Khóa luận Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay - Nguyễn Thị Nhật Huệ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay - Nguyễn Thị Nhật Huệ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_hoan_thien_phap_luat_trong_linh_vuc_mang_thai_ho_o.pdf
Nội dung text: Khóa luận Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay - Nguyễn Thị Nhật Huệ
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ NHẬT HUỆ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH: LUẬT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-L HÀ NỘI – 2019
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Nguyễn Thị Nhật Huệ 2
- LỜI CẢM ƠN Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Phan Thị Lan Phương, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian tôi hoàn thành luận văn này. Tôi cũng sinh gửi lời càm ơn chân thành tới các thầy cô giáo tại Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy, cảm ơn gia đình và bạn bè đã bên cạnh động viên tôi trong quá trình tôi thực hiện luận văn tốt nghiệp Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu hoàn thiện nhưng luận văn vẫn không tránh khỏi những thiếu sót. Do vậy, tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của các thầy cô giáo để luận văn được hoàn thiện hơn. Tác giả Nguyễn Thị Nhật Huệ 3
- MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN 1 LỜI CẢM ƠN 3 MỞ ĐẦU 6 I. Tính cấp thiết của đề tài: 6 II. Tình hình nghiên cứu đề tài: 7 III. Đối tượng nghiên cứu: 8 IV. Mục đích nghiên cứu: 8 V. Phương pháp nghiên cứu 8 VI. Ý nghĩa khoa học của đề tài: 9 VII. Kết cấu khóa luận: 9 CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 10 1.1. Khái niệm và đặc điểm pháp luật về mang thai hộ 10 1.1.1. Khái niệm mang thai hộ 10 1.1.2. Đặc điểm pháp luật về mang thai hộ 12 1.2. Nội dung của pháp luật về mang thai hộ 16 1.2.1. Pháp luật về mang thai hộ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong việc thực hành, kiểm soát mang thai hộ 16 1.2.2. Pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên khi tham gia quan hệ mang thai hộ 16 1.3. Các yếu tố tác động đến việc quy định và hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ 17 1.3.1. Phong tục tập quán, đạo đức truyền thống 17 1.3.2. Điều kiện kinh tế, xã hội 18 1.3.3. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật 18 1.4. Pháp luật về mang thai hộ ở một số nước trên thế giới 19 1.4.1. Nhóm các nước đã hợp thức hóa mang thai hộ 20 1.4.2. Nhóm các nước chưa hợp thức hóa mang thai hộ 21 1.5. Vai trò, ý nghĩa của pháp luật về mang thai hộ 22 1.5.1. Vai trò của pháp luật về mang thai hộ 22 1.5.2. Ý nghĩa của pháp luật về mang thai hộ 25 1.6. Các tiêu chí hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo 26 1.6.1. Hoàn thiện pháp luật để bảo đảm về quyền cho các bên tham gia 26 1.6.2. Hoàn thiện pháp luật để phù hợp với truyền thống đạo đức 29 4
- CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM 33 2.1. Thực trạng pháp luật về mang thai hộ 33 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam 33 2.2.2. Những hạn chế của các quy định pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam 50 2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về mang thai hộ 56 2.2.1. Những kết quả đạt được trong lĩnh vực mang thai hộ 56 2.1. Nguyên nhân của những hạn chế 60 CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM 64 3.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về mang thai hộ 64 3.1.1. Hoàn thiện một số các quy định pháp luật Hôn nhân và Gia đình về mang thai hộ 64 3.1.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật Dân sự về mang thai hộ 69 3.1.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật Hình sự về mang thai hộ 69 3.2. Một số giải pháp khác để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về mang thai hộ 70 KẾT LUẬN 72 TÀI LIỆU THAM KHẢO 73 5
- MỞ ĐẦU I. Tính cấp thiết của đề tài: Tổ chức Y tế thế giới (WTO) dự báo: Vô sinh và hiếm muộn là vấn đề nguy hiểm thứ 3, chỉ đứng sau ung thư và bệnh tim mạch ở thế kỷ 21 và căn bệnh này dần trở nên phổ biến ở các nước Châu Á trong đó có Việt Nam. Ước muốn có được những đứa con là nguyện vọng rất chính đáng của những cặp vợ chồng hiếm muộn. Vì thế, đã có nhiều biện pháp hỗ trợ cho quá trình mang thai ra đời, từ phương pháp thụ tinh ống nghiệm cho đến việc mang thai hộ hay đẻ thuê đã gây ra những tranh cãi phức tạp. Ở Việt Nam, hằng năm có khoảng 500-700 cặp vợ chồng cần sử dụng các biện pháp y tế hỗ trợ để có con, tỷ lệ vô sinh hiếm muộn ngày càng nhiều. Trước khi Luật hôn nhân và gia đình 2014 sửa đổi và bổ sung có hiệu lực thì mang thai hộ là vấn đề bị pháp luật cấm. Tuy nhiên, do nhu cầu của các cặp vợ chồng khao khát có con nên đã xuất hiện những bên “cung”, là những đường dây cung cấp dịch vụ mang thai hộ ngầm ngoài thị trường nhằm mang mục đích thương mại. Vì thế, đi kèm theo đó là phát sinh rất nhiều vấn đề liên quan đến cả 2 bên về pháp lý và hợp đồng, gây khó khăn cho cơ quan chức năng có trách nhiệm xử lý. Trước tình hình đó, những quy định pháp luật điều chỉnh về mang thai hộ đã được Quốc Hội thông qua, điều chỉnh và bổ sung trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 .Đi kèm đó là những văn bản, nghị định hướng dẫn thi hành để đảm bảo quyền và lợi ích của các chủ thể có liên quan. Việc quy định về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là 1 bước tiến rất mạnh và tiến bộ của pháp luật Việt Nam, đáp ứng vấn đề chính đáng của các cặp vợ chồng hiếm muộn, giúp duy trì hạnh phúc gia đình bởi đã có nhiều trường hợp “ngang trái” với những hành vi “ông ăn chả, bà ăn nem” bên ngoài quan hệ hôn nhân hợp pháp để có con nối dõi. Việc quy định pháp luật như vậy đã tránh sự lạm dụng của các trường hợp vì mục đích thương mại như “đẻ thuê” hay lạm dụng tình dục, lợi dụng việc “đẻ thuê” để cưỡng đoạt tài sản, Với những đổi mới về pháp luật cho thấy sự thay đổi nhận thức của các nhà làm luật Việt Nam khi quan tâm nhiều hơn đến vấn đề gia đình, thể hiện xu hướng hòa nhập quốc tế về khía cạnh mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Việc xác định quan hệ trong gia đình có ý nghĩa rất lớn đối với duy trì xã hội ổn định. Tuy vậy, vẫn còn rất nhiều vấn đề pháp lý liên quan khá phức tạp về việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn khi mà đi sâu vào cuộc sống, pháp luật đã thể hiện 6
- nhiều sự bất cập, gây khó khăn cho những cặp vợ chồng vô sinh muốn có con với lí do chính đáng như việc quy định về điều kiện về người mang thai hộ và người nhận mang thai hộ, xác định quan hệ cha mẹ con, và hơn nữa là dù đã quy định nhưng vấn đề mang thai hộ vì mục đích thương mại vẫn còn tồn tại do chế tài xử lý chưa thật sự thắt chặt. Điều đó thể hiện những quy định pháp luật chưa đi sát và giải quyết gốc rễ các vấn đề liên quan trong khi tình hình xã hội càng ngày càng phát triển và nảy sinh nhiều trường hợp “khó xử lý”. Do đó luôn cần hoàn thiện pháp luật để có thể theo kịp được sự phát triển của xã hội trong vấn đề về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Em nhận thấy việc nghiên cứu tổng quan về quản lý thực hiện cũng như thực trạng và thực thi pháp luật để tìm ra và đề xuất những giải pháp để hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới là rất cần thiết.Chính vì thế, em đã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay” nhằm nghiên cứu cụ thể và rõ ràng hơn về vấn đề này. II. Tình hình nghiên cứu đề tài: Mang thai hộ là một vấn đề rất mới trong quy định pháp luật Việt Nam, cụ thể hơn là pháp luật về Hôn nhân và Gia đình. Sở dĩ như vậy là do trước đây, pháp luật nước ta nghiêm cấm hành vi này vì cho rằng đó là vi phạm đạo đức và xâm phạm quan hệ giữa cha mẹ con, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện thiên chức của mỗi người. Tuy vậy, trước tình hình xã hội, chúng ta đã có cái nhìn khác và đã đề cập đến vấn đề dưới hình thức các văn bản quy phạm pháp luật, thể hiện sự kiểm soát của Nhà nước và cũng là mở ra con đường sang hơn cho các cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn. Qua tìm hiểu thực tế, em thấy đây là 1 vấn đề có tính lý luận và áp dụng thực tiễn cao. Sau khi luật Hôn nhân và gia đình 2014 được Quốc Hội thông qua và có hiệu lực, đã có nhiều bài viết nghiên cứu của nhiều tác giả đề cập đến vấn đề này như: Nguyễn Thị Hương, “Một số vấn đề pháp luật về mang thai hộ”, khoa dân sự, trường ĐH Luật TP Hồ Chí Minh; Nguyễn Văn Cừ (2016), “Pháp luật về MTH ở Việt Nam” , Tạp chí Luật học số 06/2016; Nguyễn Văn Lâm, “Bàn về mang thai hộ theo quy định pháp luật Việt Nam, tạp chí Kiểm sát 04/2016; Nguyễn Thị Lan, “Mang thai hộ và những vấn đề phát sinh”, tạp chí Luật học số 04/2015 .Hay là những luận văn nghiên cứu như: Luận văn thạc sĩ “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về mang thai hộ” - Bùi Thị Hoa, 2014; Luận văn thạc sĩ “Pháp luật kiểm soát mang thai hộ ở Việt Nam” – Trần Thị Thu Hằng, 2018; Luận văn thạc sĩ “Hợp đồng mang thai hộ theo pháp luật Việt Nam” – Nguyễn 7
- Thị Phượng, 2019, Cùng nhiều tác phẩm nghiên cứu, bài viết của các tác giả khác có liên quan đến vấn đề này. Những công trình nghiên cứu nêu bên trên đã phân thích, đánh giá và có những kiến nghị để nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý và thực hiện quy định pháp luật về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo nhiều khía cạnh. Mặc dù vậy, đề tài về mang thai hộ vẫn không mất đi tính thời sự của nó và còn ẩn chứa nhiều bất cập khi đưa vào áp dụng thực tiễn. Chính vì thế bài khóa luận này em sẽ cố gắng nghiên cứu một cách hệ thống về thực trạng của vấn đề mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo quy định của pháp luật Việt Nam. Để từ đó có cái nhìn khách quan hơn, chỉ ra những ưu điểm và những điểm còn hạn chế của pháp luật. Dựa theo đó kiến nghị sửa đổi những bất cập và đóng góp xây dựng hoàn thiện pháp luật để các chủ thể trong quan hệ mang thai hộ được đảm bảo tuyệt đối về quyền và nghĩa vụ, ngăn chặn hành vi mang thai hộ vì mục đích thương mại xảy ra gây rào cản về pháp luật. III. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: Luận văn “Hoàn thiện pháp luật mang thai hộ ở Việt Nam” tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề mang thai hộ để từ đó chỉ ra các điểm bất cập và hoàn thiện pháp luật. Nội dung nghiên cứu đề tài bao gồm nhiều vấn đề khac nhau, song do giới hạn của luận văn, tác giả xin phép chỉ đi sâu vào những vấn đề cơ bản nhất thuộc nội dung đề tài như khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa, các tiêu chí hoàn thiện, các yếu tố ảnh hưởng đến việc điều chỉnh pháp luật quốc gia về mang thai hộ đến việc tìm hiểu pháp luật mang thai hộ ở một số quốc gia; thực trạng pháp luật và những nguyên nhân, hạn chế đề từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ. IV. Mục đích nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu những khía cạnh pháp lý cơ bản về lý luận của mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, những quy định của pháp luật hiện hành đối với vấn đề này nhằm tiếp cận cụ thể và rõ ràng hơn. Đồng thời, có sự khái quát, khách quan, toàn diện hơn, góp phần hoàn thiện quy định về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo nói riêng và Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 nói chung. V. Phương pháp nghiên cứu 8
- Để đạt được những mục đích nghiên cứu đã đề ra, trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: - Phương pháp tổng hợp, bình luận: sử dụng trong chương 1 khi nghiên cứu vấn đề chung về khái niệm, nội dung, vai trò, ý nghĩa của việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; pháp luật một số nước trên thế giới và các tiêu chí hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ. - Phương pháp phân tích, thống kê: sử dụng ở chương 2 khi phân tích từ pháp luật những hạn chế, vướng mắc về quyền và nghĩa vụ của các bên; chế tài áp dụng xử lý khi xảy ra vi phạm khi thực hiện mang thai hộ; đưa ra những trường hợp xảy ra khi áp dụng pháp luật về mang thai hộ diễn ra trong thực tiễn cuộc sống để từ đó đưa ra kiến nghị về hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này ở chương 3. VI. Ý nghĩa khoa học của đề tài: Có cái nhìn khái quát và toàn diện hơn về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật để từ đó các cặp vợ chồng rơi vào trường hợp hiếm muộn có nhu cầu có con hợp pháp có thể yên tâm áp dụng, đồng thời, bảo đảm quyền và nghĩa vụ cho các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật này. VII. Kết cấu khóa luận: Khóa luận được chia làm 3 chương: - Chương I: Một số vấn đề lý luận của hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay - Chương II: Thực trạng pháp luạt và thực hiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ở Việt Nam - Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về mang thai hộ 9
- CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. Khái niệm và đặc điểm pháp luật về mang thai hộ 1.1.1. Khái niệm mang thai hộ Vô sinh là điều không mong muốn ở các cặp vợ chồng hiện nay. Tuy nhiên, bằng công nghệ hỗ trợ sinh sản, không ít cặp vợ chồng đã có thể chào đón em bé ra đời. Hiểu đơn giản, đó là những biện pháp kỹ thuật y học hiện đại để can thiệp vào quá trình thụ thai của người phụ nữ với mục đích cao cả là giúp những người hiếm muộn, vô sinh có thể mang thai và được thực hiện thiên chức của mình. Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã thể hiện sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật, giải quyết được tình trạng vô sinh của cả nam và nữ do ảnh hướng của nhiều yếu tố bên ngoài như môi trường, hóa chất, hoặc đến từ sự cấu tạo cơ địa của mỗi người gây khó khăn cho quá trình mang thai. Sự phát triển tích cực từ y học này đã đem lại rất nhiều hi vọng và hạnh phúc cho các cặp vợ chồng hiếm muộn có nhu cầu có con trên Thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Vì vậy, vô sinh là nguyên do dẫn đến sự hình thành các phương pháp hỗ trợ sinh sản, trong đó có phương pháp mang thai hộ. Ở Việt Nam, trước khi Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014 được ban hành, các khái niệm “mang thai hộ” và “chửa hộ”, “đẻ thuê” đã được sử dụng rộng rãi và phổ biến.Tuy nhiên, nội dung và ý nghĩa của các khái niệm này chưa có sự đồng nhất, thậm chí có sự đánh đồng giữa các khái niệm. Có người hiểu rằng “mang thai hộ” là việc người đàn ông (người chồng) quan hệ (sinh lý) trực tiếp, không sử dụng biện pháp hỗ trợ sinh sản với một người phụ nữ (không phải là vợ), cho đến khi người phụ nữ này thụ thai, mang thai và sinh con. Trong trường hợp này, đứa trẻ được sinh ra từ tinh trùng của người đàn ông (người chồng) kết hợp với noãn của người phụ nữ (không phải vợ). Thực tế ở Việt Nam hiện nay, có nhiều cặp vợ chồng vì lí do nào đó mà không thể có con chung tự nhiên (như người vợ bị dị tật mà không thể thụ thai và sinh con; hoặc người vợ không có tử cung do bệnh tật đã phải cắt bỏ, ) nên hai vợ chồng đã bàn bạc, thỏa thuận để cho người chồng có quan hệ (sinh lí) trực tiếp với một người phụ nữ khác (đã đồng ý) để thụ thai, mang thai và sinh con cho cặp vợ chồng vô sinh và người phu nữ nhận “mang thai hộ” có thỏa thuận với nhau về thù lao (tiền hoặc tài sản) cho việc mang thai hộ này. [1, tr11,12] 10
- “Đẻ thuê” hiểu một cách đơn giản là việc bên thuê đẻ và bên để thuê có thỏa thuận với nhau theo đó bên thuê đẻ sẽ trả cho bên đẻ thuê tiền hoặc tài sản, còn bên đẻ thuê sẽ mang thai, sinh con và trao con cho bên đẻ thuê. Với thực tế hiện nay cho thấy, việc đánh đồng khái niệm mang thai hộ với đẻ thuê, đẻ mướn không còn phù hợp, nó khiến vấn đề trở nên phức tạp và nhạy cảm hơn, không còn phù hợp với thuần phong mỹ tục cũng như luật pháp của người Việt Nam. Đã đến lúc phải hiểu mang thai hộ theo đúng ý nghĩa của nó, phù hợp với chế độ nhà nước và hệ thống pháp luật mỗi quốc gia. Ngày nay, với sự phát triển của kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, những việc làm trên không được luật pháp bảo hộ và xã hội lên án. Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ra đời, cụ thể là thụ tinh ống nghiệm cho phép lấy tinh trùng và noãn của một cặp vợ chồng ra khỏi cơ thể, cho tinh trùng và noãn thụ tinh để tạo phôi, nuôi cấy phôi và cho đưa phôi vào tử cung một phụ nữ khác để mang thai. Nhờ đó, kỹ thuật mang thai hộ chính danh mới có thể được thực hiện. Với thụ tinh ống nghiệm, chúng ta mới có kỹ thuật mang thai hộ đúng nghĩa. Mang thai hộ có thể hiểu đơn giản là trường hợp sau khi thụ thai trong ống nghiệm, nếu người mẹ vì lý do sức khỏe hay vì điều kiện nào đó không thể mang thai, phải nhờ đến người phụ nữ khác mang thai và sinh đẻ. Có nhiều khái niệm và cách hiểu khác nhau về vấn đề này nhưng theo tác giả, để hiểu chuẩn về mặt pháp lý thì trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã có định nghĩa rất rõ ràng tại khoản 22 điều 3: “Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con”. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện của cả 2 bên và đáp ứng các điều kiện và yêu cầu của pháp luật là “người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại”. Có nghĩa, người mang thai hộ sẽ không vì mục đích kinh tế hay bất kỳ mục đích nào khác để mang thai giúp cặp vợ chồng không thể sinh con. Việc quy định như vậy giúp phân biệt giữa mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương mại – điều bị pháp luật Việt Nam nghiêm cấm, được quy định rõ trong Bộ luật hình sự. 11
- Pháp luật cũng quy định rất rõ điều kiện để nhờ người mang thai hộ ở đây là người vợ ngay cả khi áp dụng các biện pháp hỗ trợ sinh sản khác mà vẫn không thể có con, thì mới được tìm đến biện pháp này như một cách “mượn tử cung” của người phụ nữ khác. Không chỉ thế, khái niệm trên đã đưa ra và quy định phương thức thực hiện mang thai hộ phải được thực hiện bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm, tức là “lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ được nhờ mang thai và sinh con”.Như vậy, về mặt khoa học, noãn của người phụ nữ, tinh trùng của người đàn ông không phải là kết quả của sự kết hợp tự nhiên, trực tiếp giữa vợ và chồng mà phải nhờ vào biện pháp hỗ trợ y tế của các bác sỹ chuyên ngành. Từ noãn và tinh trùng lấy từ cơ thể vợ và chồng, bác sỹ thụ tinh trong ống nghiệm để tạo thành phôi và cấy phôi thai vào tử cung người mang thai hộ. Qua đó có thể thấy, việc mang thai hộ phải trải qua các trình tự nghiêm ngặt, không được “giúp đỡ trực tiếp” giữa người chồng bên nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ [4, tr18]. Điều đó có nghĩa con sinh ra sẽ có đặc điểm sinh học của cả vợ và chồng nhờ mang thai hộ. Khác với cách trước khi có biện pháp này là người chồng phải quan hệ trực tiếp hoặc bơm tinh trùng vào tử cung của người nhận mang thai hộ. Như vậy không đảm bảo về tính sinh học và bản chất thì hành vi này không thể được coi là mang thai hộ. 1.1.2. Đặc điểm pháp luật về mang thai hộ 1.1.2.1. Mang tính hợp đồng Theo Điều 385 Bộ luật dân sự Việt Nam 2015: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”. Yếu tố thỏa thuận chính là yếu tố quyết định tạo nên hợp đồng. Đối với trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, để được công nhận và đảm bảo thì các bên tham gia vào quan hệ này phải tuân thủ theo các điều kiện quy định, phải có đầy đủ giấy tờ chứng thực chứng minh giữa người nhờ mang thai, người mang thai trước bên thứ 3 là pháp luật để được Nhà nước bảo hộ. Ta có thể định nghĩa về hợp đồng mang thai hộ như sau:“Hợp đồng mang thai hộ là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của bên nhờ mang thai hộ là cặp vợ chồng vô sinh với bên mang thai hộ là người phụ nữ tự nguyện mang thai vì mục đích nhân đạo, nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ với nhau trong quan hệ pháp luật về mang thai hộ”.[5, tr12] 12
- Trong mang thai hộ, trước khi các chủ thể tiến hành hoạt động mang thai hộ thì việc đầu tiên đó là các bên phải thỏa thuận với nhau những nội dung trong suốt quá trình mang thai hộ. Nói nôm na, đó chính là sự bàn thảo để tạo nên một hợp đồng dân sự mang tên hợp đồng mang thai hộ. Hợp đồng mang thai hộ là một loại hợp đồng đặc biệt bởi đối tượng ở đây là con người – đứa trẻ được sinh ra nhờ phương pháp thụ tinh ống nghiệm. Với loại hợp đồng này, pháp luật phải có những quy định rất sát sao để có thể đảm bảo được các quyền lợi của trẻ em. Với tính chất này, mục đích nhân đạo là cái cốt lõi xuyên suốt quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng. Trường hợp vì mục đích thương mại hay có tính chất miễn cưỡng do bị đe dọa buộc phải chấp nhận hoặc khi giao dịch người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì không được chấp nhận. Vì vậy, hợp đồng đương nhiên bị vô hiệu bởi trẻ em không phải là món hàng trao tay, điều đó là vi phạm đạo đức con người và thuần phong mỹ tục. Quy định nội dung hợp đồng chặt chẽ là điều vô cùng quan trọng nhằm đảm bảo tính pháp lý cho hợp đồng mang thai hộ đồng thời là căn cứ để giải quyết các tranh chấp phát sinh trước tòa. Hiện tại, pháp luật Việt Nam đã ban hành Mẫu số 06 thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, ban hành kèm theo Nghị định Chính phủ số 10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.Thỏa thuận mang thai hộ này cũng được xem như một hợp đồng mang thai hộ mẫu được pháp luật ban hành sẵn để các bên chủ thể dựa vào đó, có căn cứ cũng như các điều khoản mẫu tiếp tục hoàn thiện những thỏa thuận của mình. Trong hợp đồng này có đầy đủ thông tin của các chủ thể tham gia vào quan hệ này. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp hợp đồng mang thai hộ là tự nguyện, bình đẳng và thỏa thuận, đặt lợi ích của đứa trẻ sinh ra từ mang thai hộ lên hàng đầu. Mang thai hộ luôn đi kèm theo là những vấn đề pháp lý phức tạp và nhiều trường hợp dễ dẫn đến tranh chấp. Vì vậy hợp đồng mang thai hộ cần rõ ràng chi tiết bởi trong trường hợp xảy ra mâu thuẫn thì các bên chủ thể trong quan hệ này là những người có quyết định cao nhất trong việc đưa ra các phương án hành động. Do vậy, thỏa thuận của các bên trong hợp đồng ban đầu là căn cứ sát sao và rõ ràng nhất để giải quyết tranh chấp. 13
- 1.1.2.2. Mang tính kiểm soát Theo từ điển Tiếng Việt, “kiểm soát” được hiểu là xem xét để phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định, được đặt trong phạm vi, quyền hành của một đối tượng nào đó. Từ khái niệm trên có thể hiểu kiểm soát pháp luật về mang thai hộ là cá nhân, một nhóm người, một tổ chức theo dõi, xem xét, đánh giá, đối chiếu với những quy định đã được đặt ra xem những cá nhân, nhóm người hay tổ chức nào đó có tuân thủ đúng với những quy định đó hay không. Nếu phát hiện ra có những hành vi trái với quy định đã được đặt ra thì phải kịp thời ngăn chặn, tránh để xảy ra hậu quả xấu [4, tr18] Có nghĩa, Nhà nước sẽ ban hành các văn bản pháp luật, quy định các điều kiện về mang thai hộ, các quy định sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, việc thỏa thuận của các bên, việc xác định cha mẹ con và giải quyết các tranh chấp pháp sinh. Tính kiểm soát của pháp luật ở đây bao quát cả tính hợp đồng thỏa thuận giữa các bên để đảm bảo được các vấn đề pháp lý liên quan trong trường hợp có phát sinh tranh chấp và đồng thời kiểm soát bằng các biện pháp y tế cụ thể, các cách thức để thực hiện mang thai hộ. Các điều kiện này cần có sự tham gia của các cơ sở y tế, các cơ quan quản lý Nhà nước, đảm bảo chặt chẽ về thủ tục pháp lý. Cụ thể để thực hiện mang thai hộ, các bên phải gửi hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đến cơ sở khám chữa bệnh được phép thực hiện kỹ thuật này, gồm:1. Đơn đề nghị được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ theo mẫu; 2. Bản cam kết tự nguyện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo mẫu; 3. Bản cam đoan của người đồng ý mang thai hộ là chưa mang thai hộ lần nào; 4. Bản xác nhận tình trạng chưa có con chung của vợ chồng do UBND cấp xã nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ xác nhận; 5. Bản xác nhận của cơ sở khám chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm về việc người vợ có bệnh lý, nếu mang thai sẽ có nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người mẹ, thai nhi và người mẹ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sả; 6. Bản xác nhận của cơ sở khám chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đối với người mang thai hộ về khả năng mang thai, đáp ứng quy định đối với người nhận phôi theo quy định sau: người nhận tinh trùng, nhận noãn, nhận phôi phải có đủ sức khỏe để thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, mang thai và sinh con; không đang mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, nhiễm HIV, bệnh 14
- truyền nhiễm thuộc nhóm A, B; không bị bệnh di truyền ảnh hưởng đến thế hệ sau, không bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình và đã từng sinh con; 7. Bản xác nhận của UBND cấp xã hoặc người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ tự mình chứng minh về mối quan hệ thân thích cùng hàng trên cơ sở các giấy tờ hộ tịch có liên quan và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính xác thực của các giấy tờ này; 8. Bản xác nhận của chồng người mang thai hộ (trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng) về việc đồng ý cho mang thai hộ; 9. Bản xác nhận nội dung tư vấn về y tế của bác sỹ sản khoa; 10.Bản xác nhận nội dung tư vấn về tâm lý của người có trình độ đại học chuyên khoa tâm lý trở lên; 11.Bản xác nhận nội dung tư vấn về pháp luật của luật sư hoặc luật gia hoặc người trợ giúp pháp lý; 12. Bản thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa vợ chồng nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ theo quy định. [4, tr20] Để ràng buộc trách nhiệm của các bên với sự thỏa thuận của mình và để pháp luật dễ kiểm soát, theo dõi thỏa thuận của hai bên, việc thỏa thuận giữa hai bên tham gia vào thỏa thuận mang thai hộ phải được lập thành văn bản có công chứng theo quy định của pháp luật. Luật HN&GĐ năm 2014 thể hiện rõ tinh thần tự nguyện của các bên tham gia thỏa thuận mang thai hộ với quy định hai vợ chồng bên nhờ mang thai hộ và nhận mang thai hộ đều phải tham gia ký kết thỏa thuận, trong trường hợp vợ chồng bên nhờ mang thai hộ ủy quyền cho nhau hoặc vợ chồng bên mang thai hộ ủy quyền cho nhau về việc thỏa thuận thì việc ủy quyền phải lập thành văn bản có công chứng và việc ủy quyền cho người thứ ba không có giá trị pháp lý. Việc quy định rõ về sự tự nguyện của các bên phải được lập thành văn bản và có công chứng là điều kiện để pháp luật dễ dàng kiểm soát . Hiện nay trên Thế giới có thể chia thành 4 nhóm: nhóm nước chưa có quy định, nhóm nước phản đối, nhóm nước cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và nhóm nước chấp thuận thương mại hóa. Dù tình hình xã hội và quan điểm pháp luật của các quốc gia về mang thai hộ có khác nhau thì việc ban hành các quy định để kiểm soát cũng đều hướng chung một mục đích là bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia vào quan hệ và đảm bảo ý chí của Nhà nước về vấn đề này nhằm thỏa mãn các điều kiện và mục tiêu được đặt ra trước đó. 1.1.2.3. Mang thai hộ mang tính đạo đức Có thể nói, cho phép “mang thai hộ” không phải là cho phép “đẻ thuê”. Cho phép “mang thai hộ” đối với một số đối tượng có chỉ định để bảo đảm quyền làm 15
- mẹ chính đáng của mọi phụ nữ và người mang thai hộ không vì mục đích lợi nhuận. Mang thai hộ là một thành tựu của y học, có thể nói là một tiến bộ vượt bậc để biến mơ ước không thể làm mẹ của rất nhiều phụ nữ được trở thành hiện thực. Bản chất “mang thai hộ” là hết sức nhân văn vì là một sự giúp đỡ của một người phụ nữ này đối với người phụ nữ khác để sinh ra những đứa trẻ. Việc mang thai và sinh nở cũng là việc làm có ý nghĩa nhằm duy trì nòi giống, gắn kết và giữ gìn hạnh phúc mỗi gia đình 1.2. Nội dung của pháp luật về mang thai hộ 1.2.1. Pháp luật về mang thai hộ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong việc thực hành, kiểm soát mang thai hộ Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã quy định rõ các cơ sở y tế khám bệnh, chữa bệnh được phép thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm; điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và thẩm quyền cung cấp giấy xác nhận tình trạng sinh sản cho các trường hợp vô sinh muốn thực hiện biện pháp mang thai hộ. Ủy ban Nhân dân cấp xã là nơi đảm nhận việc xác nhận tình trạng quan hệ hôn nhân, quan hệ giữa bên nhờ mang thai hộ và bên nhận mang thai hộ, tình trạng đã có hoặc chưa có con chung, Trong trường hợp xảy ra tranh chấp thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, cụ thể là Tòa án nhân dân cấp Huyện. Mọi vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật hôn nhân gia đình và các văn bản pháp luật khác có liên quan. 1.2.2. Pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên khi tham gia quan hệ mang thai hộ Hai bên khi tham gia vào quan hệ này sẽ phải xác lập các quyền và nghĩa vụ lẫn nhau. Điều này không chỉ được thể hiện dưới dạng thỏa thuận theo ý chí của bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ mà còn phải dựa vào yêu cầu của pháp luật về các nội dung thực hiện quyền. Pháp luật quy định rõ việc giải quyết hậu quả trong trường hợp có tai biến sản khoa; hỗ trợ để đảm bảo sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thơi gian mang thai và sinh con, việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai bên đối với con trong trường hợp con chưa được giao cho bên nhờ mang thai hộ và các quyền, nghĩa vụ khác có liên quan. Có thể nhận thấy, quy định về thời điểm phát sinh chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là hợp lý, một mặt bảo đảm tốt nhất cho sức khỏe của đứa trẻ từ khi còn là bào thai cho đến khi sinh 16
- ra, bảo đảm đứa trẻ nhận được sự chăm sóc tốt nhất từ hai bên trong quan hệ mang thai hộ, mặt khác bảo vệ quyền lợi, sức khỏe sinh sản cho người phụ nữa mang thai hộ. 1.3. Các yếu tố tác động đến việc quy định và hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ 1.3.1. Phong tục tập quán, đạo đức truyền thống Phong tục tập quán trở thành một bộ phận cấu thành căn bản của truyền thống văn hóa và giá trị đạo đức, việc duy trì và phát triển phong tục tập quán là việc làm cần thiết để bảo vệ bản sắc văn hóa và chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hôi. Pháp luật chỉ thực sự phát huy được hiệu quả của nó khi được nhân dân tiếp nhận và thi hành một cách tự giác. Các nhà làm luật phải căn cứ dựa theo các giá trị truyền thống để ban hành các quy định pháp luật phù hợp với đặc điểm của dân tộc. Cơ sở đó là điều kiện khách quan giúp cho pháp luật gần với đời sống của người dân, dễ dàng được người dân chấp nhận và thực thi. Thiên chức làm mẹ là vinh dự mà tất cả phụ nữ trên Thế giới đều hạnh phúc mong đón nhận. Sự gắn kết giữa mẹ và con trong quá trình mang thai 9 tháng 10 ngày là sự thiêng liêng và đáng trân trọng. Trong cuộc sống, không có gì đáng quý và cảm động hơn tình mẫu tử. Chính vì vậy mà trước đây, việc một người mang thai và sinh con hộ người khác là điều không thể chấp nhận. Đã có ý kiến cho rằng mang thai hộ là một hành vi vi phạm các chuẩn mực đạo đức, đi ngược lại phong tục, tập quán và truyền thống của dân tộc. Nó không chỉ là hành vi đáng lên án mà còn bị phản đối kịch liệt bởi quan niệm mang thai, sinh con là công việc của người mẹ mà không thể trao thiên chức này cho một người phụ nữ khác. Sự phản đối này là hoàn toàn hợp lý bởi lẽ mang thai và sinh con là đặc điểm riêng có ở người phụ nữ, thể hiện 21 tính đặc trưng của giống loài, trong quá trình hình thành và nuôi dưỡng thai, với tất cả tình yêu thương của người phụ nữ giành cho đứa trẻ đã hình thành nên sợi dây liên kết vô hình giữa mẹ và con. Sự liên kết này tuy vô hình nhưng thiêng liêng và ý nghĩa.Tuy vậy nhưng tạo hóa không phải lúc nào cũng công bằng với tất cả. Có những người phụ nữ không có khả năng làm mang thai và sinh con, họ chỉ có thể trông cậy vào các biện pháp hỗ trợ sinh sản và bước cuối là nhờ tới sự giúp đỡ của người 17
- phụ nữ khác (ở đây không bàn tới trường hợp người phụ nữ vô sinh nhưng không có nhu cầu nhờ mang thai hộ). Dù rằng nhờ người khác mang thai hộ đi ngược lại với những thói quen và quan niệm văn hóa của người Việt nhưng trong trường hợp này là vì mục đích nhân đạo cao cả nên dễ dàng được người dân chấp nhận. Nhưng không đồng nghĩa với việc tất cả các quốc gia đều đồng thuận.Nhiều dân tộc trên Thế giới coi đây là việc làm trái đạo đức và đáng bị lên án. Như vậy, sự chấp nhận, ủng hộ hay phản đối của người dân về vấn đề mang thai hộ là cơ sở để pháp luật hoàn thiện. Nếu pháp luật hợp lòng dân, đem lại lợi ích và thỏa mãn tư duy của nhân dân thì việc thực hiện pháp luật sẽ được diễn ra một cách tự giác. Vì vậy, trong việc xây dựng pháp luật về mang thai hộ cần phải nắm bắt được tinh thần và quan điểm chung của xã hội khi ban hành các quy định. 1.3.2. Điều kiện kinh tế, xã hội Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng.Các điều kiện kinh tế là cơ sở hạ tầng. Trong mối quan hệ biện chứng thì cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, do 22 vậy, nội dung của pháp luật là do các quan hệ kinh tế - xã hội quyết định. “Sự thay đổi của điều kiện kinh tế - xã hội sớm hay muộn cũng sẽ dẫn đến sự thay đổi của pháp luật để phù hợp. Pháp luật luôn phản ánh trình độ phát triển kinh tế, nó không thể thấp hơn hay cao hơn trình độ phát triển của kinh tế”[7] Muốn pháp luật phát huy được hiệu quả, pháp luật phải phù hợp với những điều kiện cụ thể của xã hội ở thời điểm tồn tại của nó, nghĩa là pháp luật phải phản ánh đúng những nhu cầu khách quan của xã hội. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, kinh tế và xã hội phát triển làm xuất hiện ngày càng nhiều hơn các các nhu cầu mới trong đó có nhu cầu về mang thai hộ. Sở dĩ nhu cầu mang thai hộ nhiều do tỷ lệ vô sinh của người phụ nữ ở nước ta ngày càng cao. Bên cạnh đó, xã hội ngày càng hiện đại, kinh tế ngày càng phát triển đã góp phần làm tăng mức sống, mức thu nhập của người dân, nhiều người có cơ hội tiếp cận với kỹ thuật mang thai hộ vì chi phí của việc mang thai hộ là rất cao. Như vậy, chính sự đặc trưng và phổ biến của việc mang thai hộ đã đòi hỏi pháp luật cần nhanh chóng xây dựng các quy định về mang thai hộ để điều chỉnh quan hệ xã hội liên quan đến vấn đề này nhằm hạn chế những hiện tượng tiêu cực xảy ra trong thực tiễn cuộc sống. 1.3.3. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật Sau khi Luật được ban hành, Luật phải được thi hành. Pháp luật muốn thi hành được đòi hỏi phải có các yếu tố đảm bảo "hiện thực hóa" các quy định đó trong 18
- cuộc sống. Việc xây dựng pháp luật mang thai hộ trong giai đoạn hiện nay là phù hợp nhờ vào những thành tựu phát triển của khoa học kỹ thuật đặc biệt trong lĩnh vực y học. Quá trình mang thai hộ buộc phải có sự tham gia của các cơ sở y tế để tiến hành các kỹ thuật đối với người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ, đây là những kỹ thuật khó, đòi hỏi trình độ cao. Do đó, dù pháp luật cho phép mang thai hộ nhưng nếu khoa học học kỹ thuật về lĩnh vực y học không phát triển cũng không đủ điều kiện để thực hiện việc mang thai hộ trong thực tế. Với những thành tựu kỹ thuật y tế về mang thai hộ của Việt Nam hiện nay được giới chuyên gia nước ngoài đánh giá cao về sự tiến bộ và phát triển, đáp ứng được các yêu cầu khoa học và chuyên môn. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng những quy định pháp luật về mang thai hộ tại Việt Nam. Nó không chỉ là nền tảng khoa học để đưa ra khái niệm pháp lý liên quan mang thai hộ mà còn là cơ sở thực tiễn để đưa ra những quy định về mang thai hộ có tính khả thi, hiệu quả cao khi áp dụng vào thực tế. Do vậy, khi xây dựng các quy định pháp luật về mang thai hộ, chúng ta không chỉ dựa trên nền tảng yếu tố phong tục tập quán, tinh thần nhân đạo, điều kiện kinh tế xã hội mà còn dựa trên những thành tựu cũng như định hướng phát triển của khoa học kỹ thuật để nâng cao tính thực tiễn, tính khả thi cũng như hiệu quả lâu dài của quy định pháp luật. [6, tr20-23] 1.4. Pháp luật về mang thai hộ ở một số nước trên thế giới Theo phân tích điều tra về mang thai hộ thì trong tổng số 105 quốc gia được thăm dò chỉ 71(68%) quốc gia trả lời câu hỏi về mang thai hộ. Hầu hết các quốc gia không trả lời về thụ tinh trong ống nghiệm để mang thai hộ là vì lý do tôn giáo. Trong số 71 quốc gia trả lời thì 15 (21%) quốc gia cho phép thụ tinh trong ống nghiệm để mang thai hộ và được quy định trong luật, 13 (23%) quốc gia có chủ trương, 30 (42%) quốc gia không cho phép và 10 (14%) quốc gia không đề cập đến thụ tinh trong ống nghiệm để mang thai hộ. 17 trong tổng số 71 quốc gia (24%) việc thụ tinh trong ống nghiệm để mang thai hộ được thực hiện, nhưng trong đó có 9 quốc gia không có quy chế hoặc hướng dẫn về vấn đề này. (LV KSoat MTH) Các nước khác nhau có những quy định khác nhau về vấn đề mang thai hộ. Có quốc gia thừa nhận, và đã luật hóa mang thai hộ nhưng có quy định điều kiện chặt chẽ, có quốc gia không thừa nhận nhưng cũng không cho phép; có nhiều quốc gia cấm hoàn toàn Sở dĩ có sự khác nhau này là do: truyền thống, 19
- phong tục, tập quán, chế độ xã hội cũng như vấn đề quản lý công dân, dư luận xã hội, trình độ khoa học kỹ thuật ở các nước là khác nhau. 1.4.1. Nhóm các nước đã hợp thức hóa mang thai hộ Các quốc gia đã hợp pháp hóa việc mang thai hộ được chia ra làm hai nhóm nước: Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương mại. Đối với các quốc gia thuộc nhóm vì mục đích nhân đạo, chẳng hạn như Anh, Hy Lạp, Hunggari, Hà Lan, Bỉ, Canada, Australia, Nam Phi, các thỏa thuận mang thai hộ chủ yếu được tiến hành trên cơ sở tự nguyện. Ở những quốc gia này, mang thai hộ được người dân quan tâm và ủng hộ bởi mang thai hộ ngoài việc giúp các cặp vợ chồng hiếm muộn thỏa mong ước có con còn góp phần đảm bảo quyền làm mẹ chính đáng của phụ nữ. Ở Anh, việc mang thai hộ bằng phương pháp hỗ trợ sinh sản và cả việc quảng cáo đề tìm người mang thai hộ đều được phép theo luật về thụ tinh nhân đạo từ năm 1994. Theo đó, Luât thừa nhận tính hợp pháp của việc hcuyeenr quyền làm cha mẹ từ người nhận đẻ thuê sang người thuê đẻ và việc xác định quan hệ cha mẹ con được thiết lập dựa trên quyết định của tòa án sau khi đứa trẻ ra đời theo yêu cầu của cặp vợ chồng đã thuê đẻ. Luật này cũng quy định cho người mẹ đẻ thuê có quyền phản đối việc xác định quan hệ cha mẹ con này trong thời hạn 6 tuần. Luật Hình sự Anh nghiêm cấm việc trả tiền cho người môi giới đối với việc mang thai hộ. [1, tr14]. Tại Anh, trừ phi được tòa án yêu cầu, người nhờ mang thai hộ không được phép chi trả bất kỳ khoản tiền nào đối với người mang thai vượt quá “các chi phí hợp lý” trong quá trình thai kỳ. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có cách giải thích cụ thể nào về “các khoản chi phí hợp lý” này có tính xác thực như thế nào. Theo luật pháp Anh, mọi khoản chi trả của người mẹ phục vụ cho quá trình mang thai đều được xem là “chi phí hợp lý”. Pháp luật Hungari quy định biện pháp mang thai hộ chỉ được thực hiện giữa các thành viên trong gia đình. Tại Israel, Luật về mang thai hộ quy định biện pháp hỗ trợ sinh sản chỉ dành cho các cặp vợ chồng đã đăng ký kết hôn. Người phụ nữ nhận mang thai hộ có thể là người độc thân hoặc đã li hôn hay góa phụ và không thể là nguồ mẹ sinh học của đứa trẻ được sinh ra từ việc mang thai hộ. [1, tr14] Nhìn chung, quy định pháp luật về mang thai hộ của các quốc gia này cũng có những nội dung tương đồng và phù hợp với thực tế của xã hội. 20
- Chính phủ các nước này phải lập ra các ủy ban đạo đức độc lập để xét duyệt các đơn xin mang thai hộ trên nguyên tắc thẩm tra từng trường hợp một. Pháp luật các nước nói trên không thừa nhận tính hợp pháp của các thỏa thuận mang thai hộ có trả tiền công. Các đối tượng được phép mang thai cũng chỉ được giới hạn trong những tiêu chuẩn nhất định, trong đó người mang thai hộ phải được xét lý lịch. [14] Hiện đã có một số quốc gia cho phép công dân nước mình mang thai hộ vì mục đích thương mại. Những quốc gia nổi bật trong danh sách này có thể kể đến Ấn Độ, Ukraine hay Thái Lan. Luật pháp các nước này thường không bắt buộc cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ phải là công dân của nước đó. Thậm chí một số nước chỉ đơn giản hợp pháp hóa mang thai hộ vì mục đích lợi nhuận chứ không xây dựng hoặc chưa hoàn thiện các văn bản luật để kiểm soát và hướng dẫn hoạt động này. Đối với nhóm nước này, thị trường chợ đen và nạn lạm dụng cơ thể phụ nữ để sinh lời vẫn là một mối lo ngại lớn. 1.4.2. Nhóm các nước chưa hợp thức hóa mang thai hộ Việc hợp pháp hóa mang thai hộ hay không tùy thuộc vào bản chất của nhà nước và các điều kiện kinh tế - văn hóa - xã hội của mỗi quốc gia. Các quốc gia hiện nay chưa cho phép mang thai hộ chủ yếu do những lý do sau đây: vì vấn đề nhân đạo liên quan đến tình cảm mẹ con giữa người mang thai và cháu bé, vì sự bóc lột tàn nhẫn sức khỏe của người mang thai hộ nhất là những phụ nữ nghèo khó ở các quốc gia nghèo, đang phát triển; lo ngại về vấn nạn buôn bán trẻ em Đặc biệt các nước này lo ngại với việc cho phép mang thai hộ sẽ dẫn đến việc khuyến khích người dân thực hiện việc mang thai hộ vì những lý do như nghề nghiệp, thẩm mỹ Tại một số quốc gia có nền y tế và pháp luật tiến bộ như Thụy Điển, Tây Ban Nha, Pháp hay Đức, việc mang thai hộ là bất hợp pháp. Năm 1991, tòa án tối cao Pháp tuyên bố: “Cơ thể con người là không phải để cho mượn, cho mướn hay để bán đi”. Quyết định này cấm tuyệt đối mọi hình thức mang thai hộ dẫu là tự nguyện hay được thương mại hóa. Mọi trường hợp bị phát hiện sẽ phải hầu tòa, thậm chí bị buộc tội hình sự. Tại tỉnh Quebec, Canada cấm tất cả các thỏa thuận "mang thai hộ". Bộ luật Dân sự Quebec làm cho tất cả các hợp đồng "mang thai hộ", cho dù thương mại hay nhân đạo, đều không thể thực thi. Điều 541, Bộ luật dân sự của Quebec năm 21
- 1991 quy định: "bất kỳ thỏa thuận nào, theo đó một người phụ nữ cam kết sinh sản hoặc mang theo một đứa trẻ cho một người khác là hoàn toàn vô giá trị" Tại Cộng hòa Liên bang Đức, pháp luật quy định cấm việc mang thai hộ dưới mọi hình thức với quan điểm, việc làm này vi phạm nhân phẩm con người. Vì vậy, để phù hợp với Hiến pháp, Cộng hòa Liên Bang Đức đã ban hành Đạo luật về bảo vệ phôi thai và thích ứng Đạo luật môi giới con nuôi. Việc mang thai hộ vi phạm nhân phẩm của cả đứa trẻ và người mẹ. Đứa trẻ bị coi là đối tượng của hợp đồng và bị biến thành hàng hóa; còn người mẹ “mang thai hộ” được coi là dã tự biến mình trở thành người “cho thuê tử cung”. Qua thực tiễn xét xử ở đây, quyền được có cong không được công nhận là quyền cơ bản vì cho rằng không ai có thể đòi quyền có con. Trong trường hợp vi phạm các quy định cấm của pháp luật, các bác sĩ và người môi giới tham gia vào việc này sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự. Hiện nay, ở Cộng hòa Liên bang Đức đang diên ra tranh luận nên vẫn tiếp tục cấm các việc liên quan đến mang thai hộ hay cần phải thay đổi quan điểm, nhận thức về mang thai hộ và trong chừng mực nhất định, pháp luật phải quy định cho phép mang thai hộ để phù hợp với thực tiễn của xã hội như nhiều quốc gia đã ghi nhận. [1, tr13] Như vậy, có thể thấy, các nước khác nhau có những quy định khác nhau về vấn đề mang thai hộ. Có quốc gia thừa nhận, đã luật hóa mang thai hộ theo cả mục đích nhân đạo hay vì mục đích thương mại, có quốc gia không thừa nhận nhưng cũng không cho phép; có nhiều quốc gia cấm hoàn toàn, Sở dĩ có sự khác nhau này là do: truyền thống, phong tục tục quán; chế độ xã hội cũng như trình độ khoa học kỹ thuật ở các nước là khác nhau. Việc thừa nhận mang thai hộ cũng như quy định như thế nào về pháp luật mang thai hộ tại Việt Nam không chỉ dựa trên những yếu tố “nội địa” của quốc gia cũng cần dựa trên những kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, nhằm nâng cao tính khả thi, hiệu quả của pháp luật về mang thai hộ tại Việt Nam. 1.5. Vai trò, ý nghĩa của pháp luật về mang thai hộ 1.5.1. Vai trò của pháp luật về mang thai hộ Trong cuộc sống hôn nhân hiện nay, có rất nhiều cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn. Theo các chuyên gia y tế và dân số, với nhiều lí do khác nhau mà tỉ lệ các cặp vợ chồng (đang ở độ tuổi sinh đẻ) bị vô sinh (không thể có con tự nhiên với nhau) ngày càng gia tăng trong số các cặp vợ chồng ở độ tuổi sinh đẻ. Nguyên do 22
- là do cơ địa mỗi người hoặc cũng có thể do các yếu tố bên ngoài như điều kiện sinh hoạt, thực phẩm ăn hàng ngày, Sự khao khát có một đứa con huyết thống để chăm sóc và nuôi dưỡng của họ rất lớn, chính vì thế mà các phương pháp hỗ trợ sinh sản xuất hiện, trong đó có cả mang thai hộ. Tuy nhiên, đi theo đó là vô vàn các hệ quả pháp lý, những rắc rối cho cả bên nhờ mang thai và bên mang thai cũng như cho cả chính quyền. Sự tham gia của pháp luật điều chỉnh vấn đề này đã mở ra những cơ hội cho các cặp vợ chồng vô sinh được hiện thực hóa ước mơ làm cha, làm mẹ - một trong những nhu cầu chính đáng của con người. Trên thế giới, không phải quốc gia nào cũng pháp luật hóa vấn đề này. Tuy nhiên điều đó vẫn diễn ra dù có được pháp luật công nhận hay không do “có cầu thì sẽ có cung” và mục đích hướng tới cuối cùng là một bên có con và một bên có tiền. Nếu pháp luật không có quy định thì do nhu cầu, một số cặp vợ chồng vẫn thực hiện việc này, dẫn đến quyền lợi, sức khỏe và kể cả tính mạng của phụ nữ, trẻ em không được bảo đảm, tranh chấp có thể phát sinh. Việc quy định về quyền mang thai hộ (dù là vì mục đích thương mại hay vì mục đích nhân đạo) thì vẫn đảm bảo sự kiểm soát của pháp luật. Cụ thể, pháp luật quy định về điều kiện mà các bên phải đáp ứng, nếu không thực hiện đủ các điều kiện đó thì sẽ không được phép mang thai hộ, hoặc các bên vi phạm sẽ không được thực hiện tiếp các bước tiếp theo để tiến hành mang thai hộ. Các điều kiện này cần có sự tham gia của các cơ sở y tế, các cơ quan quản lý Nhà nước, đảm bảo chặt chẽ về thủ tục pháp lý và quyền lợi cho các bên. Về cơ chế, nội dung mà pháp luật kiểm soát là quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia vào mang thai hộ và chế tài xử lý khi xảy ra vi phạm hoặc tranh chấp. Như vậy, pháp luật sẽ bảo hộ cho các bên để thực hiện quyền mang thai hộ. Và dựa vào pháp luật, các chủ thể trong quan hệ này được đảm bảo về quyền và lợi ích trong khi mang thai hộ “chui” không có căn cứ gì để bảo vệ cho tương lai của họ và đứa trẻ khi sinh ra. Thực tế, đã có nhiều trường hợp thỏa thuận mang thai hộ được thực hiện qua trung gian môi giới hoặc giữa 2 bên với nhau mà không theo thủ tục pháp luật đã dẫn đến việc bên nhờ mang thai bỏ rơi không nhận con, hoặc bên mang thai hộ không giao con, Câu chuyện về bé trai mắc bện Down bị cha mẹ người Úc bỏ rơi khi nhờ mang thai hộ đã lên tiếng chuông cảnh tỉnh cho pháp luật các nước về sự cần thiết của quy định về mang thai hộ. 23
- Câu chuyện thương tâm này xảy ra ở Thái Lan và đang là để tài được cả thế giới nói đến. Một cặp vợ chồng người Australia đã phải sử dụng phương pháp mang thai hộ bởi họ không thể thụ thai một cách tự nhiên. Họ nhờ một phụ nữ Thái có thể là Pattaramon Chanbua mang thai hộ với giá 15,000 đô la Mỹ. Người phụ nữ này sinh đôi, một trai một gái, bé gái khỏe mạnh thì được cha mẹ Úc đem về nuôi, bé trai mang bệnh Down thì bị bỏ lại. Không những bị bệnh down, cậu bé không may hiện đã được 6 tháng tuổi có tên là Gammy này còn bị các chứng bệnh hiểm nghèo khác, như bệnh tim bẩm sinh, nhiễm trùng phổi, và đang điều trị ở một bệnh viện, bà mẹ không có tiền để lo cho con. Gia đình người mẹ “đẻ thuê” này đang liên tiếng nhờ đến các nhà hảo tâm trên Thế giới giúp đỡ mình về kinh tế để có thể tiếp tục cưu mang đứa trẻ tội nghiệp này.[12] Sau vụ việc xảy ra này, Thái Lan cũng đã phải xem xét và sửa đổi lại quy định về mang thai hộ nghiêm ngặt hơn. Trên đây chỉ là 1 ví dụ điển hình cho việc mang thai hộ “chui” và những hậu quả pháp lý khó lường trước trong thực tiễn xã hội. Có rất nhiều trường hợp mà các bên chủ thể tham gia phải “đau đầu” do chính vòng luẩn quẩn mà mình tạo ra. Sở dĩ xảy ra như vậy là do không có sự kiểm soát của pháp luật cùng những hợp đồng không rõ ràng, minh bạch, có nhiều điều khoản gây bất lợi cho bên nhờ mang thai hộ hoặc bên mang thai hộ (Chủ yếu là bên mang thai hộ vì đối tượng ở đây là những người nghèo, dân trí thấp, cần tiền). Bên nhờ mang thai hộ dễ rũ bỏ trách nhiệm của mình và bên mang thai hộ có thể không được nhận thù lao và sự chăm sóc thai sản cần có, Tất cả những điều đó đều khiến cho các bên luôn có thể ở trong trạng thái bị động, yếu thế nếu bên còn lại làm gì đó đi ngược lại với thỏa thuận ban đầu; và thiệt thòi nhất ở đây có lẽ là đứa trẻ được sinh ra từ phương pháp này. Một số nước không công nhận mang thai hộ nên những đứa trẻ sinh ra dưới dạng “đẻ thuê” không được “minh bạch” về khai sinh, kéo theo đó là những hệ quả pháp lý về chăm sóc, sự bảo vệ, quyền và nghĩa vụ của chúng sau này. Vì vậy, việc ban hành các quy định pháp luật về mang thai hộ có ý nghĩa rất lớn. Sự tham gia của pháp luật vào quan hệ này là phương tiện cần thiết để các bên chủ thể thực hiện nhu cầu và quyền được mang thai hộ của mình dưới sự kiểm soát của Nhà nước; là hành lang pháp lý, bảo vệ được quyền của bên nhờ mang thai hộ, bên mang thai hộ và thai nhi; đảm bảo xác định được quan hệ cha, 24
- mẹ, con hợp pháp, bảo vệ quyền và lợi ích của đứa trẻ khi sinh ra. Hơn nữa cũng giúp Nhà nước kiểm soát tốt tình hình dân số và tỉ lệ tội phạm xảy ra. 1.5.2. Ý nghĩa của pháp luật về mang thai hộ a) Mang thai hộ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc Mang thai hộ mà cụ thể là mang thai hộ vì mục đích nhân đạo mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được hiểu cơ bản là việc người phụ nữ mang thai và sinh con cho người phụ nữ khác không có khả năng sinh sản mà không đòi hỏi các yêu cầu về vật chất hay lợi ích khác. Yếu tố huyết thống của một con người dù thế nào cũng không thể thay đổi nên điều khiến một người phu nữ khác sẵn sang giúp đỡ để sinh con cho một cặp vợ chồng qua phương pháp thụ tinh ống nghiệm và có sự hỗ trợ của y học được nhìn nhận như một hành vi nhân đạo cao cả. Nhìn rộng hơn nhữa đó còn là tình đồng loại cũng tương tự như việc hiến máu nhân đạo, hiến bộ phận cơ thể để cứu giúp những người khác đang trong hoàn cảnh khó khăn hiểm nghèo. Pháp luật cần thiết phải cho phép việc mang thai hộ vì ý nghĩa nhân văn của nó, chúng ta chỉ đặt vấn đề mang thai hộ không gì khác ngoài mục đích nhân đạo để tạo cơ hội cho những cặp vợ chồng không thể thực hiện được hết quá trình thụ thai, sinh nở. b) Đảm bảo hoàn thiện gia đình trong xã hội Mang thai hộ giúp đảm bảo khả năng thực hiện chức năng cơ bản của gia đình là chức năng tái sản xuất con người. Là một trong những thiết chế cơ bản của xã hội, gia đình đảm nhận chức năng tái sản xuất con người; tái tạo, bảo dưỡng sức lao động cho xã hội. Tái sản xuất con người là một chức năng cơ bản và riêng có của gia đình. Hoạt động sinh con đẻ cái trước hết xuất phát từ nhu cầu tồn tại của chính con người, của xã hội, trong xã hội hiện đại đứa con trong gia đình vẫn là một biểu hiện của giá trị hạnh phúc gia đình, chức năng cơ bản này khiến các cá nhân gắn kết lại với nhau tạo thành gia đình có tính truyền thống và toàn cầu. Việc thực hiện chức năng này không chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu, mong ước của người vợ, người chồng mà còn là vấn đề của xã hội, vấn đề duy trì tính liên tục của xã hội. Nhờ có mang thai hộ mà chức năng duy trì nói giống của ác cặp vợ chồng hiếm muộn được đảm bảo đồng thời đáp ứng được nhu cầu sinh con cùng huyết thống cùng mã gen với bố mẹ. Yếu tố huyết thống không chỉ là cơ sở để xác định cha, mẹ, con mà còn là cơ sở xác định nguồn gốc, dòng họ, gia phả với những giá trị văn hóa tinh thần, đạo đức và truyền thống của dòng họ gắn với mỗi con người cụ thể. Đó cũng là lý do để những cặp vợ chồng hiếm muộn vẫn luôn khao khát 25
- có đứa con mang dòng máu của mình và cách duy nhất sau khi sử dụng các phương pháp hỗ trợ sinh sản thất bại chỉ có thể là mang thai hộ. Như vậy, mang thai hộ giúp đảm bảo sự hoàn thiện của gia đình trong xã hội và thực hiện chức năng cơ bản của gia đình là chức năng tái sản xuất con người. 1.6. Các tiêu chí hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo Pháp luật về mang thai hộ được xây dựng dựa trên nhu cầu xã hội và tình hình thực tiễn. Phục vụ cho những đối tượng và trường hợp cụ thể dưới sự kiểm soát của Nhà nước. 1.6.1. Hoàn thiện pháp luật để bảo đảm về quyền cho các bên tham gia Việc quy định mang thai hộ dựa trên yếu tố nhân đạo của pháp luật Việt Nam đã thể hiện tinh thần đạo đức của dân tộc, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp 2013. Bản chất “mang thai hộ” là hết sức nhân văn vì là một sự giúp đỡ của một người phụ nữ này đối với người phụ nữ khác để sinh ra những đứa trẻ. Việc mang thai và sinh nở cũng là việc làm có ý nghĩa nhằm duy trì nòi giống, gắn kết và giữ gìn hạnh phúc mỗi gia đình, bởi vì con cái là động lực để cha mẹ chúng làm việc tốt hơn, sống có trách nhiệm hơn, góp phần vào sự ổn định, phồn vinh của xã hội. Một hệ thống pháp luật hoàn thiện là một hệt thống đảm bảo được quyền và lợi ích của mọi đối tượng có trong xã hội. a) Đối tượng mang thai hộ Với mang thai hộ, đối tượng ở đây cần được đặt trong pháp luật là những cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn, những bà mẹ đơn thân vô sinh khó có con và nhóm người đồng tính chuyển giới có nhu cầu có con chính đáng. Đó là những nhóm người yếu thế, cần được bảo vệ và yêu cầu được đối xử bình đẳng.Những cặp vợ chồng vô sinh mặc nhiên là đối tượng đầu tiên được xem xét tham gia vào quan hệ này nhưng chúng ta cũng không thể bỏ qua trường hợp khác khiếm khuyết hơn về hôn nhân. Pháp luật không nên “đóng khung” các trường hợp cụ thể được phép nhờ mang thai hộ và các đối tượng mang thai hộ. Điều này tuy đảm bảo được sự kiềm soát của nhà nước nhưng lại bó hẹp lại cơ hội cho các trường hợp khác có nhu cầu có con chính đáng nhưng không đáp ứng đủ các điều kiện theo luật định. 26
- b) Điều kiện mang thai hộ Cần thiết phải có những điều kiện cơ bản để thực hiện quá trình mang thai hộ đối với bên nhờ mang thai và bên nhận mang thai hộ như: - Yêu cầu xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyển về việc người nhờ mang thai hộ không thể có con (đã trải qua các biện pháp hỗ trợ sinh sản khác hoặc vướng các vấn đề về bệnh lí khiến quá trình có con khó khăn) - Tình trạng có/chưa có con trước khi yêu cầu thực hiện mang thai hộ: cho thấy khả năng mang thai bình thường hoặc không bình thường của người nhờ mang thai hộ. Quy định này để ngăn chặn sự biến tướng về mục đích mang thai hộ chính đáng. Trường hợp sau khi sinh con mà đứa con bị mắc những bệnh như down hay một số bệnh lí khác khiến chúng không thể phát triển được bình thường hoặc không còn sống thì những trường hợp này vẫn nằm trong dạng được nhờ mang thai hộ, miễn việc đảm bảo rằng việc thêm một đứa con nữa không vi phạm đến chính sách dân số của quốc gia. - Quy định về người nhận mang thai hộ: độ tuổi phù hợp nhận mang thai hộ, sức khỏe, khả năng mang thai và những điều kiện cần có khác tương thích với tình hình xã hội, phù hợp với chuẩn mực đạo đức và yêu cầu của pháp luật như người thân trong gia đình hoặc bạn bè – những người tự nguyện nhận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo chứ không phải vì các yêu cầu về kinh tế hay vật chất khác. Việc tìm người mang thai hộ cần phải được dễ dàng để tạo điều kiện cho những người vô sinh, muốn có con qua phương pháp này. - Điều kiện về ý chí của bên mang thai hộ: Điều kiện về ý chí của các bên trong việc mang thai hộ là điều kiện tiên quyết để việc mang thai hộ được thực hiện. Theo đó, phải đảm bảo sự tự nguyện giữa 2 bên. Đây là điều kiện quan trọng để các bên có tâm lí thoải mái nhất, sẵn sàng đón nhận việc mang thai hộ. Trường hợp người mang thai hộ độc thân thì phải có giấy cam kết mang thai hộ hoàn toàn tự nguyện, không do ép buộc. Còn nếu trường hợp bên mang thai hộ đang tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng; trong trường hợp người chồng bị mất năng lực hành vi dân sự thì người phụ nữ nhận mang thai hộ lúc này được quyền đơn phương quyết định nhận hay không nhận mang thai hộ. Chính điều này là yếu tố quan trọng để ràng buộc trách nhiệm của các bên đối với việc mang thai hộ và là cơ sở pháp lí để giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện mang thai hộ [2]. 27
- c) Quyền và nghĩa vụ của mỗi bên Khi tham gia vào quan hệ mang thai hộ, đồng nghĩa với việc các bên tham gia ràng buộc mình vào những thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của bản thân đối với bên kia và ngược lại. Điều này để đảm bảo quá trình mang thai hộ diễn ra thuận lợi và tình trạng đứa trẻ được ổn định. - Đối với bên nhờ mang thai hộ: cần thanh toán đầy đủ các khoản chi phí để thực hiện mang thai hộ theo đúng yêu cầu và quy định; giải quyết hậu quả trong trường hợp tai biến sản khoa, hỗ trợ để bảo đảm sức khỏe của người mang thai hộ; không được từ chối nhận con và đảm bảo hoàn thành trách nhiệm với đứa trẻ từ khi nhận con cho đến khi trưởng thành. - Đối với bên nhận mang thai hộ: Có nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc, nuôi dạy đứa trẻ trong suốt thời kỳ mang thai để đảm bảo sự phát triển toàn diện của trẻ; không được từ chối giao con. Những yêu cầu về quyền và nghĩa vụ giữa hai bên với nhau không chỉ căn cứ trên thỏa thuận ban đầu mà còn phải dựa trên những quy định cụ thể của pháp luật. d) Quy định về thỏa thuận mang thai hộ trong bộ Luật Dân sự Về bản chất, thỏa thuận mang thai hộ là một thỏa thuận dân sự, do đó cũng giống như các thỏa thuận dân sự khác, thỏa thuận mang thai hộ cũng cần được pháp luật ghi nhận nguyên tắc thỏa thuận chung là: tự nguyện. Đó phải là sự thỏa thuận mà có sự thống nhất giữa tự do ý chí và bày tỏ ý chí, là sự ngang bằng về địa vị và quyền lợi, không có sự lừa dối, ép buộc giữa người mang thai hộ và người nhờ mang thai hộ. Việc ghi nhận nguyên tắc của thỏa thuận mang thai hộ là cần thiết bởi nó là cơ sở quan trọng để đánh giá tính hợp pháp của việc phát sinh sự kiện mang thai hộ [6, tr50]. Việc quy định về thỏa thuận mang thai hộ cần được quy định cụ thể thành một mục riêng trong Bộ luật Dân sự. Trong thỏa thuận về mang thai hộ pháp luật có những quy định rõ ràng những điều khoản về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia. Thỏa thuận theo ý chí tự nguyện nhưng vẫn phải căn cứ theo luật định. Hợp đồng mang thai hộ giúp các bên thể hiện được ý chí của mình; thỏa thuận với nhau trách nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết hợp đồng. Do quan hệ mang thai hộ là một quan hệ đặc biệt, dễ phát sinh tranh chấp và khó phân xử, nên hợp đồng mang thai hộ giúp bảo vệ các bên khỏi sự xâm phạm của bên kia và là cơ sở cho tòa án phân xử đúng sai nếu có tranh chấp xảy ra. [5, tr77] 28
- e) Quy định về chế tài xử lý vi phạm Trên tinh thần thực hiện pháp luật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, cần có những quy định chặt chẽ, cụ thể về chế tài xử lý vi phạm để những quy định về mang thai hộ được thực thi một cách nghiêm túc. Không chỉ quy định trong luật Hôn nhân và Gia đình hoặc Luật Dân sự mà cần thiết phải được đưa vào trong luật Hình sự với tội danh tội phạm xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình với cách xác định các tội phạm cụ thể cùng với khung hình phạt áp dụng cho loại tội phạm này. Để hạn chế tính thương mại của hành vi mang thai hộ đòi hỏi mức xử phạt phải đủ mạnh, tương xứng với hành vi vi phạm và có sức răn đe. Sở dĩ cần như vậy là bởi đây là quan hệ pháp luật đặc biệt, yếu tố con người cần được bảo vệ tuyệt đối để không đi ngược lại với quan điểm đáo đức của nhân dân và tinh thần của pháp luật. 1.6.2. Hoàn thiện pháp luật để phù hợp với truyền thống đạo đức Quan điểm về “cha sinh, mẹ đẻ” luôn sâu trong tư tưởng của người dân Việt Nam. Con phải là do mẹ mang nặng đẻ đau 9 tháng 10 ngày, “dứt ruột đẻ ra”. Đứa trẻ ấy được nuôi lớn trong sự yêu thương của cha mẹ chúng. Việc nhờ một người “đẻ hộ”, mang thai hộ hay phụ nữ “không chồng mà chửa” luôn bị dị nghi. Theo sự phát triển của nhịp sống hiện đại, người dân đã nâng cao nhận thức và có cái nhìn bao dung hơn với những trường hợp này. Vì thế pháp luật cũng thay đổi để phù hợp với xã hội, trao cho những người vô sinh có cơ hội để được làm cha mẹ bằng các biện pháp hỗ trợ sinh sản khác với sinh sản theo hướng “tự nhiên”, truyền thống như trước đây, đồng thời cũng là đề cao vai trò của sự hoàn thiện gia đình trong cuộc sống. Tuy nhiên, xã hội chúng ta chỉ cho phép thực hiện vì mục đích nhân đạo, có nghĩa là giống như một sự hỗ trợ, giúp đỡ để những người kém may mắn có thể hưởng trọn niềm vui được làm mẹ chứ không đồng thuận với những hành vi thương mại hóa, xem con người là vật mua bán, trao đổi. Pháp luật cần quy định theo hướng: “Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện của các bên và nghiêm cấm mang thai hộ vì mục đích thương mại hay vì các lợi ích vật chất khác”. Pháp luật cần làm rõ hơn như thế nào là “nhân đạo”, cần phải hiểu “nhân đạo” nghĩa là không gắn với mục đích kinh tế, thương mại mà đơn thuần chỉ là sự giúp đỡ hoàn toàn tự nguyện của bên mang thai hộ đối với bên nhờ mang thai hộ. Mặc dù đề xuất pháp luật mở rộng đối tượng chủ thể tham gia vào mang thai hộ không chỉ bó hẹp trong cặp vợ chồng vô sinh được quyền nhờ mang thai hộ hay 29
- điều kiện của người mang thai hộ là người thân thích cùng hàng nhưng để đảm bảo không trái với thuần phong mỹ tục của người Việt (mẹ ruột mang thai hộ cho con đẻ, mẹ chồng mai thai hộ cho con dâu hay phụ nữ độc thân muốn có con xin tinh trùng của họ hàng thân thích trong gia đình, ) pháp luật cũng cần quy định cấm một số trường hợp cụ thể (như trên) tham gia vào xây dựng mối quan hệ này để không xảy ra tranh chấp hoặc vi phạm đến tư tưởng đạo đức của nhân dân. 1.6.3. Hoàn thiện pháp luật để tương thích với pháp luật Quốc tế Trên phương diện quốc tế, quan hệ pháp luật mang thai hộ được xếp vào khía cạnh thuộc luật nhân quyền Quốc tế nhằm bảo vệ, thúc đẩy các quyền tự do cơ bản cho mọi thành viên của cộng đồng nhân loại. [25, tr113]. Những chủ thể tham gia vào quan hệ này thuộc nhóm người dễ bị tổn thương (phụ nữ, trẻ em, nhóm người đồng tính chuyển giới, ), là những người cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm người, cộng đồng khác. Do vị thế yếu hơn nên những nhóm người này rất dễ bị vi phạm các quyền hoặc gặp khó khăn trong việc hưởng thụ các quyền. Việt Nam hiện nay đã tham gia vào hầu hết các Công ước quốc tế cơ bản về quyền con người. Trong đó có Công ước về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ 1979, ký kết ngày 29-7-1980, phê chuẩn ngày 17-2-1982; Công ước về Quyền Trẻ em 1989, ký kết ngày 26-1-1990, phê chuẩn ngày 28-2-1990 và hai Nghị định thư bổ sung về trẻ em trong xung đột vũ trang (ký kết ngày 8-9- 2000, phê chuẩn ngày 20-12-2001) và chống sử dụng trẻ em trong các hoạt động mại dâm và tranh ảnh khiêu dâm (ký kết ngày 8-9-2000, phê chuẩn ngày 20-12- 2001); Công ước về Quyền của Người khuyết tật 2006, ký ngày 22-11-2007 và phê chuẩn ngày 5-2-2015; . [25] vì thế việc đảm bảo thực hiện quyền cho những nhóm người này là cần thiết. Theo đó, phụ nữ có quyền bình đẳng trong quan hệ hôn nhân gia đình như quyền quản lý tài sản, quyền được nghỉ ngơi, quyền được quyết định về con cái, Chính vì vậy mà không chỉ có những người phụ nữ vô sinh có quan hệ hôn nhân hợp pháp mới được nhờ mang thai hộ mà cả những người phụ nữ vô sinh độc thân cũng cần được đảm bảo quyền này. Đó là quyền mưu cầu hạnh phúc và quyền yêu cầu con cái cơ bản của họ. Trong luật quốc tế, trẻ em được coi là một trong các nhóm xã hội dễ bị tổn thương nhất.Trẻ em có quyền được hưởng sự chăm sóc, bảo vệ một cách đặc biệt không chỉ ở mức độ gia đình mà còn mở rộng đến trách nhiệm của quốc gia. Vì 30
- thế, pháp luật cần phải có những quy định tương thích với những quyền cơ bản mà trẻ em cần cótheo pháp luật Quốc tế về quyền trẻ em để bảo vệ cho lợi ích và sự phát triển chung. Hơn nữa, những trẻ em sinh ra từ biện pháp mang thai hộ lại là những trường hợp nhạy cảm hơn, dễ bị tác động ảnh hưởng đến tâm lý. Trách nhiệm đặt ra cho các nhà làm luật là cần phải quy định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia vào quan hệ này gồm bên nhờ mang thai hộ, bên nhận mang thai hộ; trách nhiệm của xã hội trong việc bảo đảm sự phát triển và lợi ích của trẻ em được sinh ra từ biện pháp này. Thực tế, không phải quốc gia nào trên thế giới cũng cho phép mang thai hộ hoặc có thể cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo hay thương mại, tùy vào quan điểm về đạo đức và pháp luật riêng. Tuy vậy, trên cơ sở là tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam, một số quốc gia có tư tưởng về nhân đạo trong vấn đề mang thai hộ rất “mở” nhưng vẫn đảm bảo hạn chế sự thương mại hóa mà cơ hội trao cho những cặp vợ chồng vô sinh lại nhiều hơn. Vì thế, chúng ta cần điều chỉnh pháp luật trong nước để tương thích với pháp luật quốc tế, học tập và kế thừa những tư tưởng tiến bộ về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo để xây dựng và áp dụng pháp luật toàn diện hơn, bảo vệ được tối đa quyền của phụ nữ và trẻ em; đồng thời tăng sự kiểm soát của pháp luật về các vấn đề xã hội liên quan, đảm bảo được quyền con người triệt để. 31
- KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Ở chương 1, tác giả đã nêu ra những vấn đề lý luận chung về mang thai hộ và việc cần thiết hoàn thiện pháp luật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo bao gồm các nội dung sau: Thứ nhất, tác giả đưa ra cách hiểu mang thai hộ, từ đó đưa ra khái niệm mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cùng với những đặc điểm của pháp luật về mang thai hộ. Thứ hai, tác giả trình bày nội dung của pháp luật về mang thai hộ và các yếu tố tác động đến việc quy định và hoàn thiện pháp luật. Thứ ba, tác giả nêu quy định về mang thai hộ trong pháp luật một số nước trên thế giới để qua đó Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm về quản lý và thực hiện pháp luật về mang thai hộ. Thứ tư, tác giả nêu vai trò, tầm quan trọng, ý nghĩa của pháp luật về mang thai hộ và các tiêu chí hoàn thiện pháp luật. Từ những lý luận chung này có thể hiểu rõ về mang thai hộ và sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật đối với mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. 32
- CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM 2.1. Thực trạng pháp luật về mang thai hộ 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam 2.1.1.1. Pháp luật Việt Nam trước khi có quy định về mang thai hộ Tại Việt Nam, mang thai hộ từ lâu đã tồn tại trong thực tiễn cuộc sống. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn là vì các lí do khác nhau mà có nhiều cặp vợ chồng vô sinh do người vợ không thể thụ thai hoặc sinh con ngay cả khi đã thử qua các biện pháp hỗ trợ sinh sản khác. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 không quy định về cho phép mang thai hộ, Nghị định số 12/2003/NĐ-CP nghiêm cấm mang thai hộ xong hoạt động này vẫn diễn ra lén lút dưới dạng “chửa thuê”, “đẻ thuê” bởi nhu cầu có con của các cặp vợ chồng hiếm muộn. Bằng nhiều hình thức, từ việc cấy phôi mang gen của cả 2 vợ chồng vào tử cung của người đẻ thuê hoặc thực hiện “trực tiếp” giữa người chồng và người nhận mang thai hộ, những đứa trẻ có được bằng phương pháp này lần lượt ra đời. Nhà nước mặc dù cấm nhưng vẫn phải áp dụng các biện pháp hành chính và pháp lí để bảo vệ quyền, lợi ích cho những trẻ em được sinh ra từ việc mang thai hộ trái pháp luật này. Sở dĩ pháp luật thời kỳ này không cho phép mang thai hộ bởi nhiều lý do: Thứ nhất: nhìn dưới góc độ pháp lý, cấm mang thai hộ là bởi mang thai hộ vốn là một vấn đề vô cùng nhạy cảm trong xã hội cũng như trong nền khoa học pháp lý. Nếu thừa nhận mang thai hộ sẽ dẫn đến sự gia tăng tình trạng mua bán trẻ sơ sinh bất hợp pháp, lách luật để sinh con thứ ba cũng như ảnh hưởng tới nhiều chế định trong Luật HN&GĐ 2000, trong đó có chế định xác định quan hệ cha, mẹ, con, gây khó khăn, phức tạp trong quá trình giải quyết quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan. Theo Luật HN&GĐ 2000 nguyên tắc xác định cha, mẹ, con là dựa vào sự kiện sinh đẻ, theo đó, người phụ nữ sinh ra đứa trẻ là mẹ của đứa trẻ (dù nó cùng hay không cùng huyết thống với người đã sinh ra nó). Vì vậy, nếu quy định về mang thai hộ sẽ làm đảo lộn phương pháp xác định cha, mẹ, con theo truyền thống bởi lúc này, người phụ nữ sinh ra đứa trẻ không phải là mẹ của đứa trẻ nữa, thay vào đó, người được xác định là mẹ của đứa trẻ lại là một người phụ nữ khác không trực tiếp sinh ra nó. Như vậy, nguyên tắc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp mang thai hộ là một ngoại lệ. 33
- Thứ hai, nhìn dưới góc độ đạo đức, có ý kiến cho rằng mang thai hộ là một hành vi vi phạm các chuẩn mực đạo đức, đi ngược lại truyền thống dân tộc, vì vậy khi nói đến mang thai hộ đã vấp phải sự phản đối kịch liệt của nhiều người. Đến năm 2000-2001, với những thành tựu của khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực y học, người dân đã biết đến và dần chấp nhận một hình thức sinh sản mới đó là sinh sản bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm. Vì pháp luật nghiêm cấm mang thai hộ nên trong trường hợp mang thai hộ bị phát hiện thì sẽ bị xử phạt hành chính. Cụ thể, khoản 3 Điều 10 Nghị định số 96/2011/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về khám, chữa bệnh như sau:“phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: mang thai hộ; sinh sản vô tính; cấy tinh trùng, noãn, phôi giữa những người cùng dòng máu về trực hệ và giữa những người khác giới có họ trong phạm vi ba đời”. Dù pháp luật nghiêm cấm mang thaihộ nhằm hạn chế những tiêu cực xảy ra nhưng khi quy định này được áp dụngvào thực tiễn đã nảy sinh nhiều vướng mắc, bất cập. Cụ thể: Một là: NĐ 12/2003/NĐ-CP chỉ quy định nghiêm cấm mang thai hộ và sinh sản vô tính trong khi chưa có bất cứ sự giải thích nào của pháp luật về phương pháp mang thai hộ, gây khó khăn cho công tác thực thi pháp luật. Hai là: Phạm vi đối tượng mà NĐ 12/2003/NĐ-CP đưa ra quá rộng, nghiêm cấm mang thai hộ dưới mọi hình thức. Đối với những cặp vợ chồng trong đó người vợ không có khả năng mang thai và sinh con tự nhiên thì quy định này vô hình chung đã hạn chế quyền quyền được làm cha, làm mẹ của họ. Ba là: Các vấn đề pháp lý có liên quan như xác định cha, mẹ cho đứa trẻ được sinh ra, các quyền nhân thân và tài sản của đứa trẻ với những người có liên quan như: người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ cũng không được pháp luật đề cập tới [6, tr30-33]. Với nhu cầu của các cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn muốn có con hoặc vì các mục đích khác thì mặc dù pháp luật không quy định nhưng vẫn có rất nhiều các trường hợp vẫn “lén lút” mang thai hộ “chui” bằng nhiều hình thức khác nhau, thậm chí là ra nước ngoài, nơi cung cấp dịch vụ mang thai hộ dẫn đến nhiều rủi ro như: người nhận mang thai hộ không giao đứa bé cho bên nhờ mang thai hộ như đã thỏa thuận, trong quá trình mang thai hộ không thực hiện đúng thỏa thuận như thăm khám, phát sinh những rắc rối về mặt giấy tờ pháp lý đặc biệt khi có tranh chấp phát sinh giữa người nhờ mang thai hộ và người nhận mang thai hộ về việc xác định cha, mẹ, con; quyền nhân thân và quyền tài sản của đứa trẻ, quyền 34
- và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mang thai hộ sẽ không có cơ sở pháp lý để giải quyết; do đó gây ra nhiều thiệt thòi, ảnh hưởng đến quyền lợi của đứa trẻ cũng như của các bên liên quan. Theo xu hướng này, Dự thảo Luật Hôn nhân và Gia đình (sửa đổi) đã được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ hợp thứ 7 (Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014), quy định chính thức về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, thể hiện tính nhân văn sâu sắc của pháp luật nước ta. 2.1.1.2. Các quy định của pháp luật hiện hành về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo A. Quy định về mang thai hộ trong luật Hôn nhân và Gia đình 2014 Hơn 10 năm sau, luật Hôn nhân và Gia đình 2014 căn cứ theo điều kiện thực tiễn phát triển xã hội đã có sửa đổi và quy định về việc mang thai hộ. Bổ sung hai khái niệm mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương mại cùng các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành. Trong đó, tại điểm g khoản 2 điều 5 về “Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình” cũng có quy định “nghiêm cấm mang thai hộ vì mục đích thương mại” cùng với các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính. Theo đó, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con. Còn mang thai hộ vì mục đích thương mại là việc một người phụ nữ mang thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để được hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác. Như vậy, việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương mại được phân định bởi việc giữa hai bên có thỏa thuận về việc bên mang thai hộ được hưởng lợi về kinh tế hay các lợi ích khác hay không. Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và Nghị định số 10/2015/NĐ-CP đã quy định cụ thể và chặt chẽ các điều kiện cho việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; buộc các bên tham gia vào quá trình mang thai hộ phải tuân thủ. Đây là cơ chế kiểm soát cho việc mang thai hộ không bị chệch hướng và là cơ sở pháp lý để việc mang thai hộ có hiệu lực; chi phối quyền và nghĩa vụ của các bên và 35
- được bảo đảm thực hiện trong quá trình mang thai hộ. Việc mang thai hộ phải bảo đảm các nguyên tắc áp dụng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. a) Đối với người nhờ mang thai hộ Thứ nhất, cặp vợ chồng vô sinh muốn nhờ mang thai hộ là phải tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp, nghĩa là quan hệ hôn nhân phải được pháp luật thừa nhận và bảo hộ. Đây là quy định nhằm ràng buộc quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng với nhau cũng như đối với đứa trẻ được sinh ra từ việc mang thai hộ [2, tr13]. Quy định này khác với trường hợp các đối tượng thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, được áp dụng cho cả người phụ nữ độc thân và cặp vợ chồng vô sinh ( Điều 93 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 ; Khoản 1 điều 3 NGHỊ ĐỊNH SỐ 10/2015/NĐ-CP /2015/NĐ-CP). Điều 3. Nguyên tắc áp dụng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo 1. Cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa; cặp vợ chồng vô sinh có quyền nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Theo quy định trên thì việc mang thai hộ chỉ được đặt ra đối với trường hợp là cặp vợ chồng vô sinh, còn đối với trường hợp là phụ nữ độc thân chỉ có quyền sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa. Đối với nhóm người đồng tính, song tính và chuyển giới (gọi tắt là LGBT), do pháp luật Việt Nam không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính nên với tư cách là cá nhân đơn lẻ, họ cũng không được phép nhờ mang thai hộ. Đặc biệt là các cặp đồng tính nam muốn có đứa con ruột thịt của mình bằng việc nhờ người phụ nữ khác mang thai hộ cũng không được chấp thuận. Thứ hai, cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ phải là cặp vợ chồng vô sinh. Vô sinh là tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ tình dục trung bình từ 2 – 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ vẫn không có thai. 1 Đối với cặp vợ chồng vô sinh, nguyên nhân có thể do vợ hoặc chồng và người vợ cũng không thể mang thai được ngay cả khi có sự can thiệp của các biện pháp hỗ trợ sinh sản. Song vẫn phải đảm bảo điều kiện là người chồng có tinh trùng, người vợ có noãn được xác định là đảm bảo chất lượng để kết hợp thụ tinh. Đây 1 Xem: Khoản 2 điều 2 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 36
- là điều kiện nhằm đảm bảo cho quá trình mang thai hộ cũng như việc giao nhận con sinh ra từ việc mang thai hộ được thực hiện một cách tốt nhất. Thứ ba, vợ chồng đang không có con chung. Với điều kiện này, do chưa có quy định và hướng dẫn cụ thể từ các cơ quan có thẩm quyền nên có thể suy đoán theo các trường hợp sau: -Vợ chồng vô sinh, chưa có con chung với nhau nên được quyền nhờ mang thai hộ - Vợ chồng tuy đã có con chung nhưng con sau khi sinh đã chết vẫn được quyền nhờ mang thai họ (vì hiện tại vợ chồng chưa có con chung và pháp luật không hạn định về số lần nhờ mang thai hộ của cặp vợ chồng vô sinh) - Vợ chồng dù đã có con chung nhưng con bị mắc các chứng bệnh tâm thần, bênh down .thì về nguyên tắc không được nhờ mang thai hộ. Tuy vậy, nếu không được nhờ mang thai hộ thì không phù hợp với thực tế khi nguyện vọng chính đáng của vợ chồng là có con “lành lặn” cả về thể chất và trí tuê. Trong trường hợp này, pháp luật cần xem xét nguyện vọng chính đáng để cho phép các vợ chồng vô sinh được nhờ mang thai hộ [1, tr17]. Thứ tư, vợ chồng nhờ mang thai hộ đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. Thông qua việc tư vấn, người nhờ mang thai hộ được cung cấp thông tin cần thiết về mặt y tế, mặt pháp lý cũng như mặt tâm lý. Điều kiện này là rất cần thiết để cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ hình dung được toàn bộ quá trình mang thai hộ, những vấn đề phát sinh xung quanh việc mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của mình trong việc nhờ mang thai hộ. Từ đó, họ quyết định có thực hiện nhờ mang thai hộ hay không. Điều này cũng là tiền đề đảm bảo cho trẻ em sinh ra từ việc mang thai hộ được hưởng các quyền lợi của mình và được pháp luật bảo vệ. b) Đối với người mang thai hộ: Khoản 3 điều 95 Luật hôn nhân và gia đình 214 quy định điều kiện đối với người được nhờ mang thai hộ như sau: a) Phải là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ; b) Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần; c) Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ; d) Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng; e) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý; 37
- Trước hết, người mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ. Nghị định của Chính phủ số 10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo xác định: “Người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc chồng nhờ mang thai hộ bao gồm: Anh, chị,em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác nha; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì của họ; anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ, hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha với họ” 2. Điểm a Khoản 3 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2014 cũng đã quy định người được nhờ mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ. Việc pháp luật quy định như vậy nhằm tránh các hành vi trục lợi, lợi dụng điều này để thương mai hóa hành vi mang thai hộ. Việt Nam hiện nay về trình độ y học hoàn toàn đủ khả năng để thực hiện được kỹ thuật y tế liên quan đến thụ tinh ống nghiệm để phục vụ cho mang thai hộ. Nhưng vấn đề ở đây liên quan đến mặt đạo đức xã hội. Sự lo ngại về mang thai hộ sẽ bị thương mại hóa trong khi bản chất của nó là phải vì nhân đạo bởi lẽ pháp luật cấm việc buôn bán người và trẻ em không phải một dạng hàng hóa để mua bán đổi chác. Việc quy định người nhờ mang thai hộ phải là người thân thích trong gia đình sẽ làm giảm bớt lợi ích mà bên được nhờ mang thai hộ đòi hỏi các điều kiện, đảm bảo hạn chế những biến tướng của việc mang thai hộ đồng thời cũng ngăn chặn những nguy cơ có thể phá vỡ kết cấu và hạnh phúc gia đình. Hơn nữa nếu là người trong gia đình thì sẽ đảm bảo được dòng máu, gen di truyền và phù hợp với thuần phong mỹ tục của Việt Nam. Thứ hai, người mang thai hộ đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần. Điều kiện này nhằm đảm bảo có sự trải nghiệm, kinh nghiệm của người mang thai hộ với thiên chức làm mẹ; bảo đảm sự hòa hợp về tình cảm, tâm lí của cả hai bên nhờ và bên nhận mang thai hộ trong quá trình mang thai hộ. Mang thai và sinh con là cả một quá trình mà người phụ nữ phải trải qua nhiều gia đoạn khác nhau của thai kỳ, phải có chế độ ăn uống, nghỉ ngơi, chăm sóc đặc biệt để đảm bảo sự phát triển của thai nhi trong bụng. Người đã mang thai và sinh con một lần sẽ có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc chăm sóc và giữ gìn sự an toàn, sức khỏe của thai nhi hơn cũng như biết cách phòng ngữa những biến chứng, 2 Xem: Khoản 2 điều 7 Nghị định của Chính phủ số 10/2015/NĐ-CP 38
- những tác động không tốt đến sức khỏe của thai nhi. Mặt khác, điều kiện này bảo đảm sức khỏe cho bên mang thai hộ cũng như các quy định khác liên quan, ví dụ như chính sách kế hoạch hóa gia đình của Nhà Nước. Thứ ba, người mang thai hộ phải ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ. Mặc dù hiện nay pháp luật chưa có quy định cụ thể về độ tuổi phù hợp để mang thai hộ nhưng cũng có thể khẳng định người mang thai hộ phải đang ở trong độ tuổi sinh sản tốt nhất. Nếu dưới 18 tuổi là độ tuổi pháp luật chưa cho phép mang thai và cơ thể của người phụ nữ lúc đó được cho là chưa hoàn thiện về mặt sinh học, chưa phù hợp để sinh con. Còn sau tuổi 30, khả năng sinh nở của người phụ nữ bắt đầu giảm dần và đó là lý do vì sao các cặp vợ chồng khó có con hơn và cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề sinh sản hơn. Qua tuổi 40, khả năng sinh sản của nữ giới bắt đầu giảm, trứng rụng thưa dần, mỗi năm có thể có vài chu kỳ kinh nguyệt không có trứng rụng. Đến một lúc nào đó, người phụ nữ sẽ bước vào thời kỳ mãn kinh, kết thúc tuổi sinh sản. Vì thế theo tác giả, có thể suy ra độ tuổi sinh sản phù hợp nhất với quy định này là từ trên 18 đến dưới 35 tuổi. Sự xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ đảm vảo cho sự an toàn về điều kiện sức khỏe của người mang thai hộ và của thai nhi, đảm bảo cho việc mang thai hộ đạt được kết quả như mong muốn. Thứ tư, người phụ nữ mang thai hộ phải được sự đồng ý bằng văn bản của người chồng nếu đang có chồng.Đây là điều kiện về ý chí của bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ. Điều kiện về ý chí của các bên trong việc mang thai hộ là điều kiện tiên quyết để việc mang thai hộ được thực hiện. Việc yêu cầu sự đồng ý của người chồng của người phụ nữ nhận mang thai hộ là sự cần thiết. Bởi việc mang thai hộ lúc này không phải là chuyện riêng của người vơ mang thai hộ mà là việc chung của cả hai vợ chồng và của gia đình riêng của họ. Ý chí thỏa thuận đồng ý của người chồng của người phụ nữ nhận mang thai hộ còn là cơ sở pháp lý quan trọng làm phát sinh và thực thi các quyền, nghĩa vụ của hai bên trong quá trình mang thai hộ cũng như giải quyết các hệ quả pháp lý liên quan đến việc mang thai hộ. Trường hợp chồng của người phụ nữ mang thai hộ không đồng ý thì không thể thực hiện quá trình mang thai hộ. Thứ năm, người mang thai hộ đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. Đây là điều kiện bắt buộc để việc mang thai hộ được thực hiện. Điều kiện này cũng tương tự như đối với người nhờ mang thai hộ, giúp cho người mang thai hộ cân 39
- nhắc về việc có nên thực hiện mang thai hộ người khác hay không. Người mang thai hộ phải được biết các vấn đề liên quan đến việc mang thai hộ như: vấn đề về sức khỏe, sự an toàn, sự rủi ro có thể xảy ra của quá trình mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của 2 bên, để từ đó có quyết đúng đắn và thỏa mãn nguyện vọng của mình đồng thời chuẩn bị tâm lý ổn định cho việc mang thai hộ chuẩn bị được thực hiện. c) Về điều kiện của cơ sở khám, chữa bệnh phải đáp ứng các điều kiện về máy móc, thiết bị y tế, nhân sự. Hiện có 3 cơ sở khám bệnh được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đó là: – Bệnh viện Phụ sản trung ương; – Bệnh viện Đa khoa trung ương Huế; – Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ thành phố Hồ Chí Minh d) Về thủ tục thực hiện việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo Thực hiện việc thỏa thuận bằng văn bản với người mang thai hộ, bao gồm những nội dung sau đây: – Thông tin đầy đủ về bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ theo các điều kiện có liên quan – Cam kết thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. – Việc giải quyết hậu quả trong trường hợp có tai biến sản khoa; hỗ trợ để bảo đảm sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thời gian mang thai và sinh con, việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai bên đối với con trong trường hợp con chưa được giao cho bên nhờ mang thai hộ và các quyền, nghĩa vụ khác có liên quan; – Trách nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết theo thỏa thuận. Văn bản mang thai hộ cần thực hiện công chứng theo quy định của pháp luật. Cặp vợ chồng chuẩn bị hồ sơ, gửi hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được phép thực hiện kỹ thuật này, gồm: - Đơn đề nghị được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ theo Mẫu số 04 ban hành kèm theo Nghị định này; 40
- - Bản cam kết tự nguyện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo Mẫu số 05 ban hành kèm theo Nghị định này; - Bản cam đoan của người đồng ý mang thai hộ là chưa mang thai hộ lần nào; - Bản xác nhận tình trạng chưa có con chung của vợ chồng do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ xác nhận; - Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm về việc người vợ có bệnh lý, nếu mang thai sẽ có nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người mẹ, thai nhi và người mẹ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; - Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đối với người mang thai hộ về khả năng mang thai, đáp ứng quy định đối với người nhận phôi theo quy định tại Khoản 4 Điều 5 Nghị định này và đã từng sinh con; - Bản xác nhận của Ủy Ban Nhân Dân cấp xã hoặc người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ tự mình chứng minh về mối quan hệ thân thích cùng hàng trên cơ sở các giấy tờ hộ tịch có liên quan và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính xác thực của các giấy tờ này; - Bản xác nhận của chồng người mang thai hộ (trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng) về việc đồng ý cho mang thai hộ. - Bản xác nhận nội dung tư vấn về y tế của bác sỹ sản khoa; - Bản xác nhận nội dung tư vấn về tâm lý của người có trình độ đại học chuyên khoa tâm lý trở lên; - Bản xác nhận nội dung tư vấn về pháp luật của luật sư hoặc luật gia hoặc người trợ giúp pháp lý; - Bản thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa vợ chồng nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ theo quy định. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ sở được cho phép thực hiện kỹ thuật mang thai hộ phải có kế hoạch điều trị để thực hiện kỹ thuật mang thai hộ. Trường hợp không thể thực hiện được kỹ thuật này thì phải trả lời bằng văn bản, đồng thời nêu rõ lý do. 41
- Nội dung của thỏa thuận mang thai hộ: Theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên, được thành lập thành văn bản và phải được công chứng theo quy định của pháp luật3. Nội dung cơ bản của văn bản thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đao, bảo gồm: -Thông tin đầy đủ về bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ theo các điều kiện có liên quan quy định tại Điều 95 Luật HNGĐ ( các điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo); - Cam kết thực hiện các quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 97 (Đối với người mang thai hộ) và Điều 98 (Đối với người nhờ mang thai hộ) của Luật HNGĐ; - Việc giải quyết hậu quả trong trường hợp có tai biến sản khoa, hỗ trợ để đảm bảo sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thời gian mang thai và sinh con, việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai bên đối với con trong trường hợp con chưa được giao cho bên nhờ mang thai hộ và các quyền, nghĩa vụ khác có liên quan; - Trách nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết theo thỏa thuận4. [4, tr58] Quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc mang thai hộ Luật HNGĐ quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc mang thai hộ bao gồm các quyền và nghĩa vụ giữa họ đối với nhau, quyền và nghĩa vụ của họ đối với đứa con sinh ra từ việc mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của đứa con sinh ra từ việc mang thai hộ với các thành viên trong gia đình người nhờ mang thai hộ, quyền được hưởng chính sách phúc lợi xã hội của các bên, quyền được khởi kiện giải quyết tranh chấp về mang thai hộ, a) Quyền, nghĩa vụ của bên mang thai hộ: Trước hết, người mang thai hộ, chồng của người mang thai hộ có quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ và phải giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Thứ hai, người mang thai hộ phải tuân thủ quy định về thăm khám, các quy trình sang lọc để phát hiện, điều trị các bấ thường, dị tật của bào thai theo quy định của Bộ y tế. 3 Xem: Khoản 1 điều 95 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 4Xem: Khoản 1 điều 96 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 42
- Thứ ba, người mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Trong trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ mà thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày thì người mang thai hộ vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60 ngày. Việc sinh con do mang thai hộ không tính vào số con theo chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Thứ tư, bên mang thai hộ có quyền yêu cầu bên nhờ mang thai hộ, thực hiện hỗ trợ, chăm sóc sức khỏe sinh sản. Trong trường hợp vì lí do tính mạng, sức khỏe của mình hoặc sự phát triển của thai nhi, người mang thai hộ có quyền quyết định về số lượng bào thai và việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai phù hơp với quy định của pháp luật về chăm sóc sức khỏe sinh sản và sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Thứ năm, trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con thì bên mang thai hộ có quyền yêu cầu tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con5. b) Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ: Bên nhờ mang thai hộ có nghĩa vụ phải chi trả các chi phí thưc tế để bảo đảm việc chăm sóc sức khỏe sinh sản theo quy định của Bộ y tế. Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đối với con phát sinh kể từ thời điểm con được sinh ra. Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội từ thời điểm nhận con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi. Bên nhờ mang thai hộ không được từ chối nhận con. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chậm nhận con hoặc vi phạm nghĩa vụ về nuôi dưỡng cho con theo quy định về cấp dưỡng của Luật HNGĐ và bị xử lí theo quy định của pháp luật có liên quan; nếu gây thiệt hại cho bên mang thai hộ thì cần phải bồi dưỡng kịp thời và đầy đủ. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chết thì con được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật Dân sự về thừa kế đối với di sản của bên nhờ mang thai hộ. Giữa con sinh ra từ việc mang thai hộ với các thành viên khác của bên nhờ mang thai hộ có các quyền, nghĩa vu theo quy định của Luật HNGĐ, Bộ luật Dân sự và các luật khác có liên quan. 43
- Người mang thai hộ có nghĩa vụ phải giao con cho cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ theo đúng như cam kết giữa hai bên ghi nhận trong thỏa thuận. Trong trường hợp bên mang thai hộ từ chối giao con thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu tòa án buộc bên mang thai hộ giao con6. c) Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo: Trong cuộc sống, việc người phụ nữ sinh con làm cơ sở phát sinh mối quan hệ giữa cha mẹ và con. Quan hệ cha mẹ con không phụ thuộc vào hôn nhân của cha mẹ có hợp pháp hay không mà phụ thuộc vào sự kết hợp giữa trứng của người phụ nữ và tinh trùng của người đàn ông tạo ra phôi là đứa con mang gen di truyền của cả hai người. Nhà nước và pháp luật quy định nguyên tắc suy đoán pháp lý xác định cha, mẹ, con vì đó là cơ sở nhằm xác thực mối quan hệ cha mẹ con, từ đó mới phát sinh các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản trong mối quan hệ này theo quy định của pháp luật. Xét về mặt y học, mang thai hộ được hiểu là dùng biện pháp kỹ thuật lấy trứng của vợ và tinh trùng của chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của một người phụ nữ khác để nhờ người này mang thai hộ do tử cung của người vợ không thể mang thai. Với các tiến bộ trong lĩnh vực sinh sản, chức năng làm mẹ sinh học hoàn toàn có thể được phối hợp giữa người mẹ chính thức - là người cung cấp trứng và người mẹ mang thai hộ - là người phụ nữ mang phôi thai từ trứng của người vợ đã được thụ tinh với tinh trùng của người chồng. Vì thế, xét về mặt sinh học thì người mang thai hộ hoàn toàn không phải là mẹ của đứa bé, mà chỉ là người giúp cho phôi thai phát triển rồi khi đủ ngày đủ tháng, đứa trẻ đó ra đời mà thôi. Hiện nay, để xác định được mối quan hệ cha, mẹ và con, người ta thường sử dụng kỹ thuật khoa học mới nhất là xét nghiệm ADN xem có sự trung khớp hay không, đây là biện pháp xét nghiệm trên bộ gen di truyền cho kết quả chính xác đến 99,9% và biện pháp này cũng đã được áp dụng rộng rãi ở Việt Nam. Trong trường hợp mang thai hộ, nếu như áp dụng kỹ thuật xét nghiệm ADN để xác định mẹ đứa trẻ được sinh ra thì kết quả ADN của đứa trẻ sẽ trùng khớp với kết quả ADN của người mẹ nhờ mang thai hộ, do đứa trẻ được hình thành từ trứng đã chứa bộ gen của người [4, tr55,56] 6 Điều 97, Luật HNGĐ 44
- Xét về góc độ pháp lý, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã khẳng định: con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra 7. Vì vậy, vợ chồng nhờ mang thai hộ sẽ có quyền và nghĩa vụ nhận trẻ ngay khi trẻ vừa được sinh ra. Như vậy, xét cả trên phương diện sinh học, đạo đức và pháp luật, con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ. Nguyên tắc suy đoán pháp lý xác định cha mẹ cho con theo quy định tại khoản 1 điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 được áp dụng: Con sinh ra trong thời kì hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kì hôn nhân là con chung của vợ chồng8. Quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản giữa cha mẹ và con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ, giữa con với các thành viên của gia đình bên nhờ mang thai hộ được pháp luật thừa nhận và bảo hộ. Trường hợp có tranh chấp từ xác định cha, mẹ, con sẽ do tòa án giải quyết khi có yêu cầu [1, tr21]. B. Quy định về mang thai hộ trong các văn bản pháp luật khác Quy định về mang thai hộ theo luật dân sự năm 2015 Như đã nêu bên trên, trong luật Dân sự hiện nay không có quy định cụ thể về mang thai hộ. Tuy nhiên, thỏa thuận giữa 2 bên về mang thai hộ cũng được coi có tính chất như một hợp đồng thỏa thuận dân sự. Vì thế, có thể áp dụng tính chất của luật hợp đồng trong Bộ Luật Dân sự năm 2015 vào vấn đề này. Cụ thể trách nhiệm dân sự căn cứ theo quy định tại luật Hôn nhân và Gia đình trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết theo thỏa thuận như sau: -Thỏa thuận về việc mang thai hộ phải được lập thành văn bản có công chứng. Trong trường hợp vợ chồng bên nhờ mang thai hộ ủy quyền cho nhau hoặc vợ chồng bên mang thai hộ ủy quyền cho nhau về việc thỏa thuận thì việc ủy quyền phải lập thành văn bản có công chứng. Việc ủy quyền cho người thứ ba không có giá trị pháp lý. - Trong trường hợp thỏa thuận về mang thai hộ giữa bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ được lập cùng với thỏa thuận giữa họ với cơ sở y tế thực hiện việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì thỏa thuận này phải có xác nhận của người có thẩm quyền của cơ sở y tế này. 7Xem: Khoản 4 điều 93, Điều 94 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 8 Xem: Khoản 1 điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 45
- Trong thỏa thuận về mang thai hộ pháp luật đã quy định rõ những điều khoản về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia. Thỏa thuận theo ý chí tự nguyện nhưng vẫn phải căn cứ theo luật định. Hợp đồng mang thai hộ giúp các bên thể hiện được ý chí của mình bao gồm việc giải quyết hậu quả trong trường hợp tai biến sản khoa, hỗ trợ để bảo đảm sức khỏe của người mang thai hộ, trong thời gian mang thai, việc giao nhận con của các bên trong quan hệ mang thai hộ Cuối cùng, hợp đồng mang thai hộ giúp các bên thỏa thuận với nhau trách nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết hợp đồng. Do quan hệ mang thai hộ là một quan hệ đặc biệt, dễ phát sinh tranh chấp và khó phân xử, nên hợp đồng mang thai hộ giúp bảo vệ các bên khỏi sự xâm phạm của bên kia và là cơ sở cho tòa án phân xử đúng sai nếu có tranh chấp xảy ra. [5, tr77] Quy định về mang thai hộ theo Bộ luật Hình sự năm 2015 Việc mang thai hộ phải quy định tại các điều Luật hôn nhân và gia đình 2014 và Nghị định 10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Tuy nhiên, không ít trường hợp lợi dụng việc mang thai hộ để hưởng lợi về kinh tế, trái mục đích mà Nhà nước hướng tới khi cho phép mang thai hộ. Theo xu hướng đó, nhằm điều chỉnh hiện tượng lạm dụng việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đi ngược với bản chất nhân văn của việc mang thai hộ, Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS) đã bổ sung tội “Tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại” (Điều 187), nằm trong Chương XVII. Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình (BLHS). Đây là một điều luật mới nhằm đấu tranh, ngăn ngừa các hành vi lợi dụng quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014 cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo để trục lợi. Theo quy định tại điều 187 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại là hành vi thành lập, chủ trì, dụ dỗ, lôi kéo, lên kế hoạch để các bên mang thai hộ gặp nhau của một người hoặc một nhóm người có năng lực trách nhiệm hình sự, được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp vì mục đích hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác. [13] Điều 187 về Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích nhân đạo quy định: 1.Người nào tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. 46
- 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Đối với 02 người trở lên; b) Phạm tội 02 lần trở lên; c) Lợi dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức; d) Tái phạm nguy hiểm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm [9]. Dấu hiệu pháp lý: Khách thể: Hành vi tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại xâm hại đến chế độ quản lý nhà nước về sinh sản bằng phương pháp kỹ thuật và tính nhân đạo của hành vi mang thai hộ trong trường hợp vợ chồng gặp khó khăn về vấn đề sinh sản. Mặt khách quan: Tổ chức mang thai hộ là hành vi bao gồm tổng hợp của nhiều hành vi khác nhau từ việc tạo điều kiện cho các bên có nhu cầu mang thai hộ gặp gỡ, trao đổi, bàn bạc, sắp xếp, tạo điều kiện và hỗ trợ về các phương tiện để các bên tiến hành việc mang thai hộ bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Mục đích cuối cùng của người thực hiện hành vi là vì mục đích thương mại, nếu có hành vi “tổ chức” nhưng không “vì mục đích thương mại” thì không cấu thành tội này Chủ thể: Người phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại là bất kỳ người nào có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của BLHS là từ đủ 16 tuổi trở lên Mặt chủ quan: Người phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý trực tiếp, tức là “người tổ chức hiểu rõ được hành vi phạm tội của mình là gây nguy hiểm cho xã hội, hoj thực hiện một cách chủ động và mong muốn việc mang thai hộ diễn ra”; không có trường hợp người tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại thực hiện tội phạm do vô ý, vì người phạm tội này bao giờ cũng mong muốn thực hiện hành vi phạm tội. Người phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại thực hiện hành vi của mình với động cơ vụ lợi (nhằm hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác). Người phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại thực hiện hành vi của mình với mục đích thương mại [13]. 47