Khóa luận Giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự của tòa án nhân dân huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh

doc 55 trang tranphuong11 27/01/2022 5092
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự của tòa án nhân dân huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • dockhoa_luan_giai_quyet_trach_nhiem_boi_thuong_thiet_hai_ngoai.doc

Nội dung text: Khóa luận Giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự của tòa án nhân dân huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh

  1. BỘ CÔNG AN HỌC VIỆN AN NINH NHÂN DÂN  NGUYỄN ĐỨC HOÀNG GIẢI QUYẾT TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Chuyên nghành: Luật HÀ NỘI 6- 2020
  2. BỘ CÔNG AN HỌC VIỆN AN NINH NHÂN DÂN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP TÊN ĐỀ TÀI GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Luật Họ tên sinh viên: Nguyễn Đức Hoàng Lớp B4 Khóa DS4 Người hướng dẫn: ThS Hồ Thế Thiện HÀ NỘI 6 - 2020
  3. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT - BLDS : Bộ luật Dân sự. - BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự. - BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự. - BLHS : Bộ luật hình sự. - NQ : Nghị quyết.
  4. MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ 5 1.1 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 5 1.1.1 Khái niệm 5 1.1.2. Điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt ngoài hợp đồng (Điều 584 BLDS 2015). 6 1.1.3. Các nguyên tắc bồi thường thiệt hại 9 CHƯƠNG 2: NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ 35 2.1. Các căn cứ pháp lý để áp dụng 35 2.2. Quy định của pháp luật hình sự về việc giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự 36 2.2.1. Việc giải quyết vấn đề bồi thường đồng thời giải quyết vụ án hình sự 36 2.2.2. Việc tách vấn đề bồi thường trong vụ án hình sự 38 2.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục giải quyết vấn đề bồi thường trong vụ án hình sự 41 2.3.1. Giai đoạn khởi tố vụ án 41 2.3.2. Giai đoạn điều tra và truy tố 42 2.3.3. Giai đoạn xét xử vụ án 42 2.3.4. Giai đoạn thi hành án 44 CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN THI HÀNH VÀ KIẾN NGHỊ ĐỂ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ 45 3.1.Thực tiễn thi hành các quy định về nguyên tắc giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự 45
  5. 3.2. Một số kiến nghị để hoàn thiện các quy định về nguyên tắc vấn đề bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự 46 3.2.1. Về lập pháp 46 3.2.2. Về áp dụng pháp luật 46 KẾT LUẬN 53 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 55 PHỤ LỤC 56
  6. LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự là một chế định quan trọng trong luật dân sự. Theo quy định tại Điều 275 BLDS năm 2015 thì một trong những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự là sự kiện “Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật” và tương ứng với căn cứ này là các quy định tại chương XX, phần thứ ba Bộ luật dân sự (BLDS) “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”. Sự kiện gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật là căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong trường hợp này trách nhiệm được hiểu là nghĩa vụ, bổn phận của người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Nhà làm luật trong trường hợp này đã đồng nghĩa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng với “Nghĩa vụ phát sinh do hành vi trái pháp luật”. Điều 584 BLDS đã xác định sự đồng nghĩa này bằng quy định: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này”. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường và từ nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại tạo ra quan hệ nghĩa vụ tương ứng với khái 1
  7. niệm nghĩa vụ được qui định tại Điều 274 BLDS: “Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền). Từ quy định này có thể nêu khái niệm về nghĩa vụ bồi thường thiệt hại như sau. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại là một loại quan hệ dân sự trong đó người xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tái sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác mà gây thiệt hại phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ được những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng chế định qui định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tổng hợp, khóa luận sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam đối với các quy định về chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự trên thực tế. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Để thực hiện được mục đích trên, khóa luận phải hoàn thành một số nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau: - Nghiên cứu những căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự; - Nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam và một số thực tiễn áp dụng chúng tại Toà án. Từ đó chỉ ra những điểm bất cập, thiếu hợp lý trong các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong pháp luật hình sự Việt Nam; - Đưa ra một số đề xuất nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong quá trình giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự. 2
  8. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài Trong khuôn khổ quy định pháp luật hiện hành, trong bối cảnh cải cách tư pháp, khóa luận tập trung chủ yếu vào các vấn đề liên quan đến chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trung làm sáng tỏ một vài trường hợp cụ thể: Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm; Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm; Bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm; Bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm và bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (Điều 601 BLDS). 5. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, chính sách của Nhà nước về chiến lược cải cách tư pháp. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh. Cụ thể: - Phương pháp phân tích là phương pháp được tác giả sử dụng xuyên suốt trong 02 chương của khóa luận. Tại chương 1, tác giả sử dụng phương pháp phân tích để phân tích các khái niệm về chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự. Tại chương 2, tác giả sử dụng phương pháp này để phân tích nội dung các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự, phân tích những vướng mắc, khó khăn khi áp dụng các quy định pháp luật hiện hành để từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật. - Phương pháp thống kê được tác giả sử dụng để tập hợp số liệu thụ lý vụ án của toàn ngành Tòa án nhân dân. - Phương pháp tổng hợp là phương pháp được sử dụng để hoàn thành tiểu luận trên cơ sở phân tích, thống kê các tài liệu thu thập được. 6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của khóa luận Khóa luận nêu được cơ sở lý luận cơ bản của việc quy định pháp luật 3
  9. Việt Nam qua đó chứng minh quan điểm đúng đắn, chính xác của Đảng và nhà nước ta trong việc bảo vệ quyền công dân trong lĩnh vực này. Từ những quy định của pháp luật về trách nhiệm nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự, khóa luận khẳng định Nhà nước thừa nhận quyền của người dân. Trên cơ sở đó, khi quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm phạm thì người dân được thực hiện quyền yêu cầu Nhà nước bảo vệ quyền lợi cho mình. Trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật về thực hiện quy định pháp luật Việt Nam, khóa luận nêu lên được những nội dung tích cực cũng như tiêu cực, phát hiện những bất cập, hạn chế của quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự để từ đó có phương hướng khắc phục, sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam. Những kết luận, giải pháp, kiến nghị trong khóa luận góp phần làm căn cứ để hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam tại Tòa án nhân dân. Trên nền tảng đó, nhà nước ta hoàn thiện các chế định tư pháp, tăng cường quyền tiếp cận công lý của công dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài mục lục, lời mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và kết luận, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự. Chương 2: Nguyên tắc giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự. Chương 3: Thực tiễn thi hành và các kiến nghị hoàn thiện pháp luật. 4
  10. CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 1.1.1 Khái niệm Trách nhiệm bồi thường thiệt hại xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử phát triển của pháp luật thế giới cũng như pháp luật Việt Nam. Kế thừa những quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật Gia Long, pháp luật dân sự ngày nay đã có những qui định khá chi tiết về vấn đề này. Tiếp cận dưới cấp độ khoa học pháp lý, ta có thể hiểu (1) Trách nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình, gây tổn hại cho người khác thì phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm BTTH. Khái niệm về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng cũng được xây dựng dưới dạng quan điểm mà chưa được ghi nhận chính thức trong bất cứ một văn bản pháp luật nào. Theo đó, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng được hiểu là một loại trách nhiệm dân sự đó, người có hành vi trái pháp luật dân sự phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng phát sinh khi chủ thể luật dân sự có hành vi vi phạm nói chung như xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Ngoài ra, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng còn phát sinh ngay cả khi hai bên có quan hệ hợp đồng trong trường hợp gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng hoặc các bên có quan hệ hợp đồng nhưng thiệt hại xảy ra không liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. 5
  11. Là một loại trách nhiệm dân sự nên ngoài những đặc điểm của trách nhiệm dân sự nói chung, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng còn có những đặc điểm riêng như: - Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng chỉ đặt ra khi thỏa mãn những điều kiện nhất định do pháp luật quy định, giữa các bên có quan hệ hợp đồng thiệt hại xảy ra không liên quan đến hợp đồng. - Thiệt hại xảy rất đa dạng. - Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là trách nhiệm tài sản, hậu quả pháp lý mà người gây thiệt hại phải gánh chịu là hậu quả bất lợi về tài sản. - Người gây thiệt hại phải bồi thường trong một số trường hợp không có lỗi. 1.1.2. Điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt ngoài hợp đồng (Điều 584 BLDS 2015). Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Các điều kiện đó là: có thiệt hại xảy ra; hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra; có lỗi. Lỗi không phải là điều kiện bắt buộc làm phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng, trong một số trường hợp, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng phát sinh ngay cả khi người gây thiệt hại không có lỗi (khoản 3 Điều 601, Điều 603 BLDS 2015 và Nghị quyết số 03/2006/HĐTP-TANDTC ngày 8/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS về bồi thường thiệt hại). 1.1.2.1. Phải có thiệt hại xảy ra Thiệt hại là điều kiện đầu tiên làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường. Có thiệt hại thì mới phát sinh trách nhiệm bồi thường, đồng thời nội dung tranh chấp chủ yếu là thiệt hại. Vì vậy, việc xác định thiệt hại xảy ra hay không? Thiệt hại bao nhiêu là vấn đề quan trọng trong giải quyết tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. 6
  12. a. Thiệt hại về vật chất: - Thiệt hại do tài sản bị xâm phâm quy định tại Điều 589 BLDS; - Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 590 BLDS; - Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 591 BLDS; - Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 592 BLDS. b. Thiệt hại tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người gây thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm phạm mà người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu. 1.1.2.2. Hành vi trái pháp luật Hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp luật (Tiểu mục 1.2 mục I Nghị quyết số 03/2006/HĐTP-TANDTC ngày 8/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS về bồi thường thiệt hại). 1.1.2.3. Phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại (Tiểu mục 1.3 7
  13. mục I Nghị quyết số 03/2006/HĐTP-TANDTC ngày 8/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS về bồi thường thiệt hại). Mối quan hệ nhân quả là mối quan hệ nội tại tất yếu giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại, hay nói cách khác thiệt hại xảy ra là do chính kết quả trực tiếp, tất yếu của hành vi trái pháp luật. Trong tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài ngoài hợp đồng, mối quan hệ nhân quả là một vấn đề phức tạp, bỡi lẽ một thiệt hại xảy ra có thể là do tác động của một hoặc của nhiều hành vi trái pháp luật cũng có thể gây ra nhiều thiệt hại Trong trường hợp có nhiều hành vi trái pháp luật, thì cần làm rõ: thiệt hại do những hành vi nào (trong thực tế cùng lúc có nhiều hành vi trái pháp luật cùng xảy ra nhưng có hành vi nào là nguyên nhân chính hay tất cả đều là nguyên nhân hỗn hợp dẫn đến thiệt hại như nhau; hành vi nào là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại Cũng có nhiều trường hợp thiệt hại xảy ra lại là do một hành vi trái pháp luật khác xen vào chứ không phải do hành vi có chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh gây thiệt hại. Ví dụ: A dùng cây đánh B bị thương nặng, trên đường đi cấp cứu B lại bị xe của C đâm phải gây trấn thương sọ não dẫn đến tử vong. Như vậy, tuy hành vi của A có chứa đựng khả năng gây thiệt hại đến tính mạng của B nhưng khả năng này chưa kịp phát huy thì hành vi trái pháp luật của C lại xen vào phá vỡ đi khả năng đó và tạo ra một quan hệ mới trong quan hệ này thì hành vi trái pháp luật của C trực tiếp gây ra thiệt hại về tính mạng cho B. Tóm lại, việc xác định mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra trong nhiều trường hợp cụ thể rất phức tạp và dễ dẫn đến những sai lầm. Vì vậy, khi xem xét mối quan hệ này cần hết sức thận trọng, phải thu thập đầy đủ các tài liệu và chứng cứ, đánh giá một cách toàn diện đối với vấn đề đang giải quyết để có thể đưa ra một 8
  14. kết luận chính xác, xác định đúng người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và trách nhiệm bồi thường đó đến đâu. 1.1.2.4. Phải có lỗi cố ý hoặc vô ý của người gây thiệt hại a) Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra. b) Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được. Trong trường hợp pháp luật có quy định việc bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, thì trách nhiệm bồi thường của người gây thiệt hại trong trường hợp này được thực hiện theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó. Ví dụ: khoản 3 Điều 601 BLDS 2015 quy định: “3. Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ trường hợp sau đây: a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người gây thiệt hại; b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.” 1.1.3. Các nguyên tắc bồi thường thiệt hại Theo tinh thần điều 585 BLDS 2015 và Nghị quyết số 03/2006/NQ- HĐTP ngày 08/7/2008 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, quy định về nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau: Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương 9
  15. thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. a) Bồi thường thiệt hại toàn bộ, có nghĩa là khi có yêu cầu giải quyết bồi thường thiệt hại do tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm phải căn cứ vào các điều luật tương ứng của BLDS quy định trong trường hợp cụ thể đó thiệt hại bao gồm những khoản u, mỗi khoản bao nhiêu, trên cơ sở đó tính tổng mức thiệt hại đã xảy ra, mức độ lỗi của các bên để buộc người gây thiệt hại phải bồi thường tất cả các khoản thiệt hại tương xứng đó. b) Bồi thường thiệt hại kịp thời, Tòa án phải giải quyết nhanh chóng yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại trong thời hạn luật định. Trong trường hợp cần thiết có thể áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật tố tụng để giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự. - Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình. - Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay đổi mức bồi thường. 1.1.3.1. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường Điều 586 BLDS và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2008 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. 1.1.3.1.1. Cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Người gây ra thiệt hại có thể là bất cứ chủ thể nào: cá nhân, pháp nhân, cơ quan nhà nước, Nhưng việc bồi thường thiệt hại phải do người có “khả năng” bồi thường và chính họ phải tham gia vào quan hệ nghĩa vụ, mặc dù hành vi gây ra thiệt hại có thể không phải chính họ thực hiện. BLDS quy định về năng lực chịu trách nhiệm BTTH của cá nhân (Điều 586) mà không quy 10
  16. định về năng lực bồi thường của các chủ thể khác. Bởi vậy, các chủ thể khác được mặc nhiên coi là có năng lực chịu trách nhiệm BTTH. Việc xác định cá nhân nào có năng lực chịu trách nhiệm BTTH và phải BTTH trong trường hợp nào có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại. Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng phát sinh dựa trên các điều kiện do pháp luật quy định. Khi có thiệt hại xảy ra, thiệt hại xảy ra do hành vi trái pháp luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi thì trong đa số trường hợp, người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau như người gây thiệt hại bị mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, không có tài sản hoặc có tài sản nhưng không đủ để thực hiện trách nhiệm bồi thường mà người gây thiệt hại không thể trực tiếp bồi thường cho người bị thiệt hại. Vậy, câu hỏi đặt ra ai sẽ là người có trách nhiệm bồi thường trong những trường nêu trên ? Pháp luật cũng đã dự liệu cách giải quyết cho những tình huống này. Trong từng hoàn cảnh cụ thể, luật dân sự xác định trách nhiệm BTTH thuộc về cha, mẹ của người gây thiệt hại là người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi, người giám hộ của người gây thiệt hại là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, Cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là việc xác định người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại chính trong từng trường hợp gây thiệt hại cụ thể bất luận người đó có phải là người trực tiếp gây ra thiệt hại hay không. Việc cá thể hóa trách nhiệm bồi thường chính là việc quy trách nhiệm bồi thường cho một chủ thể cụ thể. Đây là việc làm có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong vấn đề BTTH ngoài hợp đồng. Cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ giúp cho việc giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại diễn ra dễ dàng hơn, xác định đúng người có trách nhiệm bồi thường sẽ tạo ra tính khả 11
  17. thi cho công tác thi hành án sau này; cá thể hóa trách nhiệm để xác định trách nhiệm thuộc về ai giảm bớt nguy cơ việc lạm dụng việc mất năng lực hay không đầy đủ khả năng nhận thức của người khác mà kích động họ gây thiệt hại cho người khác và thu lợi bất chính, đồng thời nâng cao tinh thần, trách nhiệm của những người có nghĩa vụ trông nom, giáo dục những người không có năng lực hành vi hoặc có năng lực hành vi một phần. Cá thể hóa trách nhiệm bồi thường có thể dựa trên những tiêu chí nhất định như độ tuổi và trình độ nhận thức. Cụ thể: - Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ gây thiệt hại thì phải tự mình BTTH. - Người dưới 18 tuổi là người chưa thành niên, do đó khi người chưa thành niên gây thiệt hại cần lưu ý: + Nếu người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu. + Nếu người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình. - Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường. - Người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt trong thời gian trường học, bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý thì các tổ chức 12
  18. này phải BTTH. Nếu tổ chức này chứng minh được mình không có lỗi thì cha mẹ người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự phải BTTH. 1.1.3.1.2. Năng lực bồi thường thiệt hại của người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Khoản 1 Điều 586 BLDS 2015 quy định: “ Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường”, tuy nhiên, qua việc xem xét mối liên hệ giữa quy định này với quy định tại Khoản 3 Điều 586 BLDS thì thấy rằng cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì phải tự bồi thường nếu gây thiệt hại. Điều 20 BLDS về năng lực hành vi dân sự của người thành niên quy định: “Người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi trở lên. Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại các điều 22, 23 và 24 của Bộ luật này”. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người thành niên nếu không bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình mà bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự; không nghiệm ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình mà bị Tòa án tuyên hạn chế năng lực hành vi dân sự thì được coi là có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Ở mỗi con người bình thường đều có khả năng hình thành và phát triển ý thức và tự ý thức. Nhưng phải qua quá trình hoạt động và giáo dục trong điều kiện xã hội, khả năng đó mới có thể trở thành hiện thực. Những người đáp ứng đủ các điều kiện trên, xét về cơ bản tâm sinh lý của họ đều đã phát triển một cách hoàn thiện. Họ hoàn toàn có đầy đủ khả năng để nhận thức về sự vật, sự việc và tự quyết định về hành động của mình, hoàn toàn có khả năng nhận biết được thế giới khách quan. Họ có nghĩa vụ phải biết trước những hành vi của mình sẽ đem lại những hậu quả như thế nào, hành vi đó xâm phạm đến lợi ích của các chủ thể khác hay không từ đó lựa chọn cách xử sự 13
  19. phù hợp, đảm bảo cân bằng giữa lợi ích cá nhân, lợi ích của các chủ thể khác và xã hội. Việc xác định người từ đủ mười tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ phải bồi thường cho những thiệt hại mà mình gây ra là hoàn toàn phù hợp. Bởi lẽ, người từ đủ mười tám tuổi trở lên có đủ điều kiện tham gia vào các quan hệ pháp luật do vậy, họ hoàn toàn có năng lực để tham gia và trở thành chủ thể của quan hệ BTTH và nếu là người gây thiệt hại thì họ hoàn toàn có đủ năng lực để thực hiện trách nhiệm bồi thường. Ở độ tuổi này, họ đã có khả năng lao động, có thể tạo ra thu thập, hình thành khối tài sản riêng của mình. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, một bộ phận không nhỏ trong số những người từ đủ mười tám tuổi trở lên là những người mới trưởng thành, họ vẫn còn đi học, chưa có công việc làm, chưa có thu nhập hay tài sản đáng kể, vẫn sống phụ thuộc vào cha, mẹ. Vì vậy, trong trường hợp những người từ đủ mười tám tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nhưng không có tài sản riêng gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thuộc về ai ? Nếu họ vẫn là những người phải chịu trách nhiệm BTTH thì họ phải thực hiện trách nhiệm đó như thế nào ? Nếu họ không thực hiện được thì phải chăng họ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi và những người bị thiệt hại cũng không được bồi thường ? Đây là một tình huống xảy ra khá phổ biến trong những vụ về xác định trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Nếu Tòa án áp dụng một cách tuyệt đối và cứng nhắc những quy định của pháp luật thì sẽ phải hoãn việc thi hành án cho đến khi người gây thiệt hại là người mới trưởng thành có việc làm, có thu nhập. Tuy nhiên, việc làm này lại trái với nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời, không đảm bảo khôi phục lại tình trạng ban đầu hoặc khắc phục thiệt hại một cách nhanh nhất, đảm bảo cuộc sống ổn định cho người bị thiệt hại trước khi xâm phạm. Vậy nên trong trường hợp này Tòa án có thể chủ động giải thích, khuyến khích cha mẹ người thành niên đó 14
  20. tự nguyện bồi thường thiệt hại do người mới trưởng thành gây ra. Tòa án có thể công nhận sự tự nguyện đó, nhưng về mặt pháp lý, không thể quyết định cha mẹ họ phải bồi thường. Ngoài ra, trong trường hợp người thành niên có thu nhập, còn ở chung và chung kinh tế với cha mẹ, mà gây thiệt hại thì họ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại bằng phần thu nhập thường xuyên của bản thân và phần tài sản chung với cha mẹ. Tòa án cần triệu tập cha mẹ họ đến phiên Tòa với tư cách là dự sự. 1.1.3.1.3. Năng lực bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại do tài sản của vợ chồng gây ra Liên quan đến vấn đề năng lực BTTH của người đã thành niên, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, theo ý kiến chủ quan, em xin được đề cập đến vấn đề BTTH ngoài hợp đồng do tài sản vợ chồng gây ra. Trên thực, có không ít những trường hợp tài sản gây thiệt hại là tài sản thuộc sở hữu chung hoặc riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Xác định trách nhiệm BTTH thuộc về ai trong những trường hợp này vẫn còn được ít nhắc tới. Căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành về tài sản, tài sản của vợ chồng bao gồm vật, tiền và các quyền tài sản. Tài sản của vợ chồng có thể là động sản hay bất động sản Tất cả các tài sản này dựa vào các căn cứ khác nhau mà được phân thành tài sản chung và tài sản riêng; việc xác định đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng của vợ, chồng là cơ sở để giải quyết các vấn đề liên quan đến trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng khi có thiệt hại xảy ra. Việc xác định trách nhiệm BTTH trong trường hợp thiệt hại do tài sản của vợ chồng gây ra, bên cạnh việc xem xét các yếu tố để xác định trách nhiệm BTTH còn phải căn cứ vào các loại tài sản cụ thể để xác định trách nhiệm BTTH. Chính vì vậy, trách nhiệm BTTH do tài sản của vợ chồng gây ra cần phải được xem xét trên những khía cạnh sau: Thứ nhất, cần phải xác định có căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng hay không khi tài sản của vợ chồng gây thiệt. Điều này được 15
  21. xác định dựa trên các căn phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng, cụ thể: có thiệt hại xảy ra, có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi (không có điều kiện bắt buộc). Thứ hai, cần xác định xem tài sản gây thiệt là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng. Đây là vấn đề quan trọng để chúng ta xác định trách nhiệm BTTH là trách nhiệm của một bên vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng. Chính vì thế, việc xác định một cách chính xác trách nhiệm của vợ chồng đối với việc BTTH trong trường hợp này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp về tài sản của vợ chồng, đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng của người bị thiệt hại. Thứ ba, mặc dù là trách nhiệm BTTH được xác định là của một bên vợ, chồng nhưng bên kia đã tự nguyện dùng tài sản chung của vợ chồng để bồi thường hoặc có khi dùng tài sản riêng của mình để bồi thường cho phía bị thiệt hại, điều này hoàn toàn được chấp nhận, miễn là thiệt hại được bồi thường toàn bộ và kịp thời theo đúng quy định của pháp luật. Theo nguyên tắc trách nhiệm thuộc về chủ sở hữu tài sản, trong trường hợp tài sản gây thiệt hại là tài sản chung của vợ chồng thì trách nhiệm BTTH phát sinh là trách nhiệm của cả hai vợ chồng. Điều này hoàn toàn phù hợp đối với tài sản chung hợp nhất của vợ chồng thì vợ, chồng hoàn toàn bình đẳng về căn cứ tạo lập tài sản, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Vì lẽ đó, cả hai vợ chồng phải có trách nhiệm BTTH bằng tài sản chung của mình. Cũng theo nguyên tắc nói trên, khi vợ, chồng có tài sản riêng gây thiệt hại thì trách nhiệm BTTH lúc này chỉ phát sinh đối với một bên vợ, chồng. Tuy nhiên, trong đời sống hôn nhân gia đình, thiệt hại này cũng có thể được vợ chồng thỏa thuận thỏa bồi thường bằng tài sản chung của vợ chồng. Trường hợp này được thể hiện khá rõ trong tình huống tài sản riêng của vợ, chồng là nguồn nguy hiểm cao độ nhưng lại do bên còn lại sử dụng và trong 16
  22. thời gian đó gây thiệt hại cho người khác. Khoản 2 Điều 601 quy định: “Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Cũng liên quan đến vần đề này, Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về BTTH ngoài hợp đồng bổ sung; “Nếu chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đã giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác mà gây thiệt thì phải xác định trong trường hợp cụ thể đó người được giao nguồn nguy hiểm cao độ có phải là người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hay không để xác định ai có trách nhiệm bồi thường thiệt hại”. Quan hệ chủ sở hữu tài sản và người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp trong trường hợp này được thể hiện dưới dạng một hợp đồng thuê, mượn tài sản. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của quan hệ hôn nhân và gia đình, thông thường hai bên vợ chồng không có thỏa thuận cụ thể về vấn đề này mà một bên để mặc cho bên kia sử dụng tài sản này vì lợi ích chung. Thực tế, việc xác định trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tài sản là nguồn nguy hiểm cao độ gây ra ở đây rất khó. Vì vậy, nên trong trường hợp này nên xác định trách nhiệm BTTH là trách nhiệm chung của vợ chồng, trừ trường hợp người kia sử dụng tài sản riêng của một bên không vì nhu cầu chung của gia đình mà gây thiệt hại hoặc vợ chồng thỏa thuận người sử dụng tài sản sẽ phải BTTH khi tài sản gây thiệt hại cho người khác, bất lợi tài sản đó là chung hay riêng. Xác định trách nhiệm BTTH của vợ chồng, trong các trường hợp tài sản của vợ, chồng gây thiệt hại cho đến nay còn khá nhiều phức tạp. Bình thường trong cuộc sống vợ chồng, ranh giới giữa tài sản chung và tài sản riêng rất mờ nhạt. Khi cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, người ta ít phân định “của em – của tôi” mà thường “ hòa làm một” vì lợi ích gia đình. Tuy nhiên, khi động chạm đến quyền lợi, người ta lại ý thức rất rõ về cái chung, cái 17
  23. riêng để tránh thua thiệt. Vì vậy, việc xác định trách nhiệm BTTH khi tài sản của vợ chồng gây thiệt hại cần xem xét một cách thấu đáo và đặt trong từng trường hợp cụ thể. 1.1.3.1.4. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên Điều 21 BLDS 2015 quy định: “Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi”. Người chưa thành niên là những người bắt đầu có sự nhận thức về hành vi của mình, tuy nhiên sự nhận thức này vẫn còn những hạn chế nhất định. Căn cứ vào độ tuổi và trình độ nhận thức và khả năng chịu trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng, pháp luật dân sự Việt Nam phân chia người chưa thành niên thành hai nhóm: những người dưới 15 tuổi và những người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi. Theo đó, năng lực chịu trách nhiệm BTTH của hai nhóm này cũng không giống nhau. a) Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi. Khoản 2 Điều 586 BLDS 2015 quy định:“ Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này”. Như vậy, trách nhiệm BTTH do người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại trước tiên được xác định cho cha, mẹ của người đó. Căn cứ vào sự phát triển về khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của cá nhân dựa trên cơ sở về độ tuổi, người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi được phân thành hai nhóm: - Cá nhân chưa đủ 6 tuổi. Những người thuộc nhóm tuổi này không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, được coi là những người không có năng lực hành vi dân sự. Họ không thể tự mình thực hiện các giao 18
  24. dịch dân sự do không nhận thức được hành vi của mình và hậu quả pháp lý của những hành vi đó. Vì vậy, giao địch dân sự của người chưa đủ 6 tuổi phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Cá nhân ở độ tuồi này cũng ít có năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác và hầu như không có năng lực để thực hiện trách nhiệm BTTH do mình gây ra, vì vậy, cha, mẹ của những người ở độ tuổi này là những người đại diện đương nhiên với tư cách bị đơn dân sự trước tòa. - Cá nhân từ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi là những người có năng lực hành vi dân sự một phần. Những người thuộc nhóm tuổi này chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm - sinh lý, trình độ nhận thức còn hạn chế vì vậy khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Pháp luật không quy định thế nào là giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi, tuy vậy, cần phải hiểu đó là những giao dịch có giá trị không lớn, nhằm thỏa mãn nhu cầu học tập, sinh hoạt vui chơi trong một giới hạn tài sản nhất định phù hợp với điều kiện sinh hoạt tại địa phương nơi cá nhân đó sinh sống. Nếu cá nhân từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi tham gia các giao dịch dân sự có giá trị lớn, không được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật thì người đại diên theo pháp luật có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. Như vậy, ta có thể thấy, sự phụ thuộc của những người chưa thành niên trong độ tuổi này vào bố mẹ – người đại diện theo pháp luật hợp pháp vẫn còn rất lớn. Điều này một mặc xuất phát từ tính chất nhân đạo của pháp luật đối với những người chưa thành niên phạm tội hoặc gây thiệt hại khác, mặt khác đề cao vai trò quản lý, giáo dục người chưa thành niên của cha mẹ. Cha mẹ, hay nói một cách khác khái quát hơn là gia đình có vi trò rất lớn trong việc giáo dục, quản lý người chưa thành niên. Bên cạnh đó, đây cũng là đối tượng rất được sự quan tâm của nhà trường và toàn xã hội. Người chưa thành niên 19
  25. dưới mười lăm tuổi, do chưa phát triển đầy đủ về mặt thể chất cũng như nhận thức nên thường là những đối tượng dễ uốn nắn, dễ bị ảnh hưởng, tác động từ bên ngoài. Sự giáo dục của cha mẹ trong giai đoạn này có tính chất quyết định đến việc định hình nhân cách của người chưa thành niên sau này. Người đó sẽ trở thành một công dân tốt hay xấu phần lớn phụ thuộc vào sự phát triển trong giai đoạn này. Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định vấn đề BTTH do con dưới mười lăm tuổi gây ra tại Điều 74 như sau:“Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định của Bộ luật dân sự. Kết hợp với các quy định tại Điều 590 BLDS 2015 có thể thấy, pháp luật nước ta rất coi trọng trách nhiệm và nghĩa vụ của cha mẹ trong việc BTTH do hành vi trái pháp luật của con từ dưới mười lăm tuổi gây ra. Chính vì thế, cha mẹ của những người gây thiệt hại trong độ tuổi này có tư cách bị đơn dân sự, có nghĩa vụ bồi thường toàn bộ cho thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con, trong khi chính cá nhân gây thiệt hại lại hoàn toàn không có trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên, pháp luật cũng dữ liệu những trường hợp mà cá nhân gây thiệt hại là người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi, cha, mẹ lại không có hoặc không đủ khả năng bồi thường. Trong trường hợp này, nếu con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường. Quy định này không nhằm loại trừ trách nhiệm của cha, mẹ. Thực tế, dù cha mẹ lấy tài sản riêng của con để bồi thường trong trường hợp tài sản của cha, mẹ không đủ hoặc không có tài sản cũng không có nghĩa là trách nhiệm BTTH đã chuyển sang cho người con. Giả sử người con không có tài sản riêng để thực hiện nghĩa vụ cho phần còn thiếu thì trách nhiệm vẫn thuộc về cha, mẹ. Như vậy, trong mọi trường hợp gây thiệt hại trái pháp luật mà không có căn cứ loại trừ trách nhiệm BTTH theo quy định của pháp luật, người bị thiệt hại đều được bồi thường, vấn đề là trách nhiệm bồi thường đó thuộc về ai mà thôi. Cần phải nói thêm, một lý do tham khảo nữa khiến luật quy định như 20
  26. vậy là do người chưa thành niên ở độ tuổi này không có hoặc chưa có khả năng lao động. Pháp luật hiện hành quy định độ tuổi lao động từ đủ mười lăm tuổi trở lên, trừ những công việc liên quan đến năng khiếu, nghệ thuật như múa, xiếc thì mới có người lao động dưới mười lăm tuổi, nhưng hợp đồng lao động giữa họ và người sử dụng lao động phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật cho họ. Chính vì thế, đa số người dưới mười lăm tuổi không có thu nhập hoặc tài sản riêng để thực hiện nghĩa vụ bồi thường cho người bị thiệt hại. b) Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi. Khoản 2 Điều 586 quy định: “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình”. Như vậy, cùng một điều luật quy định về năng lực chịu trách nhiệm BTTH của người chưa thành niên nhưng lại có sự khác nhau cơ bản giữa trách nhiệm của người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi và người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi. Nếu người dưới mười lăm tuổi, trách nhiệm BTTH được đặt ra trực tiếp với cha, mẹ của cá nhân gây thiệt hại, cá nhân gây thiệt không có trách nhiệm bồi thường thì người từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi lại phải chịu trách nhiệm trực tiếp cho những thiệt hại do hành vi của mình gây ra. Quy định này trước hết xuất phát từ trình độ phát triển về mặt thể chất và nhận thức của những cá nhân ở độ tuổi này. Cùng ở trong lứa tuổi chưa thành niên nhưng những cá nhân từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi đã có sự phát triển hơn hẳn những cá nhân dưới 15 tuổi. Cụ thể, những người chưa thành niên ở lứa tuổi này đã có sự nhận biết khá hoàn chỉnh về thế giới khách quan, có khả năng nhận biết được hành vi nào không gây thiệt hại và hành vi nào gây thiệt hại cho xã hội. Từ đó, lựa chọn cách xử sự hợp lý, phù hợp với lợi ích cá nhân và lợi ích của các chủ thể khác. Những người trong độ tuổi từ đủ 21
  27. 15 đến dưới 18 đã cơ bản hình thành về mặt nhân cách, nhận thức, không còn dễ uôn nắn và tác động như người chưa thành niên dưới 15 tuổi. Bên cạnh đó, người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có tài sản riêng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Như vậy, ta có thể thấy, cá nhân từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi đã có sự độc lập tương đối so với cha mẹ – những người đại diện theo pháp luật. Một lý do nữa lý giải cho quy định này đó là người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi, theo quy định của pháp luật hiện hành thì đã có khả năng lao động. Những người này, không chỉ về suy nghĩ, nhận thức đã có sự tách biệt tương đối với cha, mẹ mà ngay cả tài sản cũng bắt đầu có sự độc lập, tuy sự độc lập này là không lớn. Cá nhân từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi đã có thể tự mình lao động, từ đó có thu nhập riêng, có tài sản riêng. Tài sản của họ phần nào đó đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ trong những giao dịch dân sự do chính bản thân họ xác lập và thực hiện. Đồng thời, tạo điều kiện cho năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại được hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, do những người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi vẫn là những người chưa thành niên. Xét về mặt năng lực hành vi dân sự thì họ vẫn chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Vì vậy, trong trường hợp người chưa thành niên, chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ gây thiệt hại thì không thể loại trừ trách nhiệm của cha mẹ, người đại diện theo pháp luật. Khoản 2 Điều 586 còn quy định thêm người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại, nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình. Quy định này, một mặt nhằm ràng buộc trách nhiệm pháp lý của cha, mẹ trong việc giáo dục, quản lý đối với con chưa thành niên. Mặt khác, nhằm đảm bảo lợi ích cho người bị thiệt hại trong 22
  28. trường hợp người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi gây thiệt hại nhưng không đủ khả năng bồi thường toàn bộ. 1.1.3.1.5. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người được giám hộ Điều 46 BLDS 2015 quy định: “Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc được quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này (sau đây gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (sau đây gọi chung là người được giám hộ)”. Tuy nhiên, giám hộ ngoài việc thực hiện những nghĩa vụ theo luật định đối với người được giám hộ thì còn có trách nhiệm trong việc BTTH do hành vi trái pháp luật của người được giám hộ gây ra. Người được giám hộ theo Khoản 1 Điểu 47 bao gồm: “a. Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ; b. Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ; c. Ngườimất năng lực hành vi dân sự; d. Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”. a). Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người được giám hộ là người chưa thành niên. Người chưa thành niên theo quy định tại khoản 1 Điều 47 thì cần có người giám hộ. Do vậy, với người chưa thành niên vẫn còn cha, mẹ và cha, mẹ của họ không rơi vào các trường hợp nêu trên thì họ đương nhiên là đại diện cho con và thiệt hại do người chưa thành niên gây ra sẽ được cha, mẹ bồi thường theo cách thức bồi thường phân tích nêu trên. 23
  29. Nếu cha, mẹ của người chưa thành niên rơi vào các trường hợp nêu ở điểm a khoản 1 Điều 47, người chưa thành niên gây thiệt hại phải bồi thường thì trách nhiệm pháp lý trong khi thực hiện việc giám hộ của người giám hộ được đặt ra, trong đó có trách nhiệm BTTH. Ngưởi giám hộ được chia thành hai loại: giám hộ đương nhiên và giám hộ cử. Người giám hộ đương nhiên được xác định dựa trên mối quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng nhằm ràng buộc trách nhiệm giữa những người thân thích, ruột thịt trong gia đình với nhau. Người giám hộ đương nhiên không có quyền từ chối trách nhiệm giám hộ của mình, họ phải chịu trách nhiệm về những hành vi do người được giám hộ gây ra. Thứ tự các thành viên trong gia đình được pháp luật quy định làm người giám hộ đương nhiên cho người chưa thành niên, có nghĩa vụ chăm sóc, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người giám hộ, có trách nhiệm trong việc để người được giám hộ gây thiệt hại phải bồi thường sẽ được thực hiện như sau: - Trước hết là trách nhiệm của anh cả, chị cả đã thành niên đủ điều kiện làm người giám hộ. Nếu anh cả, chị cả không đủ điều kiện làm người giám hộ thỉ ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ. Trong trường hợp tất cả những người nêu trên không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì bác, chú, cô, cậu, dì là người giám hộ. Nếu không có người giám hộ đương nhiên thì sẽ phải cử người giám hộ. - Tuy nhiên, quy định về trách nhiệm BTTH của người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến 18 tuổi có người giám hộ lại khác về cơ bản so với quy định về trách nhiệm BTTH của người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi còn cha, mẹ. Ở trong trường hợp người gây thiệt hại là người chưa thành niên từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi còn cha mẹ thì trách nhiệm bồi thường trước tiên thuộc về người đó; nếu người đó không có tài sản hoặc tài sản không đủ để bồi thường thì trách nhiệm bồi thường mới được đặt ra với cha, mẹ. Ngược lại, ở trường hợp người gây thiệt hại là người chưa thành niên từ 24
  30. đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có người giám hộ thì trách nhiệm BTTH trước tiên lại thuộc về người giám hộ, sau đó mới là người chưa thành niên gây thiệt hại. Vậy phải chăng có gì đó không thỏa đáng trong tình huống này ? - Một điểm khác biệt nữa khi quy định về trách nhiệm BTTH do hành vi trái pháp luật của người chưa thành niên gây ra đó là: “Nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường” trong khi đó vấn đề lỗi không đặt ra đối với trường hợp người gây thiệt hại là người chưa thành niên còn cha mẹ, tức là cha mẹ vẫn phải bồi thường ngay cả khi không có lỗi. Vậy trong trường hợp người gây thiệt hại là người chưa thành niên, không có tài sản hoặc tài sản không đủ để bồi thường, người giám hộ không có lỗi trong việc giám hộ thì trách nhiệm bồi thường sẽ thuộc về ai ? - Thực tiễn áp dụng trách nhiệm BTTH trong trường hợp này vẫn có những tình huống xảy ra mà luật không dự liệu trước, khiến cho các thẩm phán tại các Tòa án gặp nhiều khó khăn trong công tác xét xử. Điều này được dẫn giải trong ví dụ: A là người chưa thành niên dưới 15 tuổi có cha mẹ nhưng cha mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự nên B là người giám hộ đương nhiên cho A trong các giao dịch dân sự. Một ngày, sau khi đi học về, A chơi đá bóng trên đường với một nhóm bạn cùng lớp. Trong lúc thể hiện chân sút đá bóng với các bạn, trái bóng của A đã bay thẳng vào cửa kính xe hơi của ông C làm kính vỡ tan. Thiệt hại ông C đi thay kính mới hết 8.000.000 đồng. Trách nhiệm bồi thường cho ông C thuộc về B vì B có lỗi không quản lý A để A chơi đá bóng trên đường phố gây thiệt hại. Như vậy, theo quy định của pháp luật thì sẽ lấy tài sản của A để bồi thường, nếu tài sản của A không đủ thì lấy tài sản của B để bồi thường phần còn thiếu. Tuy nhiên, cả A và B đều không có tài sản bồi thường cho ông C. Vậy thì theo luật, C sẽ phải chấp nhận rủi ro, không được BTTH. Giả sử bố mẹ của A mất năng lực hành vi dân sự nhưng lại được thừa kế số tiền là 100 triệu đồng thì 25
  31. có lấy số tiền đó của bố mẹ A để bồi thường cho ông C không, luật cũng không quy định rõ vấn đề này. b). Năng lực chịu trách nhiệm hình sự BTTH của người được giám hộ là người mất năng lực hành vi dân sự Người mất năng lực hành vi dân sự là người bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, bị tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự theo yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan. Người mất năng lực hành vi dân sự cần phải có người giám hộ, người giám hộ sẽ là người đại diện cho họ trong các giao dịch dân sự. Người mất năng lực hành vi dân sự có thể là bất kỳ ai và ở bất kỳ độ tuổi nào, do vậy mà tùy từng trường hợp khác nhau mà việc quy định trách nhiệm BTTH do người được giám hộ là người mất năng lực hành vi dân sự gây ra cũng khác nhau. Cụ thể: - Nếu người mất năng lực hành vi dân sự là người chưa thành niên mà còn cha mẹ thì cha, mẹ chính là người giám hộ. Họ phải chăm sóc và quản lý người mất năng lực hành vi dân sự. Trong quá trình chăm sóc và quản lý người mất năng lực hành vi dân sự, nếu người giám hộ để người được giám hộ gây thiệt hại cho người khác thì họ phải có trách nhiệm bồi thường. Vì người giám hộ trong trường hợp này là cha, mẹ của người mất năng lực hành vi dân sự là người chưa thành niên nên trách nhiệm BTTH cũng giống như trách nhiệm BTTH của cha, mẹ đối với con chưa thành niên gây thiệt hại. - Trong trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự đã có vợ (hoặc chồng) thì người vợ (hoặc chồng) có đủ điều kiện sẽ là người giám hộ (Khoản 1 Điều 53 BLDS 2015). Người giám hộ được lấy tài sản của người giám hộ để thực hiện trách nhiệm BTTH. Nếu như tài sản của người được giám hộ không đủ để bồi thường thì phải phân định tài sản chung của vợ chồng sau đó mới xác định trách nhiệm bồi thường. Sau khi xác định tài sản chung mà tài 26
  32. sản chung vẫn không đủ để bồi thường thì người giám hộ mới phải lấy tài sản của mình để thực hiện nghĩa vụ bồi thường phần còn thiếu. - Trường hợp cả cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một người bị mất năng lực hành vi dân sự người kia không đủ điều kiện để làm người giám hộ thì người con cả phải là người giám hộ. Nếu người con cả không đủ điều kiện để làm người giám hộ thì người con tiếp theo có đủ điều kiện sẽ là người giám hộ. Nếu cha, mẹ mà gây thiệt hại cho người khác thì người con đang giám hộ cha, mẹ sẽ lấy chính tài sản của cha, mẹ để thực hiện nghĩa vụ BTTH cho người bị thiệt hại. Sau khi lấy tài sản của cha, mẹ để bồi thường nhưng vẫn còn thiếu thì người con đang giám hộ có trách nhiệm dùng tài sản của mình bồi thường phần còn thiếu. Trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự là người thành niên và đã có vợ, chồng, con nhưng vợ, con đều không đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ có đủ điều kiện phải làm người giám hộ cho họ. Nếu họ gây thiệt hại về tài sản cho người khác thì cha, mẹ sẽ lấy tài sản riêng của người được giám hộ để thực hiện trách nhiệm BTTH. Nếu tài sản đó không đủ để bồi thường thì người giám hộ mới phải lấy tài sản của mình để bồi thường. Xác định trách nhiệm bồi thường nốt phần còn thiếu do thiệt hại của người được giám hộ gây ra của người giám hộ ở đây cần phải phân làm hai trường hợp: Nếu cả cha, mẹ cùng là người giám hộ thì sẽ lấy tài sản chung vợ chồng của cha, mẹ để thực hiện nghĩa vụ bồi thường phần còn thiếu cho người giám hộ; nếu chỉ có cha hoặc mẹ làm người giám hộ thì sẽ không lấy tài sản chung mà lấy phần tài sản riêng trong khối tài sản chung của vợ chồng để thực hiện nghĩa vụ bồi thường phần còn thiếu của người được giám hộ. c). Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi và người mất năng lực hành vi dân sự trong thời gian trường học, bệnh viện, tổ chức khác quản lí. 27
  33. Điều 599 quy định trách nhiệm BTTH trong trường hợp người chưa thành niên dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự đang được nhà trường, bệnh viện hoặc các pháp nhân khác quản lí mà gây thiệt hại thì nhà trường, bệnh viện và các pháp nhân này phải bồi thường. Trách nhiệm BTTH được xác định dựa trên yếu tố lỗi của nhà trường, bệnh viện, các pháp nhân và được thể hiện trong nghĩa vụ quản lí người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự không cẩn trọng, không chu đáo, thiếu biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn mà để họ gây thiệt hại. Thời gian quản lí là thời hạn trong đó nhà trường theo quy định nghề nghiệp có nghĩa vụ giáo dục mà họ không thể thực hiện tốt chức năng của họ; bệnh viện có nghĩa vụ chăm sóc, điều trị nhưng do lỗi quản lí không tốt để người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác (ví dụ: Nhà trường tổ chức đi tham quan, dã ngoại nhưng không có các biện pháp bảo đảm an toàn; bệnh nhân bị tâm thần vượt hàng rào, tường bao bọc xung quanh ra ngoài gây thiệt hại cho người khác; ). Lúc đó, cha mẹ, người giám hộ của người chưa thành niên dưới 15 tuổi, người giám hộ của người mất năng hành vi dân sự không có trách nhiệm bồi thường. Quy định này nhằm nâng cao trách nhiệm của nhà trường trong việc quản lí học sinh đang trong thời gian học tập tại trường theo thời khóa biểu văn hóa chính khóa, ngoại khóa hoặc lao động, vui chơi, giải trí do nhà trường tổ chức; trách nhiệm của bệnh viện, các tổ chức khác trong việc chăm sóc, quản lí bệnh nhân trong thời gian bệnh nhân điều trị tại bệnh viện. Pháp luật quy định xét trách nhiệm của nhà trường, bệnh viện, tổ chức khác phải có yếu tố lỗi nên trong trường hợp họ chứng minh được không có lỗi trong thời gian quản lí để người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại thì cha, mẹ, người giám hộ của người dưới 15 tuổi, người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự phải bồi thường. Ví dụ: 28
  34. - Cô giáo chủ nhiệm lớp 5A trường THCS X bị ốm đột xuất nên lớp trống tiết. Cô Y là hiệu trưởng của trường lên thông báo cho học sinh lớp 5A nghỉ buổi học hôm đó, trước khi cho học sinh ra về, cô Y đã gọi điện cho từng phụ huynh thông báo về việc này, trao trả học sinh cho từng gia đình. Trên đường về, M đá bóng cùng các bạn, không may sút bóng vào đúng nhà ông N làm vỡ kính. Trường hợp này, nhà trường không có trách nhiệm BTTH do hành vi của M gây ra do thời gian M gây thiệt hại không thuộc sự quản lí của trường. - A bị tâm thần, đã được Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự đang được điều trị tại bệnh viện Y. Tết năm 2019, gia đình A muốn A về nhà ăn tết nên đã làm đơn xin bệnh viện cho A được về nhà một tuần và hứa sẽ quản lý A trong thời gian 1 tuần đó. Bệnh viện đồng ý cho A về nhà ăn tết. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian 1 tuần về nhà, A đã gây thiệt hại cho người khác phải bồi thường. Trường hợp này, bệnh viện không có trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà A gây ra do bệnh viện không có lỗi trong việc quản lý A. Trong BLDS 2015 thì cụm từ “liên đới cùng với cha mẹ, người giám hộ” không quy định và người bị thiệt hại chỉ có thể đòi yêu cầu BTTH đối với trường học, bệnh viện, các pháp nhân khác trực tiếp quản lý nếu họ có lỗi trong việc giáo dục. Theo em, quy định này là chưa hợp lí đối với trường hợp người gây thiệt hại là chưa thành niên dưới 15 tuổi. Bởi lẽ, hầu hết các hành vi gây thiệt hại của các trẻ em trong thời gian học tập tại trường không đơn thuần là kết quả của quá trình giáo dục riêng của nhà trường mà là sản phẩm của quá trình giáo dục của cả nhà trường và cha mẹ. Trong đó, vai trò của cha mẹ rất quan trọng. Vì vậy, để tránh tình trạng phó thác việc giáo dục học sinh cho một bên, nên quy định nghĩa vụ liên đới của cha mẹ và nhà trường trừ các trường giáo dưỡng vì tính đặc thù của học viên trong loại hình trường này. Một điểm nữa chưa hợp lí, theo ý kiến của em là quy định tại khoản 2 Điều 599; 29
  35. “Người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong thời gian bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lí thì bệnh viện, pháp nhân khác phải bồi thường thiệt hại xảy ra’’. Theo quy định của pháp luật, một người chỉ được coi là mất năng lực hành vi dân sự khi có đủ ba điều kiện: - Do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình. Người có quyền và lợi ích liên quan yêu cầu tòa án tuyên bố bị mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mất năng lực hành vi dân sự. - Tòa án tuyên bố người bị mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác đó mất năng lực hành vi dân sự. Tuy nhiên, trên thực tế, những bệnh nhân mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác khiến không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình đang được điều trị tại bệnh viện hoặc được quản lí tại các tổ chức hầu như chưa được Tòa án tuyên bố là mất năng lực hành vi dân sự. Vậy trong trường hợp những người này gây thiệt hại trong thời gian bệnh viện, các pháp nhân khác trực tiếp quản lí thì ai là người có trách nhiệm bồi thường ? Nên chăng quy định này nên sửa thành: “Người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình gây thiệt hại cho người khác trong thời gian bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lí thì bệnh viện, pháp nhân khác khác phải bồi thường thiệt hại xảy ra’’. 1.1.3.2. Một số tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Hiện nay, Tòa án thường giải quyết một số tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau: 1.1.3.2.1. Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm Theo quy định của Bộ luật dân sự, quyền sở hữu tài sản của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác được pháp luật công nhận và bảo vệ. Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình bồi thường thiệt hại. 30
  36. Hành vi gây thiệt hại tài sản của chủ sở hữu, của người chiếm hữu hợp pháp phải bồi thường là những hành vi trái phép luật như: hành vi chiếm đoạt tài sản, hủy hoại tài sản, vô ý làm hư hỏng tài sản, chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ không tuân thủ quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật nên gây thiệt hại tài sản cho người khác Hiện nay, Tòa án thường giải quyết một số tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau: A) Thiệt hại tài sản bị mất: Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Đối với tài sản là vật nếu đã mất thì việc xác định thiệt hại là căn cứ vào giá thị trường của tài sản cùng loại hoặc tài sản cùng tính năng, tiêu chuẩn kĩ thuật và mức độ hao mòn của tài sản bị mất tại thời điểm giải quyết bồi thường; giá trị tài sản bị mất có thể do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì tiến hành định giá. Đối với tài sản là tiền, giấy tờ có giá, quyền tài sản thì xác định thiệt hại căn cứ số tiền bị mất, số tiền ghi trong giấy tờ có giá bị mất, giá trị quyền tài sản bị mất B) Thiệt hại tài sản bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng: - Đối với tài sản bị hủy, việc xác định thiệt hại như tài sản bị mất. - Đối với tài sản bị hư hỏng, xác định thiệt hại và giá trị phần tài sản bị hỏng theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết. C) Thiệt hại lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản: Là hoa lợi, lợi tức có thật mà chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp đang khai thác trước khi tài sản bị thiệt hại, nếu tài sản đó không bị mất hoặc hư hỏng thì chủ sở hữu sẽ thu được. Thiệt hại là số tiền, hoặc lợi ích khác được tính tiền sẽ thu được trong khoảng thời gian từ khi tài sản bị thiệt hại đến khi được khắc phục hoặc giải quyết bồi thường thiệt hại. Ví dụ: Anh A có chiếc xe ô tô cho thuê mỗi tháng thu được 10 triệu đồng, B đã vô ý làm chiếc xe bị cháy bị hư hỏng nặng cho nên A phải sữa 31
  37. chữa 2 tháng mới cho thuê lại được. Như vậy, thiệt hại lợi ích của A đối với tài sản do B gây thiệt hại là 20.000.000 đồng. 1.1.3.2.2. Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm Bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm là trách nhiệm dân sự của người thực hiện hành vi trái pháp luật, có lỗi gây tổn hại sức khỏe cho người khác. Một hành vi có thể gây tổn hại sức khỏe cho nhiều người: sự tổn hại sức khỏe của một người có thể do hành vi của nhiều người gây ra. Vấn đề quan trọng nhất trong bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm là xác định những thiệt hại xảy ra mà người thực hiện hành vi trái pháp luật phải bồi thường. Theo tinh thần Điều 590 BLDS 2015 và tiểu mục 1, mục II, Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 7 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm xác định như sau: - Chi phí hợp lí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; - Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; - Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; - Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc; - Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm. 1.1.3.2.3. Bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm Bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm là trách nhiệm dân sự của người thực hiện hành vi trái pháp luật, có lỗi làm cho người bị thiệt hại chết. 32
  38. Theo tinh thần Điều 591 BLDS 2015 và tiểu mục 2, mục II, Nghị quyết số 03/2006/NQ – HĐTP ngày 08 tháng 7 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm xác định như sau: Theo tinh thần Điều 591 BLDS 2015 và tiểu mục 2, mục II, Nghị quyết số 03/2006/NQ – HĐTP ngày 08 tháng 7 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm xác định như sau: - Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết; - Chi phí hợp lý cho việc mai táng; - Khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng trước khi chết; - Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm phạm; 1.1.3.2.4. Bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm Pháp luật dân sự không có khái niệm cụ thể về danh dự, nhân phẩm, tuy nhiên theo từ điển tiếng Việt và qua thực tế giải quyết thì chúng ta có thể hiểu: - Danh dự: Đối với cá nhân, danh dự là “Sự coi trọng của dư luận xã hội, dựa trên giá trị tinh thần, đạo đức tốt đẹp”. Danh dự của một con người được hình thành từ những hành động và cách cư xử của người đó, từ công lao và thành tích mà người đó có được. Đối với tổ chức, danh dự là sự đánh giá của xã hội và sự tín nhiệm của mọi người đối với hoạt động của tổ chức đó. - Nhân phẩm là “Phẩm chất, giá trị của con người”, là giá trị tinh thần của một cá nhân với tính cách là một con người. - Uy tín là “Sự tín nhiệm và mến phục của mọi người”, dành cho cá nhân, tổ chức. 33
  39. Theo tinh thần Điều 592 BLDS 2015 và tiểu mục 2, mục II, Nghị quyết số 03/2006/NQ – HĐTP ngày 08 tháng 7 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm xác định như sau: - Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại; - Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút; - Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. 1.1.3.2.5. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (Điều 601 BLDS 2015). - Xác định nguồn nguy hiểm cao độ: Theo khoản 1 Điều 601 BLDS 2015 đã có quy định:“Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định”. - Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. 34
  40. CHƯƠNG 2 NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ 2.1. Các căn cứ pháp lý để áp dụng Điều 30 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Giải quyết vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (dân sự) trong vụ sán hình sự “Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề dân sự có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự” Điểm g Khoản 2 Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Bị hại có quyền “Đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường” Khoản 1 Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: “Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Khoản 1 Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: “Bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại” Khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự 2015: “Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra”. Chương XX “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” Bộ luật dân sự 2015 35
  41. 2.2. Quy định của pháp luật hình sự về việc giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự 2.2.1. Việc giải quyết vấn đề bồi thường đồng thời giải quyết vụ án hình sự Vấn đề dân sự được giải quyết với những vấn đề của trách nhiệm hình sự trong cùng vụ án hình sự là nội dung cơ bản của nguyên tắc này. Theo đó, ngoài việc chứng minh, xử lý những vấn đề thuộc trách nhiệm bồi thường của những chủ thể tham gia tố tụng hình sự. Việc chứng minh, giải quyết vấn đề dân sự được tiến hành đồng thời với việc chứng minh giải quyết những vấn đề thuộc trách nhiệm hình sự. Do vậy, không thể giải quyết vấn đề bồi thường khi đã hoàn tất việc giải quyết trách nhiệm hình sự. Nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tố tụng trong trường hợp vụ án có vấn đề hình sự liên quan đến tội phạm là xác minh, làm rõ trách nhiệm dân sự của các đương sự trong vụ án. Nhiệm vụ này được thực hiện thông qua việc tiến hành các hoạt động sau: Các cơ quan tiến hành tố tụng phải xác minh được các mội quan hệ có liên quan đến vấn đề bồi thường cần phải giải quyết là những mối quan hệ nào trong các mối quan hệ sau: mối quan hệ về bồi thường vật chất và tinh thần do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản bị xâm phạm; mối quan hệ về đòi lại tài sản; mối quan hệ về đòi bồi thường giá trị tài sản do bị can, bị cáo chiếm đoạt nhưng bị mất hoặc bị hủy hoại; mối quan hệ về yêu cầu sữa chữa tài sản bị hư hỏng, bị hủy hoại Ví dụ: Trong vụ án giết người, bên cạnh việc xác định, chứng minh hành vi phạm tội của bị can, bị cáo cơ quan tiến hành tố tụng còn phải giải quyết các mối quan hệ về dân sự như quan hệ bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần do tính mạng bị xâm phạm (xác định các khoản chi phí về việc cứu chữa, mai táng, khoản tiền bù đắp về tổn thất tinh thần, tiền cấp dưỡng). Đưa những người có liên quan đến vấn đề dân sự trong vụ án vào tham gia tố tụng. Xác định những người tham gia tố tụng gồm những ai, tư cách tham gia tố tụng của họ như thế nào (họ tham gia tố tụng với tư cách là bị can, 36
  42. bị cáo, người bị hại, nguyên dơn dân sự, bị đơn dân sự hay người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án). Trên thực tế, khi thực tế vụ án ở giai đoạn điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thường không xác định chính xác tư cách tham gia tố tụng của những người liên quan đến vấn đề dân sự trong vụ án. Việc xác định thường thực hiện một cách chung chung, có những vụ tư cách chủ thể tham gia tố tụng là nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự song Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát chỉ xác định họ là những người liên quan đến vụ án, Chỉ tới giai đoạn xét xử, Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định chính xác tư cách những người tham gia tố tụng của từng chủ thể. Thực tế này là phù hợp. Bởi lẽ, ở giai đoạn điều tra truy tố thì vấn đề quan trọng là điều tra, làm rõ nội dung liên quan đến phần dân sự như tiến hành lấy lới khai, đối chất, yêu cầu các đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ Việc xác định tư cách những người tham gia tố tụng có ảnh hưởng tới quyền và nghĩa vụ tố tụng của các chủ thể tham gia tố tụng , đặc biệt là quyền kháng cáo. Có những vụ án tư cách chủ thể tham gia tố tụng là người làm chứng song Tòa án lại xác định họ là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Rõ ràng nếu xác định như vậy, mặc nhiên họ có quyền kháng cáo, thực ra họ chỉ là người làm chứng, không có quyền lợi gì, nghĩa vụ gì cần được giải quyết trong vụ án nên trong bản án cũng không xem xét, quyết định vấn đề gì liên quan đến quyền và nghĩa vụ của họ. Xác định nội dung của các mối quan hệ có liên quan đến vấn đề dân sự cần được giải quyết như: xác định mức độ thiệt hại đã xảy ra, mức độ lỗi của các chủ thể tham gia tố tụng Từ đó, có thể xác định đúng mức bồi thường thiệt hại. Các cơ quan tiến hành tố tụng phải tiến hành điều tra, xác minh để làm rõ những vấn đề nêu trên và đưa ra hướng giải quyết đối với toàn bộ vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, về nội dung của các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các quy định của Luật dân sự còn về thủ tục tố tụng, các cơ quan tiến 37
  43. hành tố tụng áp dụng những quy định của Luật tố tụng hình sự quy định việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự trên cơ sở kết hợp với các nguyên tắc của Luật tố tụng hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự quy định về việc giải quyết vấn đề dân sự được tiến hành đồng thời với việc giải quyết trách nhiệm hình sự của vụ án là một giải pháp hợp lý vì đối với người bị thiệt hại sẽ được thuận tiện hơn khi xảy ra yêu cầu can thiệp đối với cơ quan tiến hành tố tụng và người bị thiệt hại cũng có thể sử dụng những chứng cứ mà các Cơ quan tiến hành tố tụng đã thu thập được cho việc giải quyết vấn đề dân sự. Hơn nữa việc cùng giải quyết cả vấn đề dân sự và hình sự trong cùng một vụ án sẽ tiết kiệm hơn vì chỉ có một Tòa án giải quyết cả hai loại vấn đề. Tuy nhiên, khi giải quyết vần đề dân sự trong vụ án hình sự, Tòa án cần phải nghiên cứu, vận dụng cả những quy định về pháp luật dân sự và những quy định của pháp luật hình sự. Việc phải nghiên cứu áp dụng cả hai loại quy phạm pháp luật dân sự và hình sự là một khó khăn với Tòa án, đặc biệt với những vụ án phức tạp. Chính vì vậy, Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định việc tách vấn đề dân sự trong vụ án hình sự để giải quyết riêng bằng một vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự trong phần nội dung thứ hai của nguyên tắc tiếp theo. 2.2.2. Việc tách vấn đề bồi thường trong vụ án hình sự Phần nội dung thứ hai của nguyên tắc giải quyết vấn đề bồi thường trong vụ án hình sự quy định về việc tách phần dân sự trong vụ án hình sự để ra giải quyết bằng một vụ án dân sự. Điều 30 Bộ luật tố tụng hình sự quy định:” Trong trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết vần đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề dân sự có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Có thể thấy căn cứ chung để thực hiện việc tách phần dân sự trong vụ án hình sự theo quy định tại Điều 30 Bộ luật tố tụng hình sự là việc chưa có 38
  44. cơ sở chứng minh về việc bồi thường, bồi hoàn và việc tách này không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự. Nội dung này được làm rõ trong Công văn số 121/2003/KHXX ngày 19/9/2003 của Tòa án nhân dân Tối Cao về việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tài sản, bồi thường thiệt hại trong vấn đề bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự. Theo đó, thì các vấn đề để tách phần dân sự trong vụ án hình sự là: phần dân sự được tách không liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm, việc xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo; chưa tìm được, chưa xác định được người bị hại và nguyên đơn dân sự; người bị hại và nguyên đơn dân sự chưa có yêu cầu; người bị hại và nguyên đơn dân sự có yêu cầu nhưng không cung cấp đầy đủ chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình; người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự vắng mặt tại phiên tòa và việc này không gây trở ngại cho việc giải quyết phần dân sự. Như vậy, có thể hiểu căn cứ “Việc tách vấn đề dân sự trong vụ án hình sự không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Theo Điều 30 Bộ luật tố tụng Hình sự chính là phần dân sự được tách không liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm, việc xác định tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Còn căn cứ “chưa có điều kiện chứng minh về phần bồi thường” tức là chưa xác định được người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự; người bị hại và nguyên đơn dân sự chưa có yêu cầu; người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự có yêu cầu nhưng không cung cấp đầy đủ chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình; người bị hại, nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự vắng mặt tại phiên tòa và việc này thật sự gây trở ngại cho việc giải quyết phần dân sự. Bên cạnh việc quy định tách vấn đề dân sự trong vụ án hình sự tại cấp sơ thẩm, Công văn số 121/2003/KHXX ngày 19/9/2003 của Tòa án nhân dân Tối cao về việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tài sản, bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự còn nêu rõ việc tách vấn đề dân sự trong vụ án hình sự 39
  45. tại cấp phúc thẩm: “ Trong trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện mọi biện pháp xác minh thu thập chứng cứ nhưng vẫn không được và thuộc một trong những trường hợp cần phải tách phần dân sự trong vụ án hình sự để giải quyết bằng một vụ án theo thủ tục tố tụng dân sự khi có yêu cầu, nhưng tòa án vẫn tiến hành xét xử, thì Hội đồng xét xử hủy quyết định của bản án sơ thẩm về phần dân sự trong vụ án hình sự và tách phần dân sự để giải quyết bằng vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự, khi có yêu cầu” Công văn 121 cũng xác định việc tách phần dân sự trong vụ án hình sự tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm như sau: “Nếu xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện các biện pháp để xác minh, thu thập chứng cứ, bổ sung chứng cứ, vẫn không được và thuộc trong trường hợp cần tách phần dân sự trong vụ án hình sự để giải quyết bằng vụ án dân sự, khi có yêu cầu nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm vẫn xét xử thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm hủy quyết định bản án phúc thẩm, quyết định của bản án sơ thẩm về phần dân sự tách phần dân sự để giải quyết bằng vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự, khi có yêu cầu”. Liên quan đến việc tách vấn đề dân sự trong vụ án hình sự , Khoản 1 Điều 291 Bộ luật tố tụng hình sự còn quy định trường hợp vắng mặt của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự chỉ trở ngại cho việc giải quyết vấn đề bồi thường thì Hội đồng xét xử có thể tách phần bồi thường để xét xử sau theo thủ tụng tố tụng dân sự. Như vậy, Bộ luật tố tụng hình sự và Công văn số 121 mới chỉ quy định thẩm quyền tách vấn đề dân sự trong vụ án hình sự thuộc về Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm và Hội đồng xét xử giám đốc thẩm. Từ các cơ sở trên cho thấy, thủ tục giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Do vấn đề bồi thường được giải quyết trong cùng vụ án hình sự nên Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 không quy định thủ tục riêng mà vấn đề bồi thường trong vụ án hình sự sẽ tuân theo trình tự, thủ tục giải quyết vấn đề 40
  46. hình sự. Xuất phát từ đặc thù của quan hệ dân sự nên khi giải quyết vấn đề bồi thường trong vụ án hình sự còn phải tuân theo những nguyên tắc riêng của Tố tụng dân sự nhằm bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự khi tham gia tố tụng. Tuy nhiên, Tòa án không thể đồng thời áp dụng cả thủ tục tố tụng hình sự và thủ tục tố tụng dân sự để giải quyết vụ án mà chỉ có thể áp dụng thủ tục tố tụng hình sự trên cơ sở áp dụng những nguyên tắc của Luật tố tụng dân sự để giải quyết vấn đề bồi thường trong vụ án đó. Vì vậy, việc giải quyết vấn đề bồi thường trong vụ án hình sự sẽ tuân thủ theo thủ tục tố tụng hình sự trên cơ sở kết hợp những nguyên tắc của tố tụng dân sự. Quá trình giải quyết những vụ án sẽ trải qua những giai đoạn khác nhau, bắt đầu là giai đoạn khởi tố, đến giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và kết thúc ở giai đoạn thi hành án. Mỗi giai đoạn điều có chức năng và nhiệm vụ khác nhau nhưng điều nhằm mục đích giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong đó, giai đoạn xét xử là giai đoạn trọng tâm của tố tụng hình sự . Các hoạt động khời tố, điều tra chỉ nhằm mục đích thu thập chứng cứ phục vụ cho việc truy tố và xét xử. Trên cơ sở những chứng cứ thu thập được Tòa án sẽ xem xét và đánh giá một cách chính xác để đưa ra phán quyết cuối cùng nên tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự các cơ quan tiến hành tố tụng khi giải quyết vấn đề bồi thường sẽ tuân theo thủ tục tố tụng hình sự. 2.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục giải quyết vấn đề bồi thường trong vụ án hình sự 2.3.1. Giai đoạn khởi tố vụ án Quá trình khởi tố được tiến hành các bước sau: Tiếp nhận các nguồn thông tin về tội phạm. Đối với những tin báo liên quan đến tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân thì người tiếp nhận tin báo phải ghi rõ mức độ thiệt hại mà người cung cấp nguồn tin đưa ra. 41
  47. Kiểm tra, xác minh, bổ sung tin báo về tội phạm. Đối với những nguồn tin liên quan đến các vụ án có phát sinh vấn đề trách nhiệm bồi thường thì Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát phải làm rõ về mức độ thiệt hại xảy ra. Quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Khi một vụ án hình sự có liên quan về vấn đề bồi thường bị khởi tố thì vấn đề dân sự trong vụ án đó đương nhiên được xem xét và giải quyết mà không cần khởi kiện riêng bằng một thủ tục khác nữa. 2.3.2. Giai đoạn điều tra và truy tố Việc điều tra phần dân sự trong vụ án hình sự do cơ quan điều tra tiến hành đồng thời với việc điều tra phần hình sự. Quá trình điều tra được tiến hành như sau: Khởi tố bị can và hỏi cung bị can. Khi hỏi cung bị can Điều tra viên phải hỏi các vấn đề liên quan đến nội dung của vụ án nói chung và các vấn đề liên quan đến phần dân sự nói riêng trong vụ án. Tiến hành điều tra nhằm thu thập chứng cứ. Cơ quan điều tra phải tiến hành các biện pháp điều tra nhằm làm sáng tỏa vấn đề dân sự phát sinh trong vụ án, là cơ sở để xác định mức độ bồi thường thiệt hại sau này. Đề nghị truy tố hoặc đình chỉ điều tra. Sau khi đã thu thập đầy đủ chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội thì cơ quan điều tra làm bản kết luận điều tra và đề nghị Viện kiểm sát truy tố bị can trước Tòa án. Kèm theo bản kết luận điều tra phải có bản kê về thời hạn điều tra, biện pháp ngăn chặn có áp dụng cần phải ghi rõ thời hạn tạm giữ, tạm giam, vật chứng, việc kiện dân sự, biện pháp để đảm bảo việc phạt tiền, bồi thường và tịch thu tài sản nếu có. Truy tố bị can trước Tòa án bằng một bản cáo trạng. Trong bản cáo trạng phải nêu rõ vấn đề dân sự cần phải giải quyết. 2.3.3. Giai đoạn xét xử vụ án 42
  48. Việc xét xử vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành đồng thời với phiên tòa hình sự a. Các thủ tục cần thiết tại giai đoạn chuẩn bị phiên tòa, trình tự, thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, việc tranh luận công khai tại phiên tòa, các trường hợp Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung phần bồi thường thiệt hại. Phiên tòa xét xử sơ thẩm vấn đề dân sự trong vụ án hình sự phải tuân theo các quy định chung về phiên tòa sơ thẩm của Bộ luật tố tụng hình sự. Trình tự, thủ tục xét hỏi tại phiên tòa được tiến hành như sau: Chủ tọa phiên tòa hỏi trước, sau đó đến Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, người bào chữa việc xét hỏi bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của những người đó được tiến hành theo trình tự: Trước tiên, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp của họ trình bày những tình tiết liên quan đến họ, Sau đó, Hội đồng xét xử hỏi thêm về những điều mà họ trình bày chưa đủ hoặc có mâu thuẫn. Trường hợp bị cáo đồng thời là bị đơn trong việc dân sự thì sau phần xét hỏi về phần hình sự bị cáo tiếp tục xét hỏi với tư cách là bị đơn trong việc dân sự có liên quan đến vụ án. Trong phần tranh luận tại phiên tòa, những người tham gia phiên tòa phiên tích, đánh giá chứng cứ của vụ án, tính chất, mức độ của tội phạm được đưa ra xét xử và đề nghị áp dụng biện pháp xử lý phù hợp với pháp luật. Bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ được trình bày ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Kết thúc phần tranh luận, Hội đồng xét xử vào phòng nghị án để thảo luận từng vấn đề của bản án sau khi bản án được thông qua, Hội đồng xét xử trở lại phòng xét xử để tuyên án. Chủ tọa phiên tòa đọc bản án. b. Thủ tục xét xử phúc thẩm vấn đề dân sự trong vụ án hình sự 43
  49. Thủ tục tại phiên tòa phúc thẩm về cơ bản cũng được tiến hành giống phiên tòa sơ thẩm. Tuy nhiên có một số điểm khác cơ bản sau: Trước khi xét hỏi thay vì đại diện Viện kiểm sát đọc bản cáo trạng như phiên tòa sơ thẩm, chủ tọa phiên tòa thay mặt Hội đồng xét xử trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm và nội dung kháng cáo, kháng nghị. Hội đồng xét xử phúc thẩm thẩm tra đầy đủ các tình tiết có liên quan đến phần dân sự trong vụ án hình sự có kháng cáo, kháng nghị để quyết định hình phạt và mức bồi thường cho đúng. Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát được phát biểu trước và đưa ra đề xuất về hướng giải quyết vụ án với Hội đồng xét xử. Trong trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm hủy phần dân sự trong bản án hình sự của Tòa án cấp sơ thẩm theo Công văn số 121/2003/KHXX ngày 19/9/2003 của Tòa án nhân dân Tối Cao về việc giải quyết vấn đề liên quan đến tài sản, bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự. 2.3.4. Giai đoạn thi hành án Thủ tục Thi hành án phần quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự theo quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Theo đó, việc thi hành án phần dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành theo thủ tục thi hành án dân sự và do cơ quan thi hành án dân sự thực hiện. 44
  50. CHƯƠNG 3 THỰC TIỄN THI HÀNH VÀ KIẾN NGHỊ ĐỂ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ 3.1.Thực tiễn thi hành các quy định về nguyên tắc giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự Tình hình giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự tại các Tòa án nhân dân ngày càng tăng lên rất nhiều, việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự ngày càng phức tạp. Khi giải quyết về vấn đề bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự còn nhiều bất cặp, do Điều luật áp dụng để giải quyết vấn đề trên chỉ có Điều 30 Bộ luật tố tụng hình sự, một số Điều của Bộ luật dân sự; một số trách nhiệm hình sự quy định rải rác về tách vấn đề bồi thường trong các văn bản hướng dẫn thi hành. Ngoài ra Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành không quy định cụ thể trình tự, thủ tục giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự nên dẫn đến việc áp dụng thiếu thống nhất. Bộ Luật tố tụng hình sự chưa đưa ra khái niệm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan dẫn đến có sự nhằm lẫn khi xác định tư cách tham gia tố tụng, làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của họ trong quá trình giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại. Trong quá trình giải quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng thường không quan tâm đúng mức tới việc giải quyết vấn đề trách nhiệm dân sự mà chỉ chú trọng đến việc giải quyết trách nhiệm hình sự. Những người tiến hành tố tụng thường không nghiên cứu kỹ Bộ luật dân sự và các hướng dẫn của Tòa án nhân dân Tối cao về bồi thường thiệt hại ngoài xác định không đúng thiệt hại, quyết định mức bồi thường không chính xác hoặc tách phần dân sự trong vụ án hình sự để giải quyết không đúng quy định của pháp luật. 45
  51. 3.2. Một số kiến nghị để hoàn thiện các quy định về nguyên tắc vấn đề bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự 3.2.1. Về lập pháp Cần quy định cụ thể về trình tự, thủ tục tố tụng khi giải quyết vấn đề bồi thường trong vụ án hình sự để có sự thống nhất chung. Cần xác định và hoàn thiện các quy phạm pháp luật về người tham gia tố tụng có liên quan trực tiếp đến việc giải quyết phần trách nhiệm bồi thường của vụ án cụ thể như: + Xây dựng các khái niệm “vấn đề bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự”; “chưa có điều kiện chứng minh”; “không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự”. + Xây dựng khái niệm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. + Sửa đổi khái niệm về nguyên tắc bồi thường. + Quy định rõ ai, cơ quan nào có quyền tách vụ án hình sự và việc tách vấn đề bồi thường trong vụ án hình sự được thực hiện ở giai đoạn náo của quá trình giải quyết vụ án. 3.2.2. Về áp dụng pháp luật Khi áp dụng pháp luật cần phải hiểu một cách đầy đủ, đúng đắn và sâu sắc về nội dung của nguyên tắc giải quyết vấn đề bồi thường trong vụ án hình sự, thường xuyên cặp nhật, nghiên cứu kỹ các quy định của luật dân sự và các văn bản thi hành để có thể giải quyết vụ án được đúng theo quy định của pháp luật. Cần có sự so sánh phân biệt giữa những loại người tham gia tố tụng để hiểu được bản chất của từng loại người từ đó xác định đúng đắn tư cách người tham gia tố tụng của từng loại người trong vụ án. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, bên cạnh việc xử lý vấn đề trách nhiệm hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng cần coi trọng cả việc giải quyết vấn đề dân sự để có thể giải quyết đúng phần bồi thường thiệt hại. 46
  52. Cần tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xử vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Làm tốt hơn công tác tổng kết thực tiễn giải quyết các vụ án và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án. Thực tiễn cho thấy, các cơ quan tiến hành tố tụng Việt Nam thường giải quyết vấn đề bồi thường (trong đó có trách nhiệm dân sự) gắn liền với việc chứng minh tội phạm. Với quy định trên của BLTTHS 2015, cũng như thực tiễn tố tụng ở nước ta, vấn đề được đặt ra là giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự có phải là một giải pháp tốt đối với thực tiễn tư pháp Việt Nam ? Trách nhiệm hình sự của một cá nhân được đặt ra khi cá nhân đó thực hiện một tội phạm được quy định trong luật. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là nghĩa vụ bồi thường những thiệt hại gây ra cho người khác bằng một khoản tiền tương ứng với thiệt hại đã xảy ra. Về lý thuyết, vai trò của trách nhiệm dân sự và trách nhiệm hình sự là khác nhau. Trách nhiệm hình sự nhằm mục đích trấn áp một số thái độ (cách sử xự, hành vi) chống lại xã hôi và quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Còn trách nhiệm bồi thường được đặt ra nhằm giải quyết những xung đột về lợi ích khi thiệt hại xảy ra giữa các cá nhân trong xã hội. Như vậy, trách nhiệm hình sự không trả lời một chút nào cho ý tưởng về nghĩa vụ bồi thường một thiệt hại gây ra cho người khác, nó không phải là một nguồn của nghĩa vụ vì rằng trách nhiệm hình sự không thiết lập một mối liên hệ pháp lý nào giữa người có nghĩa vụ và người có quyền (giữa người phạm tội và nạn nhân). 47
  53. Trong hệ thống Common Law, liên quan đến vấn đề giải quyết trách nhiệm dân sự, thường đưa ra sự phân biệt rạch ròi giữa breach of contract với tort; pháp luật về Torts (luật về hành vi gây thiệt hại) được phân biệt với pháp luật về hình sự – một lĩnh vực liên quan đến sự trừng phạt những người thực hiện hành vi sai trái. Việc phân biệt này bao hàm cả vấn đề tố tụng. Hầu hết các Torts phát sinh từ hành vi cố ý sai trái hoặc từ sự vô ý. Nhiều Torts bị xem là tội phạm và hầu hết tội phạm bao gồm cả hành vi Torts (Tortious acts). Vậy một hành vi trái pháp luật và gây thiệt hại có thể dẫn đến hai tố quyền là tố quyền hình sự và tố quyền dân sự. Bởi có sự phân biệt rõ ràng chức năng của pháp luật về Tort và pháp luật về hình sự nên trong thủ tục tố tụng hình sự không giải quyết vấn đề trách nhiệm dân sự mà chủ yếu là để áp dụng sự trừng phạt. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa hệ thống Common Law với hệ thống pháp luật Việt Nam về vấn đề này. Trong hệ thống Civil Law mà đại diện điển hình là pháp luật Cộng hòa Pháp, trong trường hợp các vi phạm về hình sự mà kéo theo một thiệt hại cho cá nhân, nạn nhân có thể là nguyên đơn dân sự (se constituer partie civile), hợp đơn kiện dân sự với tố quyền hình sự; hai loại trách nhiệm cùng được phán xử cùng một lần bởi cùng một toà án (Toà hình sự – la Cours pénale). Toà hình sự xét xử một lần vụ kiện chung (action publique) để quyết định một hình phạt (trách nhiệm hình sự) và vụ kiện dân sự (action civile) để bồi thường thiệt hại (trách nhiệm dân sự) Toà hình sự chỉ có thẩm quyền xét xử, nếu như bị can bị coi là phạm tội theo luật hình sự,. Vì vậy, nếu người can phạm đã chết (ví dụ, trong vụ tai nạn giao thông, người gây ra tai nạn cũng bị tử vong ), hoặc nếu đạo luật hình sự trừng phạt hành vi nguy hiểm cho xã hội đó đã bị bãi bỏ, thì toà hình sự cũng không thể giải quyết về trách nhiệm dân sự nữa. 48
  54. Riêng chỉ có trường hợp ân xá, theo pháp luật Cộng hòa Pháp, luật ân xá không bao giờ được xâm phạm đến quyền lợi của người thứ ba (ví dụ, nạn nhân của hành vi tráI pháp luật ), vì vậy, toà hình sự vẫn có thể xét xử về phương diện bồi thường nếu Toà đã thụ lý trước ngày ban hành luật ân xá. Cũng cần nói thêm rằng, nếu thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự (công tố) đã hết, thì quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường dân sự cũng bị hết thời hiệu, mặc dù thời hiệu về dân sự thường dài hơn thời hiệu về hình sự. Như vậy, chúng ta có thể thấy được những nét gần gũi, tương thích về quan niệm giữa pháp luật Cộng hòa Pháp và Pháp luật Việt Nam về cùng vấn đề giải quyết trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự. Nhưng, có thể thấy, pháp luật Pháp đã có những quy định mang tính chặt chẽ và chi tiết hơn so với pháp luật Việt Nam cùng về vấn đề này. Trong cổ luật Việt Nam: Khi một cá nhân xâm phạm vào trật tự xã hội, xã hội phải tự bảo vệ bằng cách trừng phạt họ. Đây là trường hợp trách nhiệm hình sự . Lỗi của người phạm tội về đạo đức càng lớn thì hành vi càng đáng chê trách, sự trừng phạt càng phải gia tăng. Khi một cá nhân chỉ xâm phạm vào quyền lợi của một chủ thể khác, gậy cho họ một sự tổn thất thì dĩ nhiên vấn đề trừng phạt họ không được đặt ra, mà chỉ phải giải quyết vấn đề bồi thường; đây là trường hợp trách nhiệm dân sự (không tính đến mức độ trầm trọng của lỗi, sự bồi thường phụ thuộc vào mức độ thiệt hại) Về tinh thần của luật pháp, cổ luật Việt Nam nói riêng và Phương Đông nói chung, đã không lưu tâm giải quyết các vấn đề liên quan đến luật nghĩa vụ cũng như trách nhiệm dân sự , không có sự phân chia công pháp và tư pháp, dân luật và hình luật , vì tin rằng nhờ sự hoà hợp trong xã hội lấy lễ, nghĩa làm trọng, các mối quan hệ giữa cá nhân, trên nguyên tắc không thể gây nên được những tương tranh về quyền lợi. Dẫu, các xung đột ấy có xảy ra, lễ và nghĩa cũng là một tiêu chuẩn lý tưỏng, một biện pháp hữu hiệu để giải quyết mọi khó khăn. 49