong lĩnh vực quy định tại Khoản 3 Điều này.” Điều 21. Tiêu chuẩn, điều kiện của chuyên viên phân tích “1. Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định tại Bộ luật Dân sự. 2. Không là cán bộ, công chức, viên chức theo quy định tại Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức. 3. Có trình độ từ đại học trở lên thuộc chuyên ngành kinh tế, tài chính, ngân hàng, kế toán, kiểm toán, thống kê, quản trị kinh doanh hoặc chuyên ngành thuộc lĩnh vực kinh doanh của tổ chức được xếp hạng tín nhiệm. 4. Có ít nhất ba (03) năm làm việc trực tiếp trong lĩnh vực quy định tại Khoản 3 Điều này.” 2.1.2.5. Quy trình cấp thủ tục giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh: Điều 16. Quy trình thủ tục cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh “1. Doanh nghiệp nộp một (01) bộ hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh đến Bộ Tài chính để kiểm tra tính đầy đủ và hợp lệ của hồ sơ. 47
- 2. Trong thời hạn mười (10) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Bộ Tài chính thông báo về tính đầy đủ, hợp lệ của hồ sơ và yêu cầu doanh nghiệp bổ sung tài liệu (nếu có) và gửi năm (05) bộ hồ sơ chính thức để thẩm định. 3. Trong thời hạn sáu mươi (60) ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các Bộ, ngành có liên quan thẩm định, xem xét hồ sơ để cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh. Trong trường hợp từ chối, Bộ Tài chính thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp và nêu rõ lý do. 4. Nội dung thẩm định hồ sơ theo các điều kiện quy định tại Điều 14 Nghị định này.” Sau khi hoàn tất các thủ tục đúng quy định của pháp luật, doanh nghiệp sẽ được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ XHTN Nội dung quy định trong giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ XHTN sẽ là căn cứ trước pháp luật về các hoạt động xếp hạng tín nhiệm. Do tính chất quan trọng của giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nên quy trình thủ tục để cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ XHTN rất chặt chẽ, bên cạnh đó còn những quy định về cấp lại và điều chỉnh giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ XHTN; những thay đổi phải thông báo đến bộ tài chính; thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ XHTN. 2.1.3. Các qui định pháp lý về hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm ở Việt Nam. 2.1.3.1. Phạm vi hoạt động: Điều 12. Phạm vi hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm “1. Dịch vụ xếp hạng tín nhiệm theo quy định tại Nghị định này. 2. Dịch vụ liên quan đến hoạt động xếp hạng tín nhiệm, bao gồm: a) Dịch vụ thông tin về xếp hạng tín nhiệm; b) Đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức liên quan đến hoạt động xếp hạng tín nhiệm. 3. Khi cung cấp các dịch vụ liên quan đến hoạt động xếp hạng tín nhiệm quy định tại Khoản 2 Điều này doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm phải đảm bảo không xảy ra các trường hợp xung đột lợi ích quy định tại Điều 38 Nghị định này. 4. Doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm không được hoạt động trong các lĩnh vực sau: a) Kế toán, kiểm toán; 48
- b) Chứng khoán bao gồm: Môi giới; tư vấn; bảo lãnh phát hành; đại lý phân phối chứng khoán; quản lý quỹ đầu tư; quản lý danh mục đầu tư; đầu tư chứng khoán; c) Ngân hàng.” Như vậy có thể thấy rằng doanh nghiệp XHTN được phép kinh doanh: ❖ Dịch vụ xếp hạng tín nhiệm. ❖ Dịch vụ liên quan đến xếp hạng tín nhiệm, bao gồm: - Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức liên quan đến xếp hạng tín nhiệm; - Cung cấp cơ sở dữ liệu liên quan đến xếp hạng tín nhiệm. ❖ Các dịch vụ kinh doanh khác theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm ngoại trừ lĩnh vực kế toán và kiểm toán. Có thể nói quy định về thành lập và hoạt động của doanh nghiệp XHTN cũng tiếp thu nhiều các quy định trên thế giới và quy định về phạm vi hoạt động của doanh nghiệp XHTN cũng không là ngoại lệ. Dịch vụ kế toán, kiểm toán thực chất là một tổ chức hoặc cá nhân có nguồn nhân lực không thuộc sự quản lý của công ty, của doanh nghiệp thuê dịch vụ kế toán đứng ra nhận làm các công việc của một phòng kế toán thuộc công ty đi thuê dịch vụ, họ không chịu sự quản lý, cũng như quân số của công ty đi thuê dịch vụ kế toán, nhưng lại làm các công việc về kế toán cho các công ty thuê dịch vụ đó theo một thỏa thuận về nguyên tắc, hợp đồng làm việc. Dịch vụ kế toán là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động. Dịch vụ kiểm toán là một hoạt động kiểm tra đặc biệt nhằm xác minh tính trung thực và hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo tài chính của các tổ chức, cơ quan đơn vị, doanh nghiệp, bảo đảm việc tuân thủ các chuẩn mực và các quy định hiện hành. Trong khi đó dịch vụ XHTN là hoạt động thu thập thông tin, phân tích, đưa ra nhận định, xếp hạng và công bố về khả năng thanh toán các khoản nợ đúng hạn của tổ chức phát hành công cụ nợ và của công cụ nợ; thông tin thu thập chủ yếu sẽ dựa trên các báo cáo tài chính, kế toán, kiểm toán của doanh nghiệp. Nên trong một số trường hợp, tính khách quan trong các báo cáo của doanh nghiệp XHTN sẽ không được đảm bảo nếu doanh nghiệp XHTN vừa là cơ quan thực hiện dịch vụ kế toán kiểm toán doanh nghiệp, vừa là cơ quan xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp về khả năng thanh toán các khoản nợ đúng hạn. Xét về mặt bản chất thì doanh nghiệp 49