Khóa luận Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý

pdf 88 trang thiennha21 16/04/2022 4040
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_bao_ve_nan_nhan_cua_toi_pham_la_tre_em_duoi_goc_do.pdf

Nội dung text: Khóa luận Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT Bùi Thị Thúy Hoa BẢO VỆ NẠN NHÂN CỦA TỘI PHẠM LÀ TRẺ EM DƯỚI GÓC ĐỘ PHÁP LÝ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH LUẬT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-L HÀ NỘI, 2019 1
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Khóa luận này là công trình nghiên cứu khoa học nghiên cứu của riêng tôi và chưa từng được nghiên cứu ở bất cứ công trình nghiên cứu nào. Nội dung khóa luận và trích dẫn, số liệu đươc sử dụng đảm bảo độ chính xác, tin cậy và trung thực. Những thông tin tham khảo đều được trích dẫn cụ thể nguồn sử dụng. Sinh viên thực hiện Bùi Thị Thúy Hoa 2
  3. LỜI CẢM ƠN Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Phạm Thị Duyên Thảo, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian tôi hoàn thành luận văn này. Tôi cũng sinh gửi lời càm ơn chân thành tới các thầy cô giáo tại Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy, cảm ơn gia đình và bạn bè đã bên cạnh động viên tôi trong quá trình tôi thực hiện luận văn tốt nghiệp Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu hoàn thiện nhưng luận văn vẫn không tránh khỏi những thiếu sót. Do vậy, tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của các thầy cô giáo để luận văn được hoàn thiện hơn. Tác giả Bùi Thị Thúy Hoa 3
  4. DANH MỤC VIẾT TẮT HCM: Hồ Chí Minh VKS: Viện kiểm sát TTHS: Tố tụng hình sự LĐ- TB&XH: Lao động- Thương binh và xã hội VD: Ví dụ T.Ư: Trung ương TNCS: Thanh niên Cộng sản 4
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ NẠN NHÂN CỦA TỘI PHẠM LÀ TRẺ 12 1.1. Khái quát nạn nhân của tội phạm là trẻ em 12 1.2. Khái niệm, đặc điểm cơ bản của bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em nhìn dưới góc độ pháp lý 19 1.2.1. Khái niệm 19 1.2.2. Đặc điểm 20 1.3. Các biện pháp bảo vệ nạn nhân cảu tội phạm là trẻ em 25 1.4. Pháp luật về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em 28 1.4.1. Khái niệm 28 1.4.2. Các công ước quốc tế liên quan đến bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em 29 1.4.3. Pháp luật quốc gia trong bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em 31 1.5. Vai trò của pháp luật về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em 34 1.6. Pháp luật một số quốc gia trên thế giới về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em 40 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ NẠN NHÂN CỦA TỘI PHẠM LÀ TRẺ EM Ở VIỆT NAM 43 2.1. Hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. 43 2.2. Nội dung bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em trong pháp luật Việt Nam 44 2.2.1. Các khía cạnh bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em trong các quy định pháp luật51 2.3. Đánh giá 68 CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP BỔ TRỢ HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT BẢO VỆ NẠN NHÂN CỦA TỘI PHẠM LÀ TRẺ EM 74 3.1. Yêu cầu hoàn thiện và nâng cao hiệu quả pháp luật bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em 74 3.2. Các giải pháp cụ thể 75 3.2.1. Tiếp tục sửa đổi hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em 75 3.2.2. Dùng các thiết bị thông minh để giám sát, phát hiện hành vi phạm tội với trẻ em. 78 3.2.3. Sử dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động nhận tin báo. 79 5
  6. 3.2.4. Thành lập hệ thống các cơ quan chuyên trách về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em 80 3.2.5. Thực hiện tốt các công tác giám giám, kiểm tra trong bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em 81 3.2.6. Tăng cường vai trò, phối hợp giữa các cơ quan tổ chức trong bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. 82 KẾT LUẬN 84 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 86 6
  7. MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới, việc quan tâm bảo vệ các quyền của trẻ em luôn được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững của đất nước. Vì vậy, Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (20-11-1989) đã được Chính phủ của 191 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới phê chuẩn (tính đến hết tháng 12 năm 2004). Mặc dù có những quan niệm khác nhau về cách thức xác định một con người cụ thể gọi là trẻ em và giới hạn về độ tuổi, nhưng trong phạm vi quốc tế, trẻ em nói chung đều được xác định là đối tượng được chăm sóc đặc biệt, cần nhận được sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước, xã hội và cộng đồng. Ngày 2-1-1990, Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã chính thức phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và là một trong những quốc gia phê chuẩn công ước này sớm nhất (thứ 3 trên thế giới và thứ 2 ở Châu Á). Để đảm bảo cho việc thực hiện công ước này, ngày 16-8-1991, Nhà nước đã ban hành Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em. Tình hình xâm hại trẻ em nói chung và xâm hại tình dục trẻ em nói riêng ở Việt Nam trong những năm vừa qua vẫn diễn biến hết sức phức tạp. Ngày 31-7-1998, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 9-1998 _NQ/CP về việc tăng cường và phòng chống tội phạm trong tình hình mới và phê duyệt Chương trình Quốc gia về phòng chống tội phạm. Một trong những nội dung quan trọng của Chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm được đề cập là đề án “Phòng chống tội phạm xâm hại trẻ em, tội phạm trong lứa tuổi vị thành niên” mà Bộ Công an được giao nhiệm vụ chính trong việc chủ trì, phối hợp hoạt động giữa các cấp, các ngành. Ngày 16-3- 2000, Bộ Công an đã có Kế hoạch số 323/ BCA để triển khai công tác thực hiện Nghị quyết số 09/1998_NQ/CP và Đề án 04 của Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm trong đó nhấn mạnh nhiệm vụ củng cố các lực lượng nghiệp vụ trực tiếp phòng ngừa và đấu tranh chống các loại tội phạm xâm hại trẻ em và tội phạm trong lứa tuổi vị thành niên; phối hợp với các ngành nội chính điều tra, truy tố, xét xử kịp thời các đối tượng phạm tội loại này; đề xuất chủ trương, biện pháp đấu tranh phù hợp trong công tác phòng, chống lại các loại tội phạm này. 7
  8. Các vấn đề về bảo vệ trẻ em ngày càng được quan tâm tại Việt Nam. Theo báo cáo, có hơn 2,6 triệu trẻ em ở Việt Nam cần được bảo vệ đặc biệt. Trong số đó có trẻ em bị lạm dụng, bị bóc lột và buôn bán vì mục đích tình dục; trẻ em lang thang cơ nhỡ; trẻ em tật nguyền; trẻ em vi phạm pháp luật; trẻ mồ côi; trẻ em bị ruồng bỏ; trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS; và trẻ em sống trong cảnh nghèo đói. Hoàn cảnh của các em đều hết sức nghiệt ngã. Chỉ có một số ít trẻ em Việt Nam được nuôi dưỡng và chăm sóc ở các cơ sở của nhà nước, còn rất nhiều em khác phải tự bươn trải để kiếm sống. Một số em bị bắt lao động, còn một số khác sống lang thang trên các đường phố - chính tình cảnh đó khiến cho các em có nguy cơ cao bị nhiễm HIV, sử dụng ma túy và bị lôi cuốn vào các hành vi phạm tội và mại dâm. Có nhiều lý do phức tạp khiến các em lâm vào những tình cảnh éo le như vây. Các yếu tố kinh tế như nghèo đói, chênh lệch về thu nhập và sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường cũng làm cho các em trở nên dễ bị tổn thương hơn. Các trào lưu xã hội như di cư, các giá trị gia đình đang bị băng hoại và tình trạng phân biệt đối xử về giới cũng ảnh hưởng xấu tới trẻ em. Trẻ em được xếp vào nhóm người yếu thế trong xã hội, nhóm người này rất dễ trở thành nạn nhân của tội phạm.Chính vì vậy vấn đề bảo vệ trẻ em trước những hành vi vi phạm pháp luật là một vấn đề cấp bách của toàn xã hội. 2. Tình hình nghiên cứu 2.1. Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em theo quy định của pháp luật quốc tế. Trong Luật Nhân quyền quốc tế, quyền trẻ em được chế định chủ yếu trong Công ước về quyền trẻ em (CRC, năm 1989) và hai Nghị định thư không bắt buộc bổ sung CRC được thông qua năm 2000 (Nghị định thư về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em, Nghị định thư về sự tham gia của trẻ em trong xung đột vũ trang). Trong đó khái niệm “Trẻ em” được xác định là những người dưới 18 tuổi.Tuy nhiên, đây là một điều luật mở cho các quốc gia thành viên. Theo đó, các quốc gia thành viên có thể quy định các quyền trẻ em được bắt đầu ngay khi mang thai hay sau khi ra đời; và về độ tuổi được coi là trẻ em thấp hơn 18 tuổi so với quy định của CRC. 8
  9. 2. 2 Một quy định về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em theo pháp luật của Việt Nam hiện hành Cùng với việc phát triển kinh tế, trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, văn bản pháp luật trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến bảo vệ các quyền trẻ em. Từ các bản Hiến pháp, các bộ luật, luật đến các văn bản dưới luật đã tạo thành một hệ thống pháp luật bảo vệ trẻ em phù hợp với các công ước quốc tế và truyền thống văn hoá của dân tộc. Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên Hiệp quốc về Quyền trẻ em vào ngày 20/02/1990. Ở Việt Nam, quyền trẻ em đã được hiến định từ Hiến pháp năm 1946 (trực tiếp là các Điều 14, 15 và được hàm chứa trong một số điều khác) và trong tất cả các Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 (gồm cả lần sửa đổi, bổ sung vào năm 2001), năm 2013. Hiến pháp năm 1992, quyền trẻ em được chế định trực tiếp trong Điều 40 và được hàm chứa trong một số điều khác. Hiến pháp năm 2013, quyền trẻ em được quy định trực tiếp tại khoản 1, Điều 37: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”. Trên tinh thần của Hiến pháp năm 2013, việc bảo vệ trẻ em cũng đã được thể chế hóa trong nhiều bộ luật và luật, mà tập trung là Luật Trẻ em năm 2016, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Luật phòng chống bạo lực gia đình Hiện nay có các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em như: Những điều cần biết về quyền trẻ em – Tác giả Vũ Ngọc Bình, sách do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội xuất bản năm 1996; Bảo vệ quyền trẻ em trong pháp luật Việt Nam - sách do Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 1996; Quyền trẻ em trong pháp luật Việt Nam - sách do Nhà xuất bản Tư pháp, xuất bản năm 2005; Bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong pháp luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam – sách do Nhà xuất bản Tư pháp, xuất bản năm 2006; 9
  10. Công ước về quyền trẻ em năm 1989 – cơ sở cho việc bảo vệ quyền trẻ em - Tạp chí luật học số 3 tháng 5, 6 năm 2003; Quyền trẻ em trong pháp luật -bài viết của Thạc sĩ Lê Thị Nga đăng trên báo điện tử của Tổng cục Dân số - Kế hoạch hoá gia đình, số 5 ngày 21/07/2007; Cơ chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ em ở Việt Nam - Luận văn Thạc sĩ luật học Chu Mạnh Hùng Luận văn thạc sĩ tác giả Nguyễn Thị Huyền về đề tài Pháp luật quốc tế, pháp luật nước ngoài về bảo vệ quyền trẻ em. Luận án tiến sĩ tác giả Trần Hưng Bình về đề tài Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên theo pháp luật tố tụng Việt Nam. Các biện pháp bảo vệ và trợ giúp nạn nhân là phụ nữ và trẻ em bị bạo lực của tác giả Nguyễn Xuân Thu đăng trong tạp chí Luật. 3. Mục đích nghiên cứu Làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận về vấn đề bảo vệ trẻ em trở thành nạn nhân của tội phạm và thực tiễn các biện pháp bảo vệ vấn đề đó tại Việt Nam. Từ đó đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm bảo vệ trẻ em trước sự xâm hại của tội phạm. 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi của đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Các quy định pháp luật về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. - Đánh giá nhận xét về bảo vệ nạn nhân của tội phạm dưới góc độ pháp lí. - Giải pháp nâng cao hiệu quả pháp luật bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Khóa luận ngiên cứu về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp luật 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận là Chủ nghĩa Mác –Lênnin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Nhà nước ta về nhà nước và pháp luật. Phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng các phương pháp cơ bản - Phương pháp duy vật biện chứng và phươn pháp duy vật lịch sử làm phương pháp luận cho việc nghiên cứu. - Phương pháp logic – lịch sử làm phương pháp chủ đạo. 10
  11. - Phương pháp tổng hợp: tổng hợp những kết quả đã phân tích và hình thành cái nhìn tổng quan về từ đó thấy được sự chuyển biến theo thời gian của việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. - Bên cạnh đó sử dụng các phương pháp khác như: so sánh, tiếp cận hệ thống. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn đã cố gắng hệ thống về các quy định của pháp luật về vấn đề bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. - Những kết quả mà luận văn mà nghiên cứu được, phần nào là tài liệu tham khảo giúp cho việc nghiên cứu Nhà nước và pháp luật. 11
  12. CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ NẠN NHÂN CỦA TỘI PHẠM LÀ TRẺ 1.1. Khái quát nạn nhân của tội phạm là trẻ em Trẻ em là một thuật ngữ dùng để chỉ một nhóm xã hội thuộc về một độ tuổi nhất định trong giai đoạn đầu phát triển của con người, về vị thế xã hội, trẻ em là một nhóm thành viên xã hội mà ngày càng có khả năng hội nhập xã hội với tư cách là những chủ thể tích cực, có ý thức, nhưng cũng cần được gia đình và xã hội quan tâm bảo vệ, chăm sóc. Khái niệm trẻ em được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, nhưng dưới góc độpháp lý trẻ em được xác định theo độ tuổi và độ tuổi của trẻ em tùy thuộc vào sự quy định của mỗi quốc gia và từng lĩnh vực mà trẻ em tham gia. Xét dưới khía cạnh Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, trẻ em là một chủ thể pháp luật. Cũng như các chủ thể khác ( cá nhân là công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không có quốc tịch hay pháp nhân), trẻ em có khả năng trở thành các bên tham gia quan hệ pháp luật, có được những quyền và nghĩa vụ pháp lý trên cơ sở nhũng quy phạm pháp luật. Sự phát triển mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hóa ở châu Âu thế kỷ XVI, XVII và XVIII đã kéo theo tình trạng bóc lột sức lao động trẻ em một cách phổ biến, khắp nơi trên thế giới, rất nhiều thảm kịch về trẻ em đã diễn ra. Thêm vào đó cuộc chiến tranh thế giới lần thứ I (1914 -1918) đã đẩy hàng triệu trẻ em vào hoàn cảnh khốn khổ. Năm 1919, một tổ chức cứu trợ trẻ em đã được thành lập ở Anh và Thụy Điển. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã ban hành một số công ước nhằm bảo vệ trẻ em trong các lĩnh vực lao động, việc làm và bảo trợ xã hội. Năm 1923, người sáng lập ra Quỹ cứu trợ trẻ em ở nước Anh – bà Eglantuyne Jebb, khởi thảo hiến chương trẻ em. Đây được coi là mốc quan trọng trong lĩnh vực bảo vệ trẻ em. Năm 1924, tuyên ngôn Giơnevơ về quyền trẻ em được Hội Quốc Liên thông qua, năm 1948 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua tuyên ngôn thế giới về quyền con người. Năm 1959 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua tuyên ngôn (thứ 2) về quyền trẻ em gồm 10 điểm. Tuyên ngôn khẳng định “Loài người có trách nhiệm trao cho trẻ em điều tốt nhất”. Điều 24 Công ước 12
  13. quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 nêu rõ “Các trẻ em phải được gia đình, xã hội và quốc gia bảo hộ”. Điều 10 Công ước quốc tếvề các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 quy định “Thanh thiếu niên phải được bảo vệ chống mọi hình thức bóc lột về kinh tếvà xã hội”. Một số văn kiện khác như Tuyên ngôn về việc bảo vệ phụ nữ và trẻ em trong các trường hợp khẩn cấp hoặc xung đột vũ trang năm 1974. Quy tắc chuẩn tối thiểu của Liên Hiệp Quốc về việc áp dụng pháp luật với người chưa thành niên năm 1985 cũng quy định nội dung tương tự. Về cơ bản trẻ em theo quy định của Công ước quốc về quyền trẻ em, trẻ em là những người chưa đủ18 tuổi; Theo quy định của pháp luật Việt Nam trẻ em là những người chưa đủ 16 tuổi. Như vậy, khái niệm quyền trẻ em được hiểu là những đặc quyền tựnhiên mà trẻ em được hưởng, được làm, được tôn trọng và thực hiện nhằm đảm bảo sự sống còn, tham gia và phát triển toàn diện.[14] Thể chế hóa nội dung của quyền trẻ em trong các văn bản quy phạm pháp luật là một trong những biện pháp nhằm đảm bảo cho trẻ em không chỉ là người trực tiếp tiếp thu thụ động tình thương, lòng tốt của bất cứ ai mà còn có thể trở thành chủ thể của quyền. Theo quy định của Công ước quốc tế về quyền trẻ em thì quyền trẻ em gồm có các nhóm quyền cơ bản: quyền sống còn, quyền được phát triển, quyền được bảo vệvà quyền được tham gia. Trong các nhóm quyền đó quyền được phát triển là các điều kiện để trẻ em có thể phát triển đầy đủ nhất về tinh thần, đạo đức, được học tập, vui chơi; Quyền được bảo vệ bao gồm tất cả các quy định trẻ em phải được chống lại tất cả các hình thức xâm hại. Để đảm bảo được quyền trẻ em thực hiện tốt và phù hợp với công ước quốc tế về quyền trẻ em, Việt Nam đã ban hành và sửa đổi nhiều đạo luật: Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2016; Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991; Bộ luật Lao động năm 2001 sửa đổi, bổ sung năm 2002; Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 sửa đổi bổ sung năm 2015; Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Các nghị định, thông tư hướng dẫn và các văn bản dưới luật khác liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em đã được ban hành. Pháp luật đã quy định rõ các quyền của trẻ em được hưởng, khi các quyền đó bị xâm hại bởi hành vi phạm pháp luật thì lúc này trẻ em trở thành nạn nhân. 13
  14. “ Khách thể của tội phạm có thể được định nghĩa là quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm, nhưng bị tội phạm xâm hại đến và gây nên hoặc đe dọa thực tế gây nên thiệt hại đáng kể nhất định”. Một bộ phận quan trọng của khách thể của tội phạm là đối tượng tác động của tội phạm, để gây nên thiệt hại cho khách thể của tội phạm thì hành vi phạm tội phải tác động làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm. Theo đó thì “ trẻ em” là một trong các đối tượng tác động của tội phạm. Đối tượng tác động này là chủ thể của quan hệ xã hội nên ngoài những đặc điểm chung thì trẻ em còn có các đặc điểm về tâm sinh lý. Về sinh lý, như chúng ta đã biết trẻ em là những người dưới 16 tuổi theo pháp luật Việt Nam và dưới 18 tuổi theo pháp luật Quốc Tế. Từ những phân tích trên ta có thể đưa ra khái niệm phạm tội đối với trẻ em như sau: Phạm tội đối với trẻ em là hành vi nguy hiểm cho xã hội với lỗi cố ý hoặc vô ý xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm và các quyền khác của trẻ em mà pháp luật quy định, được thực hiện do người có năng lực hành vi dân sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Khái niệm "nạn nhân" có thể được truy trở lại từ các xã hội cổ đại.Nó được kết nối với khái niệm của sự hy sinh. Theo nghĩa ban đầu của thuật ngữ, một nạn nhân là một người hay một con vật được bị giết chết để tế lễ trong một buổi lễ tôn giáo để xoa dịu một số quyền lực siêu nhiên hoặc thần linh. Qua nhiều thế kỷ, từ này đã nhận thêm ý nghĩa. Bây giờ nó thường đề cập đến những cá nhân bị thương tích, mất mát, hoặc khổ đau vì bất kỳ lý do gì. Mọi người có thể trở thành nạn nhân của tai nạn, thiên tai,bệnh tật, hoặc các vấn đề xã hội như chiến tranh, phân biệt chủng tộc, săn lùng chính trị,và những bất công khác. Các “ nạn nhân của tội phạm” là những người bị tổn hại bởi các hành vi bất hợp pháp. Trong đoạn 1 của Tuyên ngôn về Các nguyên tắc công lý cơ bản cho các nạn nhân của tội phạm và lạm dụng quyền lực", nạn nhân được định nghĩa như sau: "Nạn nhân có nghĩa là những người, từng cá nhân hay tập thể, đã bị tổn hại, bao gồm thương tích thể chất hoặc tinh thần, đau khổ về cảm xúc, mất mát về kinh tế hoặc sự suy yếu đáng kể các quyền cơ bản của họ, hoặc những thiếu sót vi phạm luật hình sự hoạt động trong các quốc gia thành viên, bao gồm cảnhững biện 14
  15. pháp trừng phạt hình sự hay lạm dụng quyền lực". Một người có thể được coi là một nạn nhân theo tuyên ngôn này, bất kể thủ phạm đã được nhận dạng, bị bắt, bị truy tố, bị kết án hay chưa và không kể mối quan hệ gia đình giữa thủphạm và nạn nhân. Thuật ngữ "nạn nhân" cũng bao gồm, nếu thích hợp, gia đình trực hệ hoặc những người phụ thuộc trực tiếp của nạn nhân và những người mà do can thiệp để trợ giúp nạn nhân khi gặp khó khăn hoặc đã đển găn chặn sự vi phạm xảy ra xa hơn đã phải chịu đựng sự tổn hại. Nạn nhân là những cá nhân hoặc cộng đồng bị thiệt hại, bao gồm cả thểchất hoặc chấn thương tâm thần, đau khổvề cảm xúc, tổn thất kinh tếhoặc suy yếu đáng kể quyền cơbản của họ, thông qua các hành động hoặc thiếu sót cấu thành vi phạm thô bạo của luật nhân quyền quốc tế, hoặc các vi phạm nghiêm trọng về nhân đạo quốc tếpháp luật. Trong trường hợp thích hợp và phù hợp với luật pháp trong nước, thuật ngữ "nạn nhân" cũng bao gồm gia đình hoặc người thân trực tiếp của nạn nhân trực tiếp và những người đã bị can thiệp trong việc can thiệp để giúp đỡ các nạn nhân gặp khó khăn hoặc đển găn ngừa quá trình nạn nhân hóa Như vậy, nạn nhân của tội phạm là những cá nhân, tổ chức bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc các quyền lợi ích hợp pháp khác. [1] Theo điều 1 của Luật trẻ em 2016 quy định “ Trẻ em là những người dưới 16 tuổi” Từ đó thể đưa ra khái niệm “ nạn nhân của tội phạm là trẻ em” là những người dưới 16 tuổi bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc các quyền lợi ích hợp pháp khác. Xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng tính mạng, sức khỏe của con người thì ai cũng có quyền được pháp luật bảo vệ khi bị xâm hại. Với mỗi tiêu chí khác nhau, có thể phân loại nạn nhân của tội phạm là trẻ em thành những nhóm cơ bản (mang tính tương đối) sau đây: Yếu tố bị xâm hại - Xâm hại thể chất: là bất kỳ hành vi cố ý nào gây thương tích hoặc chấn thương cho trẻ em bằng cách tiếp xúc cơ thể. Trong nhiều trường hợp, trẻ em là nạn nhân của lạm dụng thân thể. Các thuật ngữ đôi khi được sử dụng thay thế nhau bao 15
  16. gồm hành hung thể chất hoặc bạo lực thể xác, và có thể bao gồm cả lạm dụng tình dục. Xâm hại về thể chất gồm những hành động bất kỳ hoặc hành vi không ngẫu nhiên nào gây thương tích, chấn thương hoặc đau đớn thể xác hoặc tổn thương cơ thể. Hành vi ngược đãi đối với trẻ em thường do sự trừng phạt của cha mẹ, của thầy cô, người nuôi dạy hoặc từ người sử dụng lao động. Hậu quả của những hành vi này trực tiếp để lại trên cơ thể của nạn nhân và chúng ta có thể nhìn thấy được như vết thâm tím, vết sung tấy, vết xước, gẫy xương vv và có thểm giám định mức độ thương tật. - Xâm hại tinh thần: là những hành vi của cha mẹ, người thân, người chăm sóc hay người có vị trí, quyền hạn ảnh hưởng đến trẻ lợi dụng sự yếu đuối phụ thuộc của trẻ đối với mình mà thực hiện những hành vi bao gồm lời nói, hành động, cử chỉ không làm tổn hại đến thể chất nhưng trực tiếp làm ảnh hưởng đến cảm xúc của trẻ, gây tổn thương về mặt tình cảm, tinh thần. Những hành vi xâm hại về tinh thần hậu quả không trực tiếp nhìn rõ ràng và nhanh chóng như hậu quả của những hành vi xâm hại về thể chất. Hậu quả của sự xâm hại về tinh thần có thể khiến trẻ em rơi vào tinh trạng hoảng loạn, rối loạn tâm thần hay mắc chứng bệnh trầm cảm. Hậu quả pháp lý của hành vi: Theo điều 9 của Bộ luật hình sự 2015 ta có thể chia nhóm nạn nhân của tội phạm là trẻ em theo mức độ hậu quả pháp lí mà pháp luật quy định đối với tội phạm - Nhóm nạn nhân bị xâm hại bởi tội phạm ít nghiêm trọng. Theo quy định tại khoản 1 điều 9 quy định “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm” - Nhóm nạn nhân bị xâm hại bởi tội phạm ít nghiêm trọng. Theo quy định tại khoản 2 điều 9 quy định “Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù” 16
  17. - Nhóm nạn nhân bị xâm hại bởi tội phạm ít nghiêm trọng. Theo quy định tại khoản 3 điều 9 quy định “ Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù” - Nhóm nạn nhân bị xâm hại bởi tội phạm ít nghiêm trọng. Theo quy định tại khoản 4 điều 9 quy định “Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.” Mục đích xâm hại: - Xâm hại tình dục: Xâm hại tình dục trẻ em là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ em vào Mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức. - Cố ý gây thương tích: Cố ý gây thương tích là Hành vi cố ý xâm phạm thân thể, gây hại cho sức khỏe người khác dưới dạng thương tích cụ thể. Là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của người khác. - Mua bán trẻ em: Mua bán trẻ em là hành vi dùng tiền hoặc phương tiện thanh toán khác để trao đổi trẻ em như hàng hóa. Mua bán trẻ em là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền con người của trẻ em và có thể xâm phạm đến hạnh phúc gia đình. Độ tuổi của nạn nhân Dựa vào độ tuổi của nạn nhân ta có thể phân chia nạn nhân của tội phạm thành hai nhóm - Nhóm nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới 6 tuổi: Theo quy định của bộ luật dân sự 2015 quy định thì trẻ em dưới 6 tuổi là những người không có năng lực hành vi dân sự. Tất cả trẻ em không thể bằng hành vi của mình để xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự. Trong giai đoạn từ 0-6 tuổi theo nghiên cứu của các nhà tâm lý học và giáo dục học cho rằng đây là giai đoạn trẻ phát triển mạnh 17
  18. mẽ và nhanh chóng, sự tăng trưởng, hoàn thiện về trọng lượng của não và các dây thần kinh. Đây được cho là giai đoạn nhạy cảm để trẻ tiếp xúc, khám phá thiên nhiên và cuộc sống xã hội. Nếu trẻ bị xâm hại trong giai đoạn này thì hậu quả gây ra cho trẻ em khá nặng về nhận thức về thế giới quan bên ngoài và về thể chất cũng ảnh hưởng rất nghiêm trọng vì cơ thể trẻ em giai đoạn này quá non nớt. - Nhóm trẻ em là nạn nhân của tội phạm trên 6 tuổi: Theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015 quy định “ Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi”. Như vậy ta có thể thấy trong giai đoạn này trẻ đã bắt đầu có nhận thức về các mối quan hệ trong xã hội. Trẻ từ 6 tuổi bắt đầu tiếp cận con đường học hành bài bản, thông qua những con số, chữ viết. Không như trước đây, trẻ đã nhận thức được mối quan hệ nguyên nhân – kết quả. Thay vì chỉ toàn suy nghĩ mơ mộng và thiếu logic như khi còn học mầm non. Khi bị những hành vi xâm hại ở độ tuổi này trẻ em đã dần nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật. Hoàn cảnh của nạn nhân: Dựa vào hoàn cảnh, điều kiện, thể chất của trẻ ta có thể chia nạn nhân của tội phạm thành 2 loại - Nạn nhân của tội phạm là trẻ em có điều kiện, hoàn cảnh phát triển đảm bảo ( bình thường ): sống chung với bố mẹ, không bị khuyết tật, tâm sinh lí phát triển bình thường, đi học đầy đủ, được nhận tình cảm yêu thương chăm sóc từ gia đình và xã hội. - Nạn nhân của tội phạm là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt : Điều 10 của luật đã quy định: “Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt bao gồm trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi; trẻ em khuyết tật, tàn tật; trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học; trẻ em nhiễm HIV/AIDS; trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại; trẻ em phải làm việc xa gia đình; trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm hại tình dục; trẻ em nghiện ma tuý; trẻ em vi phạm pháp luật”. Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là nhóm đối tượng có xu hướng bị xâm hại cao do hoàn cảnh về nơi sinh sống, nhận thức và sự bảo vệ lỏng lẻo. 18
  19. 1.2. Khái niệm, đặc điểm cơ bản của bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em nhìn dưới góc độ pháp lý 1.2.1. Khái niệm 1.2.1.1. Khái niệm bảo vệ trẻ em là nạn nhân của tội phạm Trẻ em thuộc nhóm người yếu thế trong xã hội, nhóm người này thường rất dễ bị xâm phạm bởi các hành vi trái pháp luật. Vì vậy bảo vệ trẻ nói chung và bảo vệ trẻ em tránh khỏi sự xâm hại của tội pham là một vấn đề hoàn toàn nhức nhối. Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em bao gồm hệ thống tất cả các biện pháp khác nhau để hạn chế, loại trừ nguyên nhân và điều kiện của tội phạm để ngăn chặn những hành vi xâm phạm đến thể chất, tinh thần hoặc quyền và lợi ích hợp pháp khác của trẻ em. Thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn cho trẻ em sau khi bị tội phạm xâm hại, tránh xảy ra tình trạng bị đe dọa và các hành vi vi phạm pháp luật khác nhằm che giấu hành vi phạm tội của tội phạm. Vì tội phạm là các hiện tượng của xã hội, do sự tác động qua lại phức tạp giữa các quá trình, hiện tượng xã hội. Như vậy tội phạm là hệ quả tất yếu trong mối liên hệ nhân quả giữa các quá trình. Muốn bảo vệ trẻ em trước sự xâm hại của tội phạm thì phải loại bỏ những yếu tố phát sinh ra nó và nguy cơ tái trở thành tội phạm. Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em là hoạt động mang tính rộng rãi và liên tục do hành vi phạm tội xảy ra thường xuyên, liên tục cũng như nguy cơ tái trở thành nạn nhân của tội phạm là rất cao. Các hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm phải được thực hiện một có hệ thống, khẩn trương nhanh chóng để bảo đảm quyền lợi của trẻ em được bảo vệ một cách tốt nhất. Các hoạt động bảo vệ về thể chất là các hoạt động bảo vệ sức khỏe, tính mạng cho nạn nhân. Các hoạt động này được tiến hành bởi cơi quan nhà nước kết hợp với gia đình và nhà trường và toàn xã hội. Sau khi phát hiện trẻ em bị xâm hại bởi hành vi vi phạm pháp luật thì gia đình nạn nhân, những người trực tiếp chung sống cùng trẻ cần có những biện pháp bảo vệ phù hợp. Cha mẹ có trách nhiệm bảo đảm điều kiện để trẻ em được sống chung với mình, khi phát hiện ra việc trẻ em bị xâm hại phải báo cáo ngay với cơ quan có thẩm quyền để có phương pháp xử lí. Trong nhiều trường hợp nạn nhân 19
  20. phải gánh chịu sự xâm hại một cách liên tục trong thời gian dài vì những lí do như trẻ chưa nhận thức được đó là hành vi xâm hại đến quyền lợi của mình và im lặng, thứ hai do tâm lí sợ sệt do bị đe dọa hoặc sợ bố mẹ, thầy cô mắng. Do vậy khi gia đình phát hiện ra những biểu hiện lạ từ trẻ thì phải ngay lập tức tìm hiểu và báo với cơ quan có thẩm quyền đểnhanh chóng có biện pháp can thiệp kịp thời. Đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, khi phát hiện hoặc nhận được tin báo về hành vi phạm tội phải nhanh chóng có kế hoạch để điều tra và bảo vệ nạn nhân tránh khỏi tình trạng tái trở thành nạn nhân của tội phạm. Với chức năng và nhiệm vụ của mình cơ quan tư pháp hình sự phải là trung tâm của hệ thống bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Trong cơ quan tư pháp hình sự thì cơ quan công an giữ vai trò là lực lượng nòng cốt trong hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Với đặc thù nghề nghiệp, bộ công an sẽ kết hợp với viện kiểm sát và tòa án trong việc xác định các trường hợp cần bảo vệ, biện pháp và các chương trình áp dụng. Bảo vệ nạn nhâncủa tội phạm là trẻ em bằng những hoạt động trợ giúp pháp lý. Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật, giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật. Sau khi bị xâm hại nạn nhân cần phải nhanh chóng được pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong nhiều trường hợp do vì trình độ hiểu biết kém, nhận thức về pháp luật hạn chế nên cần có sự trợ giúp kịp thời các hoạt động trợ giúp pháp lí để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Trợ giúp pháp lý cho nạn nhân của tội phạm là trẻ em gồm tất cả những vấn đề liên quan đến thủ tục, và pháp luật như trình tự, thủ tục để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, thủ tục khai báo, thủ tục tìm luật sư bảo vệ vv. 1.2.2. Đặc điểm Chủ thể bảo vệ trẻ em là nạn nhân của tội phạm trước hết và chịu trách nhiệm chính là các cá nhân, cơ quan, tổ chức mang quyền lực của nhà nước 20
  21. Tội phạm là một hiện tượng xã hội đa dạng, phức tạp.Vì vậy muốn bảo vệ nạn nhân của tội phạm mà cụ thể là trẻ em gồm nhiều biện pháp khác nhau với tính chất mức độ khác nhau và phải có quá trình.Nạn nhân của tội phạm chiếm số lượng không nhỏvà phân bố trên mọi miền đất nước.Trong số đó, có rất nhiều người cần đến sự bảo vệ và trợ giúp nhất là các trường hợp nạn nhân đang trong quá trình tố tụng.Hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em đòi hỏi phải đáp ứng tối đa về nguồn lực về pháp lý cũng như tài chính.Để bảo vệ kịp thời và toàn diện cho nạn nhân của tội phạm là trẻ em cần có sự phối hợp của nhiều cơ quan tổ chức như: Đoàn thanh niên: T.Ư Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh là tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em và giám sát việc thực hiện quyền trẻ em theo ý kiến, nguyện vọng của trẻ em, với nhiệm vụ thường xuyên lắng nghe, tiếp nhận và tổng hợp ý kiến, kiến nghị của trẻ em, chuyển tới các cơ quan có thẩm quyền để giải quyết. Chính vì vậy, T.Ư Ðoàn luôn phải quan tâm, xây dựng đội ngũ cán bộ đảm đương trách nhiệm này. Và khi phát hiện ra các hành vi xâm hại trẻ em phải ngay lập tức có biện pháp bảo vệ tại chỗ kịp thời và báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hội phụ nữ: Trẻ em là đối tượng bị xâm hại bới những hành vi bạo lực gia đình, khi trong gia đình sảy ra các hành vi cãi cọ, bạo lực thì hội phụ nữ tại cơ sở cần có những biện pháp giải hòa. Khi pháp hiện những hành vi như đánh đập, hành hạ ngay lập tức tổ chức này có thể thực hiện nhữnghoạt động bảo vệ tại chỗ và báo tin cho cơ quan có thẩm quyền. Tổ chức công đoàn: Công đoàn là tổ chức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động tại nơi làm việc, do vậy trách nhiệm của các tổ chức công đoàn khi phát hiện hiện những trường hợp bóc lột, bạo hành người lao động là trẻ em cần có các biện pháp bảo vệ và thông báo kịp thời với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cá nhân, gia đình và toàn xã hội: Để hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm đạt hiệu quả cao cần tích cực tuyên truyền giáo dục, động viên, khuyến khích mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội nhiệt tình tham gia. Đối với cá nhân trong xã hội cần tuyên truyền, giáo dục, động viên khuyến khích để họ thấy rõ trách nhiệm của mình mà tích cực tham gia. Mỗi cá nhân phải xác định nhiệm vụ bảo 21
  22. vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em không phải là trách nhiệm của mỗi cơ quan bảo vệ pháp luật mà luôn cần sự tham gia tích cực của mọi cá nhân trong xã hội.Càng huy động được nhiều người tham gia thì hoạt động này càng mang lại nhiều hiệu quả thiết thực. Đối với các nạn nhân và gia đình của nạn nhân của tội phạm là trẻ em cần phải tuyên truyền, giáo dục, khuyến khích các nạn nhân và gia đình tham gia tích cực tham ia vào hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm. Cần phải có phương pháp, cách thức cũng như nội dung tuyên truyền, giáo dục phù hợp để nạn nhân thấy rõ sự tham gia của họ không chỉ nhằm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ mà còn là trách nhiệm của họ trong công cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm đảm bảo giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội. Các chủ thể khác trong xã hội cũng có nghĩa vụ bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em, trong đó đặc biệt phải kể đến vai trò của gia đình và nhà trường Bên cạnh các cơ quan, tổ chức trên còn một số cơ quan tổ chức khác cũng có trách nhiệm liên quan đến việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em như Hội luật gia, Mặt trận tổ quốc, trường học, tổ chức kinh tế, quỹ bảo trợ trẻ em vv. Nhưng cơ quan bảo vệ chính, nắm vai trò chủ chốt trong việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em là cơ quan nhà nước có thẩm quyền ( Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát, bộ công an). Khi có các hành vi vi phạm pháp luật xảy ra, xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế được quy định trong bộ phận chế tài của các quy phạm pháp luật đối với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Chẳng hạn như hành vi xâm phạm tính mạng sức khoẻ con người bị xử lý theo Luật hình sự, hành vi gây thiệt hại tài sản buộc phải bồi thường theo Luật dân sự. Pháp luật mang tính giai cấp, tính cưỡng chế thể hiện quyền lực của nhà nước bằng hình thức trừng trị ( xử phạt ). Sự cưỡng chế của pháp luật không phải đơn thuần nhằm mục đích trừng trị mà trước hết là răn đe, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật, giáo dục người vi phạm. Sự cưỡng chế ở đây được thực hiện trên cơ sở pháp luật, trong khuôn khổ pháp luật, do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành. Nhà nước XHCN không thừa nhận các hành vi bạo lực trái với pháp luật trong việc xử lý các vi phạm pháp luật. 22
  23. Các cơ quan tư pháp hình sự có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ trẻ em là nạn nhân của tội phạm.Với chức năng, nhiệm vụ của mình các cơ quan tư pháp hình sự phải là trung tâm của hệ thống bảo vệ nạn nhân. Trong cơ quan tư pháp hình sự thì cơ quan công an giữ vai trò là lực lượng nòng cốt trong hoạt động bảo vệ. Bộ công an với đặc thù nghề nghiệp, Bộ công an là cơ quan có thể thành lập lực lượng đặc biệt thực hiện các hoạt động bảo vệ tuyệt đối an toàn tính mạng, tài sản của nạn nhân.Cơ quan công an cần phối hợp chặt chẽ với viện kiểm sát và tòa án trong việc xác định những trường hợp cần được được bảo vệ, biện pháp và các chương trình cần thiết áp dụng để bảo vệ một cách an toàn và hiệu quả nhất cho trẻ em là nạn nhân của tội phạm. Cơ quan công an cũng phải phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, với các cơ quan, tổ chức, đơn vị, và cá nhân trong xã hội để tận dụng sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo vệ an toàn nhất tính mạng, tài sản của nạn nhân và gia đình của họ. Tòa án nhân dân: Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hành động xét xử nghiêm minh, đúng người đúng tội để đảm bảo lợi ích tốt nhất cho nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan nhà nước Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Với nhiệm vụ như vậy Viện kiểm sát là cơ quan quan trọng trong việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em thông qua các hoạt động công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Sự tham gia bảo vệ của gia đình và cả xã hội. Những hành vi xâm hại trẻ em rộng rãi và liên tục do tội phạm xảy ra thường xuyên cũng như nguy cơ tái trở thành nạn nhân của tội phạm là rất cao. Để hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em đạt hiệu quả cao cần tích cực tuyên truyền giáo dục, động viên, khuyến khích mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội nhiệt tình tham gia. Đối với cá nhân trong xã hội cần tuyên truyền, giáo dục, động viên khuyến khích để họ thấy 23
  24. rõ trách nhiệm của mình mà tích cực tham gia.Mỗi cá nhân phải xác định nhiệm vụ bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em không phải là trách nhiệm của mỗi cơ quan bảo vệ pháp luật mà luôn cần sự tham gia tích cực của mọi cá nhân trong xã hội. Nhà nước cũng đã quy định các trường hợp vi phạm pháp luật của cá nhân trong xã hội như tội không tố giác tội phạm, tội không cứu giúp người trong tình trạng nguy hiểm. Đối với các nạn nhân và gia đình của nạn nhân của tội phạm là trẻ em cần phải tuyên truyền, giáo dục, khuyến khích các nạn nhân và gia đình tham gia tích cực tham gia vào hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm. Gia đình là nơi trẻ em sinh sống và phát triển, trong các quy định tại Luật bảo vệ trẻ em năm, Luật phòng chống bạo lực gia đình quy định rõ ràng nghĩa vụ của gia đình trong việc bảo vệ trẻm em. Cần phải có phương pháp, cách thức cũng như nội dung tuyên truyền, giáo dục phù hợp để nạn nhân thấy rõ sự tham gia của họ không chỉ nhằm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ mà còn là trách nhiệm của họ trong công cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm đảm bảo giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội. Hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức khác nhau. Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em gồm các biện pháp phức tạp và da dạng.Tạo thành một hệ thống gắn kết với nhau chặt chẽ mới có hiệu quả tốt nhất. Đối với các cơ quan, tổ chức, đơn vị cần phải có phương pháp, cách thức tổ chức đảm bảo vai trò nâng cao vai trò của họ trong hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức, đơn vị với các cơ quan tư pháp hình sự trong hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Các hiệp hội, cơ sở giáo dục, trại nuôi trẻ mồ côi, các doanh nghiệp cần tham gia tích cực vào hoạt động nuôi dưỡng nạn nhân của tội phạm là trẻ em cũng như nguồn tài chính để hoạt động bảo vệ, trợ giúp nạn nhân của tội phạm là trẻ em đạt hiệu quả cao. Cần tổ chức rộng rãi mạng lưới bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em.Hệ thống mạng lưới này được tổ chức rộng rãi để có được sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân đảm bảo giúp nạn nhân có thể tiếp nhận nhanh chóng, dễ dàng với sự bảo vệ. 24
  25. Đối tượng được bảo vệ là nhóm người yếu thế trong xã hội Khái niệm trẻ em được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, nhưng dưới góc độ pháp lý trẻ em được xác định theo độ tuổi và độ tuổi của trẻ em tùy thuộc vào sự quy định của mỗi quốc gia và từng lĩnh vực mà trẻ em tham gia. Xét dưới khía cạnh Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, trẻ em là một chủ thể pháp luật. Cũng như các chủ thể khác ,trẻ em có khả năng trở thành các bên tham gia quan hệ pháp luật, có được những quyền và nghĩa vụ pháp lý trên cơ sở nhũng quy phạm pháp luật. Theo quy định tại Công ước quốc tế về quyền trẻ em, trẻ em là những người chưa đủ 18 tuổi; nhưng tùy thuộc vào quy định của các nước thì độ tuổi giới hạn của trẻ em khác nhau. Ví dụ như pháp luật Việt Nam quy định, trẻ em là những người dưới 16 tuổi. Trong giai đoạn này cơ thể trẻ còn non nớt về thể chất, trẻm em chưa thể tự mình bảo vệ được quyền và lợi ích của bản thân, là đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương cần được bảo vệ nghiêm ngặt hơn. Về tâm lý, Trẻ em đang ở giai đoạn phát triển hình thành tâm lý, định hình nhân cách khi trưởng thành. Khi ở độ tuổi này hầu hết trẻ em đều có tâm lý tò mò, thích khám phá những điều mới lạ nên cần sự chăm sóc của gia đình, trường học và xã hội để trẻ định hướng đúng đắn về nhận thức sau này. Khi bị xâm hại vào giai đoạn này sẽ dẫn đến những hậu quả hết sức nghiêm trọng về cả thể chất và tinh thần. Là hoạt động yêu cầu phải theo một quy trình nhanh chóng, dứt điểm và toàn diện Trình tự (thứ tự, cách thức) thực hiện một hoạt động đã được quy định, mang tính chất bắt buộc, đáp ứng những mục tiêu cụ thể của hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Vì tính chất và hậu quả của việc xâm hại trẻ em vô cùng nặng đề đối với nạn nhân, nó có thể là những nỗi đau theo trẻ em đến hết cuộc đời, do vậy khi phát hiện hay nhận được tin báo về tội phạm xâm hại trẻ em ngay lập tức cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải nhanh chóng, ngay lập tức có các hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em một cách nhanh gọn và dứt điểm tránh tình trạng tái trở thành nạn nhân của tội phạm. 1.3. Các biện pháp bảo vệ nạn nhân cảu tội phạm là trẻ em Hoạt động xét xử - hình phạt Xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lí của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lí của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước 25
  26. đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc (xét xử vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh, thương mại, ). Dựa vào hoạt động xét xử của cơ quan nhà nước mà quyền và lợi ích hợp pháp của nạn nhân của tội phạm được bảo vệ. Khi một người thực hiện hành vi phạm tội đối với trẻ em, bị phát hiện và cơ quan nhà nước có những biện pháp bảo vệ nạn nhân nhưng không có hoạt động xét xử để quyết định những hình phạt thích đáng đối với tội phạm đó thì việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em không được thực hiện một cách toàn diện và triệt để. Xét xử và hình phạt là một hậu quả pháp lí nhất định phải có để nhằm trừng phạt tội phạm. Các hình phạt mà tội phạm phải gánh chịu thông thường gồm tử hình, tù có thời hạn, tù không thời hạn, cải tạo không giam giữ, cảnh cáo và phạt tiền. Ngoài ra còn có các hình phạt bổ xung như cấm đi khỏi nơi cư trú, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề. Tùy thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ ra quyết định áp dụng hình phạt riêng biệt cho từng chủ thể phạm tội. Đối với những tội phạm xâm hại về quyền trẻ em pháp luật nên xử lí nghiêm minh và có những hình phạt tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với chủ thể phạm tội vì mức độ gây thiệt hại cho trẻ em thông thường hậu quả sẽ lớn và lâu dài hơn so với những chủ thể khác trong xã hội. Thông qua quá trình điều tra và xét xử cơ quan nhà nước có thẩm quyền tìm được những nguyên nhân, điều kiện phạm tội và dự đoán khả năng tái phạm của tội phạm để có những biện pháp bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em một cách tối ưu nhất, đảm bảo an toàn cho nạn nhân của tội phạm là trẻ em trước những hành vi nguy hiểm khác và có những biện pháp giúp nạn nhân của tội phạm là trẻ em nhanh chóng trở lại cuộc sống bình thường. Trợ giúp pháp lý Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật, giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật. Sau khi bị xâm hại nạn nhân cần phải nhanh chóng được pháp 26
  27. luật bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Trong nhiều trường hợp do vì trình độ hiểu biết kém, nhận thức về pháp luật hạn chế nên cần có sự trọ giúp kịp thời các hoạt động trợ giúp pháp lí để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Trợ giúp nạn nhân của tội phạm là trẻ em tất cả những vấn đề liên quan đến thủ tục, và pháp luật như trình tự, thủ tục để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, thủ tục khai báo, thủ tục tìm luật sư bảo vệ vv. Hoạt động trợ giúp pháp lí giúp bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em trong trường hợp nạn nhân và gia đình nạn nhân thiếu hiểu biết về pháp luật, họ chưa biết phải làm như thế nào để tự bảo vệ quyền lợi của mình nên hoạt động trợ giúp pháp lí này là hoạt động thiết thực và quan trọng trong việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Thông báo khẩn cấp với cơ quan có thẩm quyền Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng. Những hành vi xâm hại trẻ em xuất hiện rộng rãi và liên tục do tội phạm xảy ra thường xuyên cũng như nguy cơ tái trở thành nạn nhân của tội phạm là rất cao. Do vậy nếu chúng ta bỏ mặc những hành vi đó để cơ quan nhà nước có thẩm quyền tự phát hiện và giải quyết là rất khó. Khi phát hiện hoặc nhận tin báo về hành vi phạm tội đối với trẻ em thì mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức phải nhanh chóng thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để cơ quan đó ngay lập tức thực hiện những hoạt động để bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản và các quyền, lợi ích khác của nạn nhân của tội phạm là trẻ em ngay tại chỗ và dùng các biện pháp để ngăn ngừa việc tái trở thành nạn nhân của tội phạm. Ngăn chặn hành vi phạm tội Biện pháp ngăn chặn hành vi phạm tội đối với nạn nhân của tội phạm là trẻ em gồm các biện pháp cưỡng chế buộc người thực hiện hành vi phạm tội làm hoặc không làm gì đó khi xét thấy đây là hành vi nguy hiểm như xâm hại về tính mạng, 27
  28. sức khỏe, tinh thần của trẻ em. Thì khi đó ngay lập tức cá nhân, tập thể cần ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội để bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Theo điều 132 bộ luật hình sự 2015 của Việt Nam có quy định về tội Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Theo đó hoạt động ngăn chặn hành vi phạm tội đã được các nhà làm luật dự tình trước để nhằm bảo vệ nạn nhân của tội phạm tại chỗ trước khi có sự can thiệt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 1.4. Pháp luật về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em 1.4.1. Khái niệm Mọi trẻ em đều có quyền được bảo vệ khỏi các hình thức bạo hành, xâm hại và bóc lột. Bảo vệ trẻ em là trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và mọi công dân và xã hội trong việc bảo đảm an toàn cho trẻ em khỏi bị xâm hại, bóc lột và sao nhãng, bao gồm cả việc loại bỏ những nguy cơ gây tổn hại và ngăn chặn các yếu tố đang gây tổn hại cho trẻ. Bảo vệ trẻ em còn hướng tới việc can thiệp khẩn cấp và giúp đỡ trực tiếp các đối tượng trẻ em đang có nguy cơ hoặc đã bị xâm hại, bóc lột và sao nhãng nhằm ngăn chặn, giúp phục hồi và tái hòa nhập cho trẻ em. Pháp luật về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em bao gồm các quy định về bảo vệ trẻ em sau khi bị tội phạm xâm hại; bị bóc lột, lạm dụng về thể xác và tinh thần. Các quy định về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em trong tình huống khẩn cấp, đặc biệt như mất môi trường gia đình, tình trạng trẻ bị xâm hại nhiều lần; hậu quả của tội phạm gây ra cho trẻ em đặc biệt nghiêm trọng; các quy định về điều kiện chăm sóc đầy đủ hoặc phục hồi cho trẻ em trong những trường hợp cần thiết; các quy định về chính sách, hình thức và biện pháp bảo vệ và trợ giúp nạn nhân của tội phạm là trẻ em, tạo cho các em được hưởng các quyền cơ bản, có cơ hội để phát triển toàn diện bản thân. Ở Việt Nam, Nhà nước đã quy định và thực thi nhiều biện pháp nhằm bảo vệ trẻ em. Pháp luật của nước ta liên tục được điều chỉnh, bổ sung để đáp ứng và giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh liên quan đến trẻ em, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và từng bước hội nhập với luật pháp quốc tế. 28
  29. Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, việc xử lý các hành vi vi phạm đối với trẻ em được quy định trong pháp luật hình sự. Ở Việt Nam, việc xử lý còn bằng chế tài hành chính.Pháp luật về trẻ em quy định về các biện pháp phúc lợi xã hội (phòng ngừa và đáp ứng nhu cầu) cần có dành cho trẻ em và gia đình. Pháp luật bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em gồm toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật( Điều ước quốc tế, Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình, Luật giáo dục, Luật lao động, Luật phòng chống bạo lực gia đình vv) và các văn bản dưới luật quy định về vấn đề loại trừ nguyên nhân và điều kiện của tội phạm để ngăn chặn những hành vi xâm phạm đến thể chất, tinh thần hoặc quyền và lợi ích hơp pháp khác của trẻ em. Đảm bảo sự an toàn toàn vẹn cho chính nạn nhân và gia đình của nạn nhân trước sự đe dọa của tội phạm và nguy tái trở thành nạn nhân của tội phạm. 1.4.2. Các công ước quốc tế liên quan đến bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em Trong Tuyên bố này, vấn đề quyền trẻ em được liệt kê cụ thể theo 5 nhóm quyền như: (1) Trẻ em phải được phát triển một cách bình thường cả về thể chất và tinh thần; (2) Trẻ đói phải được cho ăn, trẻ ốm phải được chữa trị, trẻ lạc hậu phải được giúp đỡ, trẻ phạm tội phải được giáo dục, trẻ mồ côi và lang thang phải có nơi trú ẩn và phải được chăm sóc; (3) Khi xảy ra tai họa, trẻ em là người đầu tiên được cứu trợ; (4) Trong đời sống, trẻ em phải có quyền được kiếm sống và phải được bảo vệ chống lại mọi hình thức bóc lột; (5) Trẻ em phải được nuôi dưỡng theo nhận thức rằng, tài năng của chúng phải phục vụ cho đồng bào mình. Năm 1948, Liên Hợp quốc thông qua Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, trong đó đã khẳng định “Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và quyền tự do, mà không có bất kỳ sự phân biệt nào, như về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, dân tộc hoặc xã hội, tài sản, nơi sinh hoặc bất cứ một thực trạng nào khác”. Trẻ em được thừa nhận là chủ thể được hưởng đầy đủ các quyền con người, được bình đẳng như các thành viên khác trong xã hội khác. Năm 1959, Liên Hợp quốc ra Tuyên bố thứ hai về quyền trẻ em. Tuyên bố năm 1959 kế thừa và phát triển nội dung của Tuyên bố Giơnevơ năm 1924, khẳng định rằng: Trẻ em, do chưa trưởng thành về tinh thần và thể chất nên cần có sự 29
  30. bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, bao gồm sự bảo vệ về pháp lý. Tuyên bố năm 1959 kêu gọi các bậc cha mẹlà những cá nhân, kêu gọi các tổ chức tình nguyện, giới cầm quyền địa phương và chính phủ các nước công nhận những quyền của trẻ em và phấn đấu để thực hiện bằng luật pháp và những biện pháp khác theo 10 nguyên tắc và những nguyên tắc này như là 10 nhóm quyền cơ bản của trẻ em. Năm 1989, bằng sự vận động tích cực của một số quốc gia, Liên Hợp quốc đã thông qua Công ước về quyền trẻ em (CRC).Việt Nam đã phê chuẩn Công ước này. Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, một văn bản quốc tế đề cập toàn diện về quyền trẻ em theo hướng tiến bộ, bình đẳng, toàn diện và mang tính pháp lý cao, làm cơ sở cho việc thúc đẩy chăm sóc và bảo vệ các quyền trẻ em trên thực tế. Một tập hợp các quyền trẻ em trên tất cả các lĩnh vực đã được CRC ghi nhận, bảo đảm cho trẻ em được bảo vệ, chăm sóc một cách có hiệu quả; được phát triển toàn diện cả về thể chất, trí tuệ, tình cảm, đạo đức và xã hội. Không chỉ đề cập đến trẻ em nói chung, CRC còn đề cập đến việc bảo vệ quyền của những nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt (gồm: trẻ em tàn tật, lang thang cơ nhỡ, bị ảnh hưởng của xung đột vũ trang ). Đồng thời, CRC xác định những biện pháp nhằm xóa bỏ những nguy cơ đang đe dọa nghiêm trọng cuộc sống của nhiều trẻ em như bị lạm dụng tình dục, bóc lột sức lao động, ảnh hưởng của chất ma túy và bị buộc phải tham gia vào các cuộc xung đột vũ trang CRC được coi là văn kiện pháp lý quốc tế cơ bản và toàn diện nhất về quyền trẻ em trong thời điểm hiện nay, cũng như bảo vệ nạn nhân của tội phạm. Để bổ sung cho CRC, Liên Hợp quốc còn thông qua hai Nghị định thư bổ sung, đề cập đến việc cấm sử dụng trẻ em trong các cuộc xung đột vũ trang và cấm buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em (Việt Nam đã phê chuẩn 2 Nghị định thư này). Đến nay, đã có hơn 80 văn kiện quốc tế liên quan đến quyền trẻ em được ban hành để bảo vệ lợi ích tốt nhất cho trẻ em như: Tuyên bố thế giới về sự sống còn, bảo vệ và phát triển của trẻ em (1990). Tuyên bố về chống bóc lột tình dục trẻ em vì mục đích thương mại (1996); Chương trình hành động chống việc bóc lột tình dục trẻ em vì mục đích thương mại (1996); Công ước 182 về việc cấm và những hành động tức thời để loại bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất và Khuyến nghị 190 về loại bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ 30
  31. nhất (1999); Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị tội phạm buôn người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em; Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nhận con nuôi quốc tế (1993);Nghị định thư về ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia của Liên Hợp Quốc năm 2000. Như vậy, đến những năm cuối thế kỷ XX, các chương trình về bảo vệ trẻ em của UNICEF mới bắt đầu tiếp cận theo nhóm đối tượng để đáp ứng nhu cầu của các nhóm trẻ em cần sự bảo vệ đặc biệt, trong đó tập trung vào một số nhóm trẻ em bị những hình thức gây tổn hại chính là: bóc lột, ngược đãi, bỏ rơi và bạo lực. Đến năm 2003, việc tiếp cận bảo vệ trẻ em theo nhóm đối tượng được chuyển hướng sang hình thức bảo vệ theo cách tiếp cận hệ thống. Nghĩa là giải quyết đồng bộ các vấn đề liên quan đến tất cả các nhóm trẻ em, trong đó việc xây dựng môi trường an toàn, thân thiện với trẻ em và thúc đẩy “hệ thống bảo vệ trẻ em trước sự xâm hại” được coi là ưu tiên hàng đầu. Tháng 12/2012, Đại hội đồng Liên Hiệp quốc đã đưa ra tuyên bố mới nhất về nguyên tắc và những hướng dẫn về tiếp cận trợ giúp pháp lý trong hệ thống tư pháp hình sự. Trong nguyên tắc 11“ Trợ giúp pháp lý trong quyền lợi tốt nhất của đứa trẻ. Trong tất cả các quyết định về trợ giúp pháp lý ảnh hưởng đến trẻ em thì quyền lợi tốt nhất của trẻ em cần được cân nhắc đầu tiên.Trợ giúp pháp lý cho trẻ em cần được ưu tiên vì quyền lợi tốt nhất của trẻ, có thể tiếp cận, phù hợp với lứa tuổi, có tính kỷ luật, hiệu quả và đáp ứng những nhu cầu pháp lý và xã hội của trẻ em.” Trên tinh thần của tuyên bố thì trợ giúp pháp lý luôn đưa quyền lợi trẻ em lên hàng đầu, thể hiện rõ sự quan trọng của vấn đề bảo vệ trẻ em nói chung và trẻ em là nạn nhân của tội phạm nói riêng. 1.4.3. Pháp luật quốc gia trong bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em Do tùy thuộc vào điều kiện kinh tế và thể chế chính trị khác nhau mà mỗi quốc gia có hệ thống pháp luật khác nhau. Hiểu một cách đơn giản Pháp luật quốc gia là hệ thống các quy phạm pháp lý, thành văn hoặc không thành văn do nhà nước đặt ra hoặc công nhận nhằm điều chỉnh quan hệ pháp lý giữa các chủ thể của pháp luật và nguyên tắc những quan hệ đó phát sinh trong lãnh thổ hoặc quyền 31
  32. tài phán của quốc gia đó. Pháp luật trong nước có hiệu lực trực tiếp trên lãnh thổ của quốc gia ban hành ra nó. Từ đó chúng ta cũng có thể hiểu một cách đơn giản pháp luật quốc gia trong bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em là hệ thống các quy phạm pháp lý, thành văn hoặc không thành văn do nhà nước đặt ra hoặc công nhận nhằm điều chỉnh những vấn đề liên quan đến việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em phát sinh trong lãnh thổ hoặc quyền tài phán của quốc gia đó. Các quy định về việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em phải được quy định trong : Luật hiến pháp do cơ quan cao nhất của nhà nước ban hành, gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ cơ bản về tổ chức quyền lực Nhà nước, về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, chế độ bầu cử, quyền và nghĩa vụ của công dân, về quốc tịch. Đây là ngành luật chủ đạo, cơ bản nhất trong hệ thống pháp luật của một quốc gia, nó điều chỉnh những quan hệ xã hội quan trọng nhất, cơ bản nhất và tất cả những ngành luật khác đề hình thành trên những nguyên tắc của hiến pháp. Trong hệ thống pháp luật của mỗi nước, Luật Hiến pháp giữ vị trí chủ đạo vì nó có đối tượng điều chỉnh đặc biệt và là cơ sở để liên kết các ngành Luật khác. Ví dụ: Luật Hiến pháp quy định cơ cấu tổ chức, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, xác định nguyên tắc của mối quan hệ giữa công dân và nhà nước, đó chính là những nguyên tắc chủ đạo để xây dựng ngành luật hành chính, hay là Luật Hiến pháp xác lập những nguyên tắc cơ bản trong những quan hệ kinh tế, xác lập nền tảng cơ bản cho việc xây dựng ngành luật dân sự, thương mại, kinh tế. Vì giữ vai trò quan trọng, định hướng cho các ngành luật khác, do vậy Luật hiến pháp rất quan trọng trong việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Những quy định trong hiến pháp cần phải có những quy định cụ thể về chủ thể thực hiện việc bảo vệ, định hướng rõ ràng các hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Từ các quy định định hướng trong quy định tại Luật hiến pháp các cơ quan nhà nước sẽ có trách nhiệm phải thực hiện nhiệm vụ của mình và đảm bảo cho công tác bảo vệ nạn nhân của tội phạm một cách toàn diện và nhanh chóng nhất. Luật hình sự: Luật hình sự gồm các quy định xác định những hành vi phạm tội và đề ra những hình phạt riêng biệt. Tùy theo loại tội và thẩm quyền, sự 32
  33. trừng phạt về mặt hình sự bao gồm tử hình, giam giữ, bị quản thúc hoặc các hình thức phạt khác. Những tội cổ xưa như sát nhân (giết người), phản quốc.v.v. luật hình sự nơi nào cũng có. Nhưng cũng có nhiều tội ở nước này đưa vào luật hình sự mà nước khác thì không. Ngay cả trong các bộ luật đôi khi cũng không rõ ràng về ranh giới giữa dân sự và hình sự.Luật hình sự thường được tiến hành khởi tố bởi chính quyền, không giống như luật dân sự thường được tiến hành khởi tố bởi người dân hay các pháp nhân khác. Luật hình sự với đặc tính là quy định nhữngh ành vi nào là hành vi phạm tội và các hình thức xử phạt đối với tội phạm do vậy đây là bộ Luật liên quan trực tiếp đến việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Các quy định trong bộ luật này cần quy định rõ ràng, cụ thể những hành vi nào là hành vi phạm tội đối với trẻ em và đưa ra những hình phạt thích đáng cho những hành vi đó để bảo quyền và lợi ích chính đáng của trẻ em là nạn nhân của tội phạm và phòng ngừa, răn đe giáo dục công dân của quốc gia. Luật tổ chức tòa án: Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nhà nước, Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Trong luật tổ chức tòa án nhân dân quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân; về Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh khác trong Tòa án nhân dân; về bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án xét xử nghiêm minh những hành vi xâm hại đối với trẻ em bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nạn nhân của tội phạm là trẻ em, ngoài ra góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác. Luật công an nhân dân: Luật này quy định về nguyên tắc tổ chức, hoạt động; vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; bảo đảm điều kiện hoạt động, chế độ, chính sách đối với Công an nhân dân; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt trong hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Bằng những đặc điểm và chức năng riêng 33
  34. của mình ngay sau khi phát hiện hoặc nhận được tin báo về hành vi phạm tội đối với trẻ em, cơ quan công an phải ngay lập tức có các phương án, biện pháp kịp thời để bảo tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và các quyền lợi ích hợp pháp khác của trẻ em. Bộ luật tố tụng hình sự: Bộ luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án hình sự; nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân; hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự. Theo đó đây là văn bản quy phạm pháp luật thiết thực nhất trong việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Bộ luật quy định cụ thể các chủ thể tiến hành hoạt động tiếp nhận tin báo về, khởi tố, điều tra, truy tố hành vi phạm tội đối với trẻ em và dựa vào đó là cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm của cơ quan nhà nước nếu họ chậm chễ hoặc sao nhãng dẫn đến hậu quả nghiêm trọng hơn cho nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Ngoài những văn bản pháp lý nêu trên còn rất nhiều văn bản pháp lý khác của quốc gia liên quan đến vấn đề bảo vệ nạn nhân của tội phạm như: Luật phòng chống bạo lực gia đình, luật giáo dục, luật lao động và các pháp quy dưới luật có liên quan đến hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. 1.5. Vai trò của pháp luật về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em Để quản lý toàn tầng lớp, nhà nước dùng nhiều dụng cụ, nhiều biện pháp, nhưng luật pháp là công cụ quan yếu nhất.Với những đặc điểm riêng của mình, luật pháp có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của nhà nước một cách nhanh nhất, đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mô rộng lớn nhất.Cũng nhờ có luật pháp, quốc gia có cơ sở để phát huy quyền lực của mình và rà, kiểm soát các hoạt động của các tổ chức, các cơ quan, các viên chức nhà nước và mọi công dân. Pháp luật là công cụ bảo vệ các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Khi có các hành vi vi phạm pháp luật xảy ra, xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ áp dụng các biện pháp 34
  35. cưỡng chế được quy định trong bộ phận chế tài của các quy phạm pháp luật đối với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Chẳng hạn như hành vi xâm phạm tính mạng sức khoẻ con người bị xử lý theo Luật hình sự, hành vi gây thiệt hại tài sản buộc phải bồi thường theo Luật dân sự. Pháp luật mang tính giai cấp, tính cưỡng chế thể hiện quyền lực của nhà nước bằng hình thức trừng trị ( xử phạt ). Sự cưỡng chế của pháp luật không phải đơn thuần nhằm mục đích trừng trị mà trước hết là răn đe, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật, giáo dục người vi phạm. Sự cưỡng chế ở đây được thực hiện trên cơ sở pháp luật, trong khuôn khổ pháp luật, do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành. Nhà nước không thừa nhận các hành vi bạo lực trái với pháp luật trong việc xử lý các vi phạm pháp luật. Ngoài vai trò bảo vệ, răn đe đối với những người đang hoặc sẽ có ý định thực hiện hành vi xâm hại trẻ em và trừng trị những chủ thể đã thực hiện hành vi xâm hại đối với trẻ em thì pháp luật còn giáo dục nhận thức được thực hiện thông qua sự tác động của pháp luật vào ý thức của con người, làm cho con người xử sự phù hợp với cách xử sự được quy định trong các quy phạm pháp luật. Việc giáo dục có thể được thực hiện thông qua tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, có thể thông qua việc xử lý những cá nhân, tổ chức vi phạm (phạt những hành vi vi phạm giao thông, xét xử những người phạm tội hình sự ) - Pháp luật về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em tạo cơ sở pháp lý cho toàn bộ công tác này được triển khai trong thực tiễn. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội, được nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật là công cụ để thực hiện quyền lực nhà nước và là cơ sở pháp lý cho đời sống xã hội có nhà nước. Từ khái niệm Pháp luật bảo vệ nạn nhân của gồm toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản dưới luật quy định về vấn đề loại trừ nguyên nhân và điều kiện của tội phạm để ngăn chặn những hành vi xâm phạm đến thể chất, tinh thần hoặc quyền và lợi ích hơp pháp khác của trẻ em. Đảm bảo sự an toàn toàn vẹn cho chính nạn nhân và gia đình của nạn nhân trước sự đe dọa của tội phạm 35
  36. và nguy tái trở thành nạn nhân của tội phạm, dựa vào các quy định của pháp luật mà những chủ thể được giao trách nhiệm bảo vệ nạn nhân cảu tội phạm là trẻ em thực hiện đúng và nghiêm túc các hoạt động bảo vệ này. Thực tế cho thấy rằng nếu không có quy định của Bộ Luật hình sự quy định hành vi nào là hành vi phạm tội đối với trẻ em thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc các cơ quan, tổ chức và cá nhân không có căn cứ pháp lí nào để yêu cầu, cưỡng chế, ngăn chặn hay xử lí hành vi vi phạm đó. Các quy định không chỉ nằm trên giấy mà các chủ thể được giao quyền phải thực tế hóa các quy định vào đời sống hàng ngày. Nếu không có quy định về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em thì ai sẽ là người đứng lên bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em và bảo vệ như thế nào. - Pháp luật về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em góp phần xác định rõ những đối tượng, trường hợp thuộc phạm vi điều chỉnh của nó, xác định tính chất, mức độ quan trọng của các quan hệ xã hội tương ứng cần được bảo vệ . Những quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật đã chỉ ra những đối tượng nào là chủ thể vi phạm pháp luật, ví dụ như tội mua bán trẻ em thì chủ thể vi phạm là chủ thể lấy trẻ em làm hàng hóa với mục đích trao đổi. Hoặc đối với trường hợp nạn nhân là trẻ em bị hiếp dâm pháp luật về bảo vệ nạn nhân của tội phạm quy định như thế nào về chủ thể thực hiện hành vi vi phạm và các biện pháp bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em trong trường hợp này ( xâm hại tình dục khiến nạn nhân của tội phạm là trẻ em bị ảnh hưởng về cả thể chất và tinh thần). Dựa vào các quy định về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em mà các cơ quan nhà nước, các chủ thể khác trong xã hội hiểu được tầm quan trọng và vai trò của mình trong các hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em, từ đó thúc đẩy sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, nâng cao sự tự giác của các cá nhân trong việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. - Pháp luật về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em góp phần tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ quyền, lợi ích của trẻ em - tương lai của đất nước - đối tượng cần phải được sự chăm sóc, bảo vệ của mọi xã hội. 36
  37. Ai cũng biết trẻ em là tương lai của đất nước. Vậy thử hỏi, tương lai đất nước ta sẽ đi về đâu khi mà cứ hàng ngày, hàng giờ lại có thêm số trẻ em là nạn nhân của tội phạm? Nhiều nghiên cứu cho thấy, những hành vi xâm hại ảnh hưởng rất lớn tới việc hình thành và phát triển nhân cách ở trẻ. Sống trong môi trường không lành mạnh khiến nhiều trẻ có suy nghĩ lệch lạc, mặc cảm, không tự tin vào bản thân, nhìn tương lai bằng đôi mắt màu xám. Những đứa bé không tôn trọng người khác cũng như không tôn trọng bản thân mình, rất dễ đánh mất tương lai. Một thực tế cho thấy, tỷ lệ dân số bị thiểu năng trí tuệ và thể lực chiếm tới khoảng 1,5 % và con số này vẫn tiếp tục tăng lên. Thế hệ sau sẽ thay thế cho thế hệ đi trước và sự thay thế đó tạo ra sự phát triển hay tụt lùi đi trong tương lai hoàn toàn phụ thuộc vào thế hệ trẻ của hiện tại. Trẻ em là những mầm non tương lai của đất nước, con người không thể cứ thế sống và làm việc mãi mãi. Muốn một đất nước giàu mạnh, văn minh và tiến bộ thì nhà nước cần phải có những hoạt động để phát triển toàn diện cả trí tuệ và đạo đức cho tầng lớp trẻ và các quy định để bảo đảm những hoạt động đó được thực hiện một cách tối ưu nhất. - Pháp luật về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em góp phần xây dựng cơ chế cho việc nhận diện, bảo vệ và truy cứu trách nhiệm pháp lý với các trường hợp phạm tội có nạn nhân là trẻ em. Dựa vào các quy định về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em giúp chính bản thân các em, gia đình nạn nhân và cộng đồng xã hội hiểu biết và đề cao quyền của trẻ em. Tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm sự phát triển toàn vẹn của trẻ em bằng việc truy cứu trách nhiệm hình sự các hành vi vi phạm và góp phần định hướng cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng các biện pháp bảo vệ phù hợp. Chỉ những hành vi vi phạm được quy định tại Bộ luật hình sự mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, những hành vi vi phạm khác không được quy định tại Bộ luật hình sự thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Không ai bị cho là có tội cho đến khi có bản án kết luận của tòa án. Như vậy những hành vi được coi là phạm tội đối với trẻ em là những hành vi phạm đến các quyền của trẻ em được quy định tại Bộ luật hình sự thì đó mới là hành vi phạm tội đối với trẻ em, từ đó 37
  38. làm cơ sở để truy cứu tránh nhiệm hình sự. Nếu không có quy định cấm bóc lột sức lao động của trẻ em thì chắc chắn rằng rất nhiều trẻ em trong xã hội sẽ bị lợi dụng sức lao động từ những người sử dụng lao động. Hay không có những quy định về tội buôn bán trẻ em thì trẻ em sẽ là một mặt hàng đắt giá. - Pháp luật về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền, với định nghĩa căn bản nhất là không có ai ở trên luật hay ngoài luật, mà mọi người phải tuân theo pháp luật. Nhà nước pháp quyền là vị thế pháp lý hay một hệ thống thể chế, nơi mỗi người đều phải tuân thủ và tôn trọng luật pháp, từ cá nhân cho tới cơ quan công quyền. Nhà nước pháp quyền có liên hệ chặt chẽ với sự tôn trọng trật tự thứ bậc của các quy phạm, tôn trọng sự phân chia quyền lực và tôn trọng các quyền căn bản. Như vậy trong hệ thống pháp luật về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em có quy định rõ ràng về quyền lợi của trẻ em, các trường hợp vi phạm pháp luật bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em, hậu quả pháp lí mà hành vi đó gánh chịu. Việc tuân thủ theo các quy định của pháp luật bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em là việc mà mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội phải tôn trọng. Không một cá nhân hay tổ chức nào được tự cho mình cái quyền được xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em. Nếu khi đã thực hiện hành vi phạm tội đối với trẻ em nhất định họ sẽ phải gánh chịu hậu quả pháp lí xứng đáng từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Có lẽ ứng dụng quan trọng nhất của pháp quyền là nguyên tắc rằng chính quyền chỉ thực thi quyền hành một cách hợp pháp theo các luật được soạn thảo ra và phát hành rộng rãi. Luật bảo vệ nạn nhân của tội phạm được quy định và thực thi theo đúng các bước được gọi là thủ tục pháp lý. Nguyên tắc này nhằm mục đích ngăn ngừa sự độc đoán của cá nhân hay của cơ quan quyền lwujc nhà nước. - Pháp luật về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em góp phần hiện thực hóa các cam kết của quốc gia trong việc bảo vệ nhân quyền và thực hiện các điều ước quốc tế liên quan. Bảo vệ trẻ em không phải là vấn đề riêng của một quốc gia nào hay của một tổ chứ, cá nhân nào mà đây là vấn đề của toàn xã hội, toàn thế giới. Nhận thức được 38
  39. tầm quan trọng của trẻ em trong việc phát triển xã hội Công ước Liên Hiệp quốc về quyền trẻ em đã được ra đời và có hiệu lực vào năm 1990, cho đến thời điểm hiện nay đã có 196 nước tham gia công ước này. Ngoài Công ước về quyền trẻ em còn có nhiều Điều ước Quốc tế khác về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em như Công ước ASEN về phòng chống mua bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, Công ước chống tội phạm xuyên quốc gia, Các quốc gia khi đã tham gia các Điều ước quốc tế về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em thì cần phải xây dựng các quy định để hiện thực hóa các cam kết trong điều ước có liên quan đến bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Thông qua việc xây dựng pháp luật bảo vệ nạn nhân của tội phạm này góp phần hiện thực hóa các cam kết mà quốc gia tham gia trong bảo vệ nhân quyền và giúp quốc gia hòa nhập nhanh chóng với xu hướng phát triển của Thế giới. - Pháp luật về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em góp phần giáo dục, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho người dân, xây dựng văn hóa pháp lý trong bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Thông qua pháp luật bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em các cơ quan, tổ chức và cá nhân nhận thức được bản chất và hậu quả của việc xâm hại hại trẻ em. Thông qua việc xử lí tội phạm bằng xét xử và hình phạt nhằm bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em, ngăn chặn phòng ngừa tội phạm, răm đe giáo dục nhân dân chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Tuyên truyền, giáo dục, động viên, khuyến khích mọi các nhân, tổ chức trong xã hội tham gia nhiệt tình. Mỗi cá nhân trong xã hội phải xác định rõ nhiệm vụ bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em không phải là trách nhiệm của mỗi cơ bảo vệ pháp luật mà luôn luôn cần sự tham gia của cộng tác tích cực của mọi cá nhân trong xã hội. Khi những hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm được hấp hành nghiêm chỉnh và có hiệu quả trong một thời gian nhất định thì sau đó văn hóa pháp lý trong việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em cũng được xây dựng. Xã hội sẽ có những hành vi đúng mực và tôn trọng quyền trẻ em. 39
  40. 1.6. Pháp luật một số quốc gia trên thế giới về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em Nghị quyết ECOSOC 2005/20 Hướng dẫn về công lý trong các vấn đề liên quan đến nạn nhân trẻ em và nhân chứng của tội phạm đã đưa ra các nguyên tắc các các quyền được bảo vệ của nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Trong văn bản này có quy định “Nạn nhân và nhân chứng trẻ em cần được chăm sóc và bảo vệ trong suốt quá trình công lý, có tính đến tình hình cá nhân của họ và nhu cầu tức thời, tuổi tác, giới tính, khuyết tật và mức độ trưởng thành và hoàn toàn tôn trọng thể chất, tinh thần và đạo đức của họ chính trực.Mỗi đứa trẻ nên được đối xử như một cá nhân với mình nhu cầu cá nhân, mong muốn và cảm xúc.Can thiệp vào cuộc sống riêng tư của trẻ nên được giới hạn ở tối thiểu cần thiết cùng lúc với tiêu chuẩn cao về bằng chứng bộ sưu tập được duy trì để đảm bảo kết quả công bằng và công bằng của quá trình công lý. Để tránh khó khăn hơn cho trẻ, các cuộc phỏng vấn, kiểm tra và các hình thức điều tra khác nên được thực hiện bởi đào tạo các chuyên gia tiến hành trong một nhạy cảm, tôn trọng và cách kỹ lưỡng.Tất cả các tương tác được mô tả trong các nguyên tắc này phải được tiến hành theo cách nhạy cảm với trẻ em trong một môi trường phù hợp đáp ứng nhu cầu đặc biệt của trẻ, theo trẻ khả năng, tuổi tác, sự trưởng thành về trí tuệ và năng lực phát triển. Họ nên cũng diễn ra trong một ngôn ngữ mà đứa trẻ sử dụng và hiểu.” Đối với các nước khối EU thông qua Chỉ thị 2012/29 / EU vào ngày 25 tháng 10 năm 2012, trong đó thiết lập tối thiểu các tiêu chuẩn về quyền, hỗ trợ và bảo vệ nạn nhân của tội phạm để đảm bảo rằng con trai trở thành nạn nhân của tội phạm được công nhận, đối xử tôn trọng và tiếp nhận bảo vệ, hỗ trợ và tiếp cận công lý. Chỉ thị tăng cường quyền của nạn nhân và các thành viên gia đình của họ để thông tin, hỗ trợ và bảo vệ và thủ tục của nạn nhân quyền lợi trong tố tụng hình sự. Chỉ thị cũng yêu cầu các quốc gia thành viên đảm bảo đào tạo phù hợp về nhu cầu của nạn nhân cho các quan chức có khả năng tiếp xúc với nạn nhân và khuyến khích hợp tác giữa các quốc gia thành viên và điều phối các dịch vụ quốc gia của hành động của họ đối với quyền của nạn nhân. Các quốc gia thành viên EU được yêu cầu thực hiện các quy định của Chỉ thị vào luật quốc gia của họ vào ngày 16 tháng 11 năm 2015. 40
  41. Nước Pháp: Hệ thống của Pháp dựa trên một mạng lưới rộng khắp các tổ chức chuyên hỗ trợ trẻ em là nạn nhân của tội phạm. Từ năm 2000, Thanh tra viên của Trẻ em khuyến khích và đảm bảo việc bảo vệ trẻ vị thành niên.Năm 2004, cơ quan truyền thông quốc gia về trẻ em gặp nguy hiểm đã được thành lập và nhằm mục đích ngăn ngừa và xác định các trường hợp bỏ rơi và lạm dụng trẻ em.Các hoạt động đã được thực hiện, chẳng hạn như xuất bản các hướng dẫn thực hành tốt. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, Bộ Tư pháp và Bộ Giáo dục đã công bốmột hướng dẫn chính thức được chia sẻ có chứa các thực hành tốt để áp dụng với sự có mặt của nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Hướng dẫn đưa ra lời khuyên về cách hành động để cải thiện việc khắc phục và vạch ra các giai đoạn can thiệp khác nhau nếu trẻ là nạn nhân của tội phạm. Qua hệ thống bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em của Pháp ta có thể thấy một ưu điểm ở đây là quốc gia này đã đề cao sự tiếp nhận thông tin các hành vi vi phạm đối với trẻ em trên cả nước bằng hệ thống các tổ chức chuyên trách hỗ trợ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Thông qua hệ thống các tổ chức này khi trẻ em bị xâm hại sẽ ngay lập tức có chủ thể này đứng ra bảo vệ một cách kịp thời và nhanh chóng, tránh tình trạng “ cha chúng không ai khóc”, ỷ lại giữa các cơ quan. Hệ thống các tổ chức này được thành lập một cách rộng rãi khắp quốc gia thì việc nhận tin báo về nạn nhân của tội phạm sẽ nhanh chóng hơn từ đó nạn nhân của tội phạm được bảo vệ kịp thời tránh được các hậu quả xấu có thể xảy ra. Khi phát hiện hoặc nhận được tin báo về hành vi xâm hại là trẻ em tổ chức chuyên hỗ trọ trẻ em là nạn nhân của tội phạm sẽ phản ứng nhanh chóng, đưa ra các biện pháp kịp thời để bảo vệ nạn nhân ngay tại chỗ và báo với cơ quan nhà nhà nước có thẩm quyền để khởi tố, điều tra và xét xử. Bên cạnh việc thành lập hệ thống tiếp nhận thông tin về tội phạm trẻ em quốc gì này còn đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em bằng kênh truyền thông riêng về vấn đề bảo vệ trẻ em bị bạo hành. Thông qua kênh truyền thông này nhà nước có thể tuyên truyền giáo dục nhân dân nhận thức đúng đắn về pháp luật bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em và tầm quan trọng của việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em đối với mỗi cá nhân và toàn xã hội. 41
  42. Nước Đức: Đức đã ban hành Luật trợ giúp cho nạn nhân của hành vi bạo lực, Luật bảo vệ nhân chứng , thành lập một hệ thống thực hiện các hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm và hệ thống các tổ chức trợ giúp pháp lý một cách rất hiệu quả. Nước Đức đã ban hành Luật trợ giúp nạn nhân của hành vi bạo lực riêng biệt, tách ra khỏi luật tố tụng hình sự nhằm đảm bảo cơ sở pháp lý riêng biệt cho việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm bị bạo lực. Trên thực tế như chúng ta đã biết trẻ em bị bạo lực rất nhiều, các em bị đánh đập tại trường học, tại gia đình và tại nơi lao động. Căn cứ vào các quy định tại luật này, cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ bảo vệ, trợ giúp nạn nhân cảu hành vi bạo lực sẽ có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ được giao tránh tình trạng ỷ lại vào cơ quan nhà nước khác. Ngoài ra nhà làm luật ở Đức đã ban hành Luật bảo vệ nhân chứng. Trong nhiều trường hợp trên thực tế người dân trực tiếp chứng kiến những hành vi phạm tội đối với trẻ em nhưng do tâm lí sợ bị trả thủ họ không dám đứng lên để làm nhân chứng tại tòa hay không dám thông báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhất là trong những vụ án mà chủ thể thực hiện hành vi phạm tội đối với trẻ em là người có chức có quyền hoặc du côn, côn đồ. Thông qua pháp luật bảo vệ nạn nhân của tội phạm tại Đức ta thấy được tầm quan trọng của việc ban hành Luật bảo vệ nạn nhân của tội phạm và đồng thời quan tâm đến việc bảo vệ nhân chứng, người báo tin giúp hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em được bảo đảm hơn.Thông qua các quy định trong văn bản pháp luật để áp dụng vào các hoạt động thực. Và cũng dựa vào quy định của văn bản này để xem xét xử lý những hành vi vi phạm trong hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là tre rem một cách cụ thể tránh tình trạng quy định chung chung và xử lý không thỏa đáng. Bên cạnh đó quốc gia này đã xây dựng một hệ thống các tổ chức bảo vệ nạn nhân của tội phạm và các tổ chức trợ giúp pháp lí cho nạn nhân của tội phạm một cách rộng rãi đáp ứng được tối ưu nhu cầu bảo vệ nhanh chóng của nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Mạng lưới Opferfobel cung cấp những trọ giúp pháp lí hữu hiệu cho nạn nhân của tội phạm, 42
  43. CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ NẠN NHÂN CỦA TỘI PHẠM LÀ TRẺ EM Ở VIỆT NAM 2.1. Hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Các văn bản quy định về bảo vê nạn nhân của tội phạm là trẻ em cần phải vừa đảm bảo các nguyên tắc bảo vệ nạn nhân của tội phạm theo các văn bản quốc tế mà trước hết là Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về những nguyên tắc cơ bản trong tư pháp đối với các nạn nhân của tội phạm và nạn nhân của sự lạm dụng bạo lực. Tiếp theo là bảo đảm quyền lợi của trẻ em theo quy định tại Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (20-11-1989). Đó là những văn bản pháp lí quan trọng xác định những nguyên tắc cơ bản để các quốc gia cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật nước mình. Việt Nam đã có một số văn bản quy định về vấn đề liên quán đến bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em như: Bộ luật hình sự 2015 Luật tố tụng hình sự 2015 Hành chính Hôn nhân gia đình 2014 Luật nuôi con nuôi 2010 Luật trẻ em 2016 Bộ luật lao động 2012 Nghị định 56/2017/NĐ-CP hướng dẫn Luật trẻ em Nghị định 19/2011/NĐ-CP hướng dẫn Luật Nuôi con nuôi Luật hiến pháp 2013 Nghị định 144/2013/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính về bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo vệ, chăm sóc trẻ em Luật trợ giúp pháp lý 2006 Luật chống bạo lực gia đình 2007 Như chúng ta có thể thấy Việt Nam có rất nhiều văn bản quy định về quyền trẻ em và bảo vệ quyền của trẻ em, tuy nhiên các văn bản chỉ dừng lại ở một số quy định về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em nhưng chưa đưa ra được cơ chế 43
  44. thực hiện hiệu quả việc bảo vệ đó.Để làm cơ sở cho việc xây dựng cơ chế hữu hiệu bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em cần phải có văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, cụ thể và toàn diện các vấn đề liên quan đến hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Việt Nam vẫn chưa có Luật bảo vệ, trợ giúp nạn nhân của tội phạm để làm cơ sở cho việc xây dựng cơ chế hữu hiệu để bảo vệ và trợ giúp nạn nhân của tội phạm là trẻ em. 2.2. Nội dung bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em trong pháp luật Việt Nam Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em, vào ngày 20/2/1990. Trong nhiều năm qua, Việt Nam không ngừng mở rộng các quan hệ hợp tác quốc tế với xu hướng hội nhập, đa dạng, đa phương, chia sẻ và phát triển. Trẻ em là một công dân, và Điều 71 Hiến pháp 1992 đã ghi nhận: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân.” Từ đó, có thể thấy, bất cứ hành vi đánh đập, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm tới tính mạng mang tính bạo lực gia đình của các thành viên gia đình nói chung và cha mẹ nói riêng đối với trẻ em đều là vi phạm pháp luật. Đây cũng là một nội dung được thể hiện rõ trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014: “ Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con, ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên; không được xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội” (khoản 4, Điều 69). Luật trẻ em 2016 quy định trẻ em có Trẻ em có quyền được bảo vệ tính mạng, được bảo đảm tốt nhất các điều kiện sống và phát triển: Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị xâm hại tình dục; Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị bóc lột sức lao động; không phải lao động trước tuổi, quá thời gian hoặc làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo quy định của pháp luật; không bị bố trí công việc hoặc nơi làm việc có ảnh hưởng xấu đến nhân cách và sự phát triển toàn diện của trẻ em; Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc làm tổn hại đến sự phát triển toàn diện của trẻ em; Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi 44
  45. hình thức để không bị mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt; Trẻ em có quyền được bảo vệ khỏi mọi hình thức sử dụng, sản xuất, vận chuyển, mua, bán, tàng trữ trái phép chất ma túy; Trẻ em có quyền được bảo vệ trong quá trình tố tụng và xử lý vi phạm hành chính; bảo đảm quyền được bào chữa và tự bào chữa, được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp; được trợ giúp pháp lý, được trình bày ý kiến, không bị tước quyền tự do trái pháp luật; không bị tra tấn, truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể, gây áp lực về tâm lý và các hình thức xâm hại khác. Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ trách khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm, nhưng bị tội phạm xâm hại đến và gây nên hoặc đe dọa thực tế gây nên hậu quả đáng kể nhất định. Trong cấu thành của tội phạm xâm hại tình dục thì khách thể bị xâm hại ở đây là con người , mà cụ thể là trẻ em. Đặc biệt, để thể hiện sự nghiêm khắc, răn đe và trừng trị đối với những hành vi bạo lực gia đình có hậu quả nghiêm trọng, Bộ luật hình sự 2015 đã đưa ra rất nhiều các quy định cụ thể. Ví dụ, với Tội hành hạ người khác (Điều 140), nếu như hành vi đối xử tàn ác, hành hạ người khác lệ thuộc mình song lại là trẻ em thì đây là tình tiết tăng nặng và sẽ chuyển khung hình phạt từ 3 tháng tù giam đến 2 năm lên thành 1 năm đến 3 năm. hay như Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 141), nếu xét thấy có tính chất loạn luân hay làm cho nạn nhân có thai thì đây là tình tiết tăng nặng và chuyển khung hình phạt từ khung 1 lên khung 2 với thời gian là 12 năm đến 20 năm tù. Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi bị phạt tù từ 7 – 15 năm và khi xét thấy có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như hiếp dâm người dưới 10 tuổi, dây rồi loạn tâm thần và hành vi vủa nạn nhân từ 46% trở lên sẽ bị phạt tù từ 20 năm, chung thân hoặc tử hình. ( điều 142) Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi( điều 144), người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đang ở trong tình trạng lệ thuộc mình hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân khi có các tình tiết tăng nặng nhưNhiều người cưỡng dâm một người; Gây thương tích hoặc gây tổn 45
  46. hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. Đấy là một vài ví dụ điều luật quy định trong bộ luật Hình sự 2015 về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Ngoài ra trong bộ luật này cũng quy định thêm các tình tiết tăng nặng đối với của thể thực hiện hành vi phạm tội đối với trẻ em. Theo quy định của pháp luật, trẻ em cũng là chủ thể được hưởng tài sản từ người thân thông qua thừa kế hoặc tặng cho. Tài sản và các lợi ích kinh tế của trẻ em là cơ sở, nền tảng để họ chống lại bạo lực gia đình. Khi không phụ thuộc vào kinh tế hay ít nhất có sự bảm đảo về kinh tế nhất định và không quá lệ thuộc thì trẻ em còn có thể đứng lên chống lại bạo lực gia đình. Quyền sở hữu tài sản được Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 ghi rõ: “Trẻ em có quyền có tài sản, quyền thừa kế theo quy định của pháp luật” (Điều 19). Cha mẹ, người giám hộ hay các cơ quan tổ chức hữu quan có trách nhiệm phải giữ gìn, quản lý tài sản của trẻ em và giao lại cho trẻ em theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em cũng như phòng chống bạo lực gia đình đối với trẻ em một cách tốt nhất, pháp luật nước ta còn đưa ra các văn bản quy định các biện pháp xử lý đối với những hành vi bạo lực gia đình nói chung ấy trên cở sở ban hành các văn bản như Luật Phòng chống bạo lực gia đình 207, Nghị định của Chính phủ số 110 NĐ – CP ngày 10/12/2009 về quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình và một số các văn bản khác. Luật tố tụng hình sự theo điều 1, 2 của Bộ luật tố tụng hình sự ( BLTTHS) 2015 định trình tự, thủ tục tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án hình sự; nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân; hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự. BLTTHS có nhiệm vụ bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo 46
  47. vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Ngoài tại điều 25 của bộ luật này quy định về việc xét xử kịp thời, công minh, công bằng. Trong điều luật này quy định “Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, bảo đảm công bằng. Tòa án xét xử công khai, mọi người đều có quyền tham dự phiên tòa, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người dưới 18 tuổi hoặc để giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì Tòa án có thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai.” Đây là quy định thể hiện sự giám sát của nhân dân trong hoạt động xét xử của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tránh tình trạng lạm quyền của cơ quan ( cá nhân) có thẩm quyền, ngoài ra có quy định các trường hợp được xét xử kín đối với người dưới 18 tuổi để giữ bí mật đời tư. Đây là một hình thức bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em, nhất là các bé nữ bị xâm hại tình dục. Các quy định này cũng đã góp phần vào việc bảo vệ quyền lợi của trẻ em một cách hiệu quả . Đây là văn bản pháp lý thiệt thực nhất quy định về chủ thể thực hiện, nhiệm vụ quyền hạn của các chủ thể thực hiện các hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm. Trong bộ luật này đã quy định các hoạt động phải làm sau khi nhận tin báo về tội phạm của chủ thể có nhiệm vụ được giao. Từ đó ngay sau khi nhận được tố giác của cá nhân; Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân;Tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng; Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước về hành vi phạm tội với trẻ em thì cơ quan tiếp nhận tin báo này căn cứ vào đó để khởi tố vụ án hình sự và trong bộ luật cũng quy định về trách nhiệm tiếp nhận và thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Đồng thời bộ luật này đã quy định thời hạn, thủ tục giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm. Theo điều 147 của bộ luật này thì “Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải kiểm tra, xác minh và ra một trong các quyết định: Quyết định khởi tố vụ án hình sự; Quyết định không khởi tố vụ án hình sự;”. Theo đó khi nhận được tin báo, tố giác về tội phạm thì cơ 47
  48. quan nhà nước có thẩm quyền phải có các hoạt động xem xét hành vi vi phạm, mức độ đã đủ để cấu thành tội phạm hay chưa và trong vòng 20 ngày phải có ra quyết định Khởi tố vụ án hay không. Đây là một quy tắc để nhằm tăng cường, thúc đẩy sự tự giác của cơ quan có thẩm quyền, nếu không có quy định như vậy thì sau khi nhận được tin báo, tố giác về tội phạm họ sẽ không chủ động giải quyết vì để lâu cũng không sao và điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Để bảo đảm an toàn cho bị hại, BLTTHS 2015 quy định thêm quyền rất thiết thực cho bị hại là họ được yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ cho họ và người thân của họ khi họ báo cáo về nguy cơ họ bị xâm hại hoặc có căn cứ cụ thể về những hành vi đe dọa họ nhằm gây sức ép hoặc cản trở quyền tố tụng của họ. Như vậy các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chịu trách nhiệm thực hiện những biện pháp hợp lý để giải quyết những mối lo ngại về an ninh cho các bị hại, xác định tính chất và phạm vi của các biện pháp, đánh giá mức độ nguy hiểm và đưa ra những lựa chọn hợp lý để giải quyết các mối đe dọa với nguồn lực sẵn có để đáp ứng quyền được bảo vệ của bị hại. Liên quan đến bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em, pháp luật đặt ra quy định với chủ thể bảo vệ nạn nhân của tội phạm trong Luật công an nhân dân. Theo điều 15 của Luật công an nhân dân quy định nhiệm vụ của cơ quan công an là “Chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, loại trừ nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia; bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh trong các lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, kinh tế, quốc phòng, đối ngoại, thông tin, xã hội, môi trường và các lợi ích khác của quốc gia; bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.” Cơ quan công an phải có nhiệm vụ chủ động bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm và các quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân. Bảo vệ Tổ Quốc và nhân dân là nhiệm vụ quan trọng nhất của khối Công An nhân dân, khi một người dân bị xâm hại hoặc đe dọa bị xâm hại về quyền và lợi ích hợp pháp thì cơ quan này đại diện 48
  49. cho cơ quan nhà nước được phép thực hiện các biện pháp cưỡng chế tại chỗ nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và các quyền lợi ích hợp pháp khác cho công dân. Như vậy khi trẻ em bị xâm hại bởi các hành vi vi phạm pháp luật cơ quan này phải có các hoạt động, phương án bảo vệ nạn nhân một cách kịp thời, nhanh chóng và sử dụng các biện pháp khẩn trương ngay tại chỗ để bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ một cách tốt nhất để tránh được những hậu quả xấu xảy ra. Gia đình là nơi các em sinh sống, ở đó trẻ em có quyền được nuôi dưỡng, được yêu thương chăm sóc từ thành viên trong gia đình. Nhưng thực tế cho thấy rằng hiện nay tại Việt Nam tình trạng bạo lực trẻ em xảy ra rất nhiều. Bạo lực gia đình không những chỉ nhằm vào phụ nữ mà đối tượng của bạo lực gia đình còn có cả trẻ em “những chủ nhân tương lai của đất nước”. Trẻ em mà sống trong cảnh bạo lực gia đình và chịu ảnh hưởng của bạo lực gia đình sẽ không thể phát triển hài hoà về thể chất và nhân cách. Nhận thức được hậu quả đó, nhà nước đã ban hành Luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2007 gồm các quy định về phòng ngừa bạo lực gia đình, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình và xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình. Tại chương 3 của luật này có quy định về việc bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân của bạo lực gia đình. Điều 19 quy định Các biện pháp ngăn chặn, bảo vệ được áp dụng kịp thời để bảo vệ nạn nhân bạo lực gia đình, chấm dứt hành vi bạo lực gia đình, giảm thiểu hậu quả do hành vi bạo lực gây ra, bao gồm:Buộc chấm dứt ngay hành vi bạo lực gia đình; Cấp cứu nạn nhân bạo lực gia đình; Các biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc pháp luật về tố tụng hình sự đối với người có hành vi bạo lực gia đình; Cấm người có hành vi bạo lực gia đình đến gần nạn nhân; sử dụng điện thoại hoặc các phương tiện thông tin khác để có hành vi bạo lực với nạn nhân (sau đây gọi là biện pháp cấm tiếp xúc). Người có mặt tại nơi xảy ra bạo lực gia đình tuỳ theo tính chất, mức độ của hành vi bạo lực và khả năng của mình có trách nhiệm thực hiện các biện pháp ngăn chặn hành vi bạo lực và cấp cứu nạn nhân. Qua sự tổng hợp của Báo dân chí cho biết “ theo Báo cáo chuyên đề can thiệp, hỗ trợ trẻ em bị bạo lực thông qua đường dây tư vấn và hỗ 49
  50. trợ trẻ em 1800 1567 của Cục Trẻ em - Bộ LĐ-TB&XH, giai đoạn từ năm 2012 đến tháng 5/2017, trong tổng số 698 ca trẻ em bị bạo lực có tới 91,7% bị bạo lực thân thể; trẻ em từ 0-10 tuổi chịu bạo lực nhiều nhất (chiếm 56,9%); tỉ lệ trẻ em bị bạo lực trong gia đình là cao nhất (63,2%), sau đó đến trường học là 20,1%.” , như vậy chúng ta có thể thấy con số nạn nhân là trẻ em của hành vi bạo lực gia đình rất cao. Thông qua các quy định tại Luật phòng chống bạo lực gia đình mỗi người dân trong xã hội đề cao việc bảo vệ nạn nhân của bạo lực gia đình, là cơ sở pháp lý để người dân áp dụng các hoạt động bảo vệ trẻ em là nạn nhân của hành vi bạo lực gia đình. VD vụ án bé Nguyễn Thị Thúy 13 tuổi bị đối tượng Nguyễn Hữu Thuyên là bố đẻ hành hạ bằng các hành vi bẻ rang, cạo trọc đầu, xâu tai, đánh đập một cách tàn bạos. Bị người bố bất nhân hành hạ, năm 2004 sau lần đánh con gái bị chấn thương ở tay, Công an huyện đã lập hồ sơ cho Thuyên đi giáo dục tại cơ sở địa phương rồi cho về. Đến năm 2006, Nguyễn Hữu Thuyên không tiến bộ, vẫn tiếp tục tái diễn bạo hành với con. Công an huyện đã lập hồ sơ khởi tố bị can về tội ngược đãi con. Thuyên bị xử 12 tháng tù treo và 24 tháng thử thách. Đây là một vụ bạo lực gia đình khiến dư luận xôn xao, sau khi vụ án được giải quyết bé Thúy đã được hỗ trợ điều trị về tâm lí và chi phí đi lại. Vì xét xử là một hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em do vậy các quy định về thẩm quyền xét xử, trách nhiệm và quyền hạn của chủ thể thực hiện hoạt động xét xử cũng là những quy định pháp luật bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Trong Luật tổ chức tòa án năm 2014 quy định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình, tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.” Theo đó Tòa án là nơi xét xử các vụ án phạm tội đối với trẻ em, thông qua hoạt động này bảo đảm quyền và lợi ích họp pháp cho trẻ em. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình Tòa án 50
  51. phải nghiêm chỉnh chấp hành đúng quy định của pháp luật, xử đúng người, đúng tội, tránh bỏ lọt tội phạm và phải đảm bảo quyền và lợi ích của trẻ em lên hàng đầu. Xử phạt xứng đáng, nghiêm minh và thẳng tay đối với những tội phạm xâm hại trẻ em từ đó bảo vệ nạn nhân, đồng thời răn đe, giáo dục người dân. Chính những quy định pháp luật trên đây đã trở thành cơ sở để nhà nước ta áp dụng vào thực tiễn nhằm giải quyết vấn đề bạo lực gia đình đối với trẻ em hiện nay.Ngoài ra nước ta có rất nhiều các quy định khác liên quan đến vấn đề bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em nằm rải rác trong các văn bản quy phạm pháp luật khác như Luật lao động 2012, Luật phòng chống mua, bán người năm 2011, Luật tố cáo 2018, Luật giáo dục 2015 vv 2.2.1. Các khía cạnh bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em trong các quy định pháp luật 2.2.1.1 Nguyên tắc Nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích tối đa cho nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Là những người bị hành vi của tội phạm xâm hại, hơn ai hết nạn nhân của tội phạm cần được bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp về tính mạng, sức khỏe, tài sản của mình và của gia đình. Có nhiều người sau khi thực hiện hành vi phạm tội thường tìm cách đe dọa, khống chế nạn nhân nhằm che giấu hành vi phạm tội. Một số người phạm tội còn tìm cách giết nạn nhân để bịt đầu mối nhất là những nạn nhân đã biết rõ về nhân thân của người phạm tội và các nạn nhân này đang hợp tác với cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc giải quyết vụ án. Đối mặt với những nguy cơ đó, việc bảo vệ nạn nhân và gia đình họ là việc hết sức cấp bách, đòi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền luôn phải tích cự chủ động thực hiện. Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em và gia đình họ trước hết đảm bảo cho họ nguy cơ tiếp tục trở thành nạn nhân của tội phạm. Mặt khác việc bảo vệ đó giúp họ yên tâm tích cực hợp tác với cơ quan bảo vệ pháp luật trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tội phạm. Bên cạnh việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nạn nhân của tội phạm là trẻ em, đảm bảo quyền bồi thường thiệt hại cho nạn nhân cũng là nguyên tắc cơ bản.Thiệt hại mà tội phạm gây ra cho nạn nhân là trẻ em trong nhiều trường hợp 51