Tóm tắt luận án Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD trong các DN xây dựng công trình giao thông thuộc Bộ GTVT

pdf 24 trang tranphuong11 27/01/2022 4760
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt luận án Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD trong các DN xây dựng công trình giao thông thuộc Bộ GTVT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftom_tat_luan_an_hoan_thien_he_thong_chi_tieu_danh_gia_hqkd_t.pdf

Nội dung text: Tóm tắt luận án Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD trong các DN xây dựng công trình giao thông thuộc Bộ GTVT

  1. 1 MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài Trong điều kiện cạnh tranh và nguồn lực ngày càng khan hiếm, để đứng vững trên thị trường và không ngừng phát triển, DN cần phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của mình. Muốn sử dụng hiệu quả các nguồn lực có hạn, DN cần phải đánh giá được hiệu quả sử dụng các nguồn lực. Nói cách khác, DN phải đánh giá đúng đắn HQKD của DN. Hoạt động trong nền kinh tế thị trường, để đứng vững và thắng thế trước các đối thủ cạnh tranh, các DN cần phải có chiến lược và mọi hoạt động của DN cần phải tập trung vào thực hiện chiến lược. Để thực hiện thành công chiến lược, các DN cần phải có hệ thống đánh giá HQKD phù hợp với chiến lược. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, do vậy GTVT đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Cũng giống như các DN trong các ngành khác, các DN XDCTGT luôn quan tâm tới HQKD vì đó là sự sống còn của DN. Tuy nhiên, qua thực tế nghiên cứu, hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD của các DN XDCTGT thuộc Bộ GTVT còn nhiều bất cập. Với hệ thống đánh giá HQKD hiện tại, các DN XDCTGT sẽ khó để thực hiện thành công chiến lược và khó có thể đứng vững trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt. Do đó “Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD trong các DN xây dựng công trình giao thông thuộc Bộ GTVT” là vấn đề cần thiết. 2. Đối tượng, phạm vi và mục tiêu nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là các vấn đề lý luận về HQKD và hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD; thực trạng hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD và phương hướng hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD trong các DN XDCTGT thuộc Bộ GTVT. Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn trong các DN XDCTGT thuộc Bộ GTVT (các DN này tập trung chủ yếu ở 7 tổng công ty). Mục đích nghiên cứu của luận án là hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về HQKD và đánh giá HQKD của DN gắn với mục tiêu ngắn hạn và mục tiêu chiến lược. Từ đó, đánh giá thực trạng hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD trong các DN XDCTGT thuộc Bộ GTVT hiện nay và đề xuất hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD trong các DN XDCTGT, giúp cho
  2. 2 các DN này có thể đánh giá đúng đắn HQKD và thực hiện được mục tiêu chiến lược của DN. 3. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu lý thuyết: Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, internet, các bài báo, sách in và sách điện tử, v.v Nghiên cứu thực trạng: Sử dụng các phương pháp nghiên cứu định tính như phỏng vấn trực tiếp, phỏng vấn qua điện thoại các nhà quản trị và các nhân viên kế toán của một số DN, trực tiếp khảo sát tại DN và sử dụng phiếu khảo sát. Các phương pháp thu thập và xử lý số liệu, tài liệu được tác giả sử dụng bao gồm: phương pháp điều tra, phương pháp phân tổ, phương pháp tỷ lệ, v.v Các phương pháp sử dụng để trình bày kết quả nghiên cứu: phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp quy nạp v.v 4. Những đóng góp chính của luận án Về mặt lý luận: hệ thống hóa và hoàn thiện lý luận về HQKD và hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD của DN nói chung và DN XDCTGT thuộc Bộ GTVT nói riêng gắn với việc thực hiện chiến lược kinh doanh nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của DN trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế. Về nghiên cứu thực tế: luận án xem xét, đánh giá thực trạng hệ thống các chỉ tiêu đánh giá HQKD trong các DN XDCTGT thuộc Bộ GTVT; từ đó, chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của hệ thống các chỉ tiêu đánh giá HQKD của các DN này. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu thực tế, luận án sẽ đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD trong các DN XDCTGT thuộc Bộ GTVT theo yêu cầu hội nhập và phát triển kinh tế. 5. Bố cục của luận án Luận án gồm 142 trang, 17 bảng, 11 sơ đồ, 7 hình và phụ lục, được trình bày thành 3 chương, không kể phần phụ lục, gồm: Chương 1: Cơ sở lý luận về hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD trong các DN XDCTGT. Chương 2: Thực trạng hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD trong các DN XDCTGT thuộc Bộ GTVT. Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD trong các DN XDCTGT thuộc Bộ GTVT.
  3. 3 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HQKD TRONG CÁC DOANH NGHIỆP XDCTGT 1.1. VAI TRÒ CỦA ĐÁNH GIÁ HQKD TRONG DOANH NGHIỆP 1.1.1. HQKD và đánh giá HQKD 1.1.1.1. Các quan điểm về HQKD Theo Luật doanh nghiệp 2005, hoạt động kinh doanh là: “Việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” [21]. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt và của cải của xã hội ngày càng khan hiếm, vấn đề đánh giá HQKD và tìm các biện pháp nâng cao HQKD được các DN và các nhà kinh tế quan tâm từ lâu. HQKD là một khái niệm rộng, được hiểu theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào từng cá nhân trong những hoàn cảnh cụ thể. Qua phân tích các quan điểm khác nhau về HQKD, tác giả rút ra kết luận: Hiệu quả kinh doanh phản ánh kết quả sử dụng nguồn lực để đạt được mục tiêu xác định của doanh nghiệp. 1.1.1.2. Đo lường và đánh giá HQKD Đo lường HQKD là lượng hóa kết quả hoạt động kinh doanh của DN thành các chỉ tiêu cụ thể phục vụ cho đánh giá HQKD. Đo lường và đánh giá HQKD là hai quá trình có quan hệ mật thiết không thể tách rời nhau và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhau. Muốn đánh giá đúng đắn HQKD cần phải có các chỉ tiêu đo lường HQKD phù hợp. Ngược lại, các chỉ tiêu đo lường phụ thuộc vào mục đích đánh giá HQKD. Chính vì vậy trong thực tế đo lường và đánh giá HQKD được coi là một quá trình. Các chỉ tiêu đo lường HQKD đồng thời cũng được gọi là các chỉ tiêu đánh giá HQKD. Đánh giá HQKD là quá trình so sánh giữa các chỉ tiêu đo lường HQKD với các tiêu chuẩn của nó để rút ra các kết luận về HQKD của DN. Việc đánh giá HQKD được thực hiện thông qua các chỉ tiêu đánh giá HQKD. Các chỉ tiêu đánh giá HQKD có thể là các chỉ tiêu tương đối hoặc chỉ tiêu tuyệt đối.
  4. 4 1.1.2. Vai trò của đánh giá HQKD trong các DN Đánh giá HQKD là một trong 3 chức năng của nhà quản trị trong DN. Thông qua đánh giá HQKD, nhà quản trị biết được DN đang hoạt động như thế nào, bộ phận, cá nhân nào hoạt động hiệu quả, bộ phận, cá nhân nào hoạt động chưa hiệu quả để có các điều chỉnh phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của DN. Để đánh giá HQKD, các DN sử dụng hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD để giám sát và kiểm soát các hoạt động cụ thể, dự đoán tình trạng bên trong và bên ngoài DN trong tương lai để có các điều chỉnh về chiến lược phù hợp. Đánh giá HQKD có vai trò quan trọng đối với DN cả trong ngắn hạn và dài hạn. Trong ngắn hạn, một DN không thể kiểm soát được các hoạt động của nó nếu như không có hệ thống đánh giá hiệu quả hữu hiệu. Hệ thống đánh giá hiệu quả hữu hiệu không chỉ giúp các DN kiểm soát được các hoạt động của nó trong ngắn hạn mà còn tạo động lực, khuyến khích các hoạt động hiệu quả để giúp DN đạt được mục tiêu dài hạn. Trong dài hạn, đánh giá HQKD có vai trò quan trọng ảnh hưởng đến khả năng nâng cao tính cạnh tranh và thực hiện chiến lược của DN. Một DN có chiến lược tốt nhưng hoạt động không hiệu quả thì không thể có khả năng cạnh tranh cao cũng như đạt được mục tiêu chiến lược. Các kết quả thu được từ đánh giá HQKD được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau của quản lý như để khuyến khích, động viên, khen thưởng và kỷ luật nhằm giúp cho đạt được hiệu quả cao được gắn với các mục đích và mục tiêu của DN. Để thực hiện được mục tiêu chiến lược của DN, ngoài các nỗ lực của mọi bộ phận và cá nhân trong DN, hệ thống đánh giá HQKD có vai trò quan trọng trong kiểm soát, khuyến khích mọi bộ phận trong DN hoạt động hiệu quả. 1.2. HỆ THỐNG CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HQKD 1.2.1. Nguyên tắc xây dựng các chỉ tiêu đánh giá HQKD Một DN là một tổ chức phức tạp. Để tồn tại hoặc phát triển trong môi trường cạnh tranh, DN cần phải có hệ thống đánh giá HQKD phù hợp. Nghiên cứu của nhiều học giả đều cho thấy, để đạt được thành công trong ngắn hạn cũng như dài hạn, hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của DN phải được xây dựng dựa trên các nguyên tắc sau: - Chỉ tiêu đánh giá HQKD phải phù hợp với chiến lược của DN - Các chỉ tiêu đánh giá HQKD phải gắn với tầm nhìn, giá trị, và các yếu tố thành công chủ yếu của DN
  5. 5 - Các chỉ tiêu đánh giá HQKD phải phản ánh được quá khứ, hiện tại và tương lai gắn với hoạt động của DN - Các chỉ tiêu đánh giá HQKD cần phải phản ánh được nhu cầu của khách hàng, cổ đông và người lao động - Các chỉ tiêu đánh giá HQKD phải nhất quán và có sự gắn kết giữa bộ phận cấp trên với bộ phận cấp dưới trong DN - Các chỉ tiêu đánh giá HQKD cần phải thay đổi khi chiến lược kinh doanh của DN thay đổi - Các chỉ tiêu đánh giá HQKD cần phải tin cậy - Các chỉ tiêu đánh giá HQKD cần phản ánh mục tiêu cụ thể của DN - Hệ thống đánh giá HQKD phải bao gồm cả các chỉ tiêu tài chính và chỉ tiêu phi tài chính 1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD của DN Các yếu tố ảnh hưởng đến hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của DN được chia làm 2 nhóm là các yếu tố bên trong và các yếu tố bên ngoài. Các yếu tố bên trong: gồm cơ cấu tổ chức, chiến lược kinh doanh, văn hóa tổ chức, các nguồn lực, trách nhiệm của các cá nhân, quy trình hoạt động của DN, v.v Các yêu tố bên ngoài: Môi trường kinh doanh, ngành nghề kinh doanh, các chính sách, luật pháp, thị trường, v.v là những yếu tố bên ngoài có ảnh hưởng đáng kể đến việc lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá HQKD của DN. Các yếu tố bên trong và các yếu tố bên ngoài của DN không tác động độc lập mà có ảnh hưởng tương tác, hỗ trợ lẫn nhau. Khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD, DN cần phân tích để lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá phù hợp nhằm phản ánh đúng đắn hiệu quả hoạt động của từng bộ phận và toàn DN. 1.2.3. Đặc điểm kinh doanh của DN XDCTGT ảnh hưởng đến chỉ tiêu đánh giá HQKD Các công trình GTVT đều là cơ sở hạ tầng của đất nước do vậy nhà nước là chủ đầu tư của các công trình này. Để nhận được công trình, các DN thường phải thông qua đấu thầu rộng rãi. Một trong những tiêu chuẩn để DN có thể được tham gia đấu thầu là phải có năng lực và kinh nghiệm thi công. Năng lực và kinh nghiệm thi công của DN thể hiện thông qua các công trình DN đã hoàn thành đúng thời hạn, có chất lượng, được chủ đầu tư đánh giá cao. Để thực hiện được các yêu cầu này, DN cần có các chỉ tiêu đánh giá về
  6. 6 thời hạn hoàn thành công trình, các sáng kiến sử dụng trong thi công để tiết kiệm chi phí, rút ngắn thời gian thi công, v.v Mỗi công trình được xây dựng tại những địa điểm khác nhau với những điều kiện thi công khác nhau nên đòi hỏi có những giải pháp kỹ thuật thi công khác nhau. Các đặc điểm này đòi hỏi các DN XDCTGT phải có các chỉ tiêu đánh giá tính sáng tạo và hiệu quả của việc sử dụng các giải pháp thi công hợp lý thông qua các chỉ tiêu đánh giá HQKD nhằm giúp cho DN đảm bảo được chất lượng công trình đúng thời gian với chi phí thấp. Các công trình XDGT thường xa trụ sở của DN, do vậy cần có các giải pháp hợp lý trong thi công và phục vụ thi công như cung ứng vật tư, điều chuyển xe, máy thi công, cung ứng nhân lực, v.v Hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD của DN cần phải đánh giá được hiệu quả của công tác phục vụ thi công của các DN. Hiện tượng thường xảy ra trong lĩnh vực xây dựng là thi công sai với thiết kế nên chỉ tiêu phản ánh giá trị hoặc khối lượng thi công phải phá đi làm lại cũng là chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá HQKD. Trong thi công xây dựng, việc tổ chức tốt hệ thống cung ứng vật tư để sản xuất được tiến hành liên tục cũng là một chỉ tiêu được quan tâm. Do vậy, trong hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của bộ phận vật tư thường phải có chỉ tiêu này. 1.2.4. Các mô hình đánh giá HQKD của DN Sự thay đổi của môi trường kinh doanh, nhu cầu thông tin trong quản trị DN, nhận thức của các nhà quản lý và của các nhà nghiên cứu, v.v đã ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD trong các DN. Có thể chia thành hai giai đoạn như sau: Các mô hình đánh giá HQKD trước năm 1980 Trước năm 1980 các mô hình đánh giá HQKD chủ yếu dựa trên các số liệu kế toán với các chỉ tiêu đánh giá HQKD tài chính như lợi nhuận, lợi nhuận trên vốn đầu tư, lợi nhuận trên tài sản, lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, v.v [60, 291]. Trong giai đoạn này, một số mô hình đánh giá HQKD dựa trên các thước đo tài chính đã được đề xuất. Các mô hình đánh giá HQKD trước năm 1980 chủ yếu tập trung vào các chỉ tiêu tài chính đã nhận được nhiều ý kiến phê bình của nhiều nhà nghiên cứu. Neely (1999) đã tổng kết các ý kiến phê bình của các tác giả về hạn chế của các mô hình đánh giá HQKD chỉ dựa trên các chỉ tiêu tài chính như sau: - Khuyến khích các nhà quản lý tập trung vào các mục tiêu ngắn hạn.
  7. 7 - Không tập trung vào chiến lược và chất lượng, sự kịp thời và linh hoạt. - Khuyến khích nâng cao hiệu quả cục bộ, như sản xuất nhiều để sử dụng có hiệu quả nhân lực và máy móc. - Khuyến khích các nhà quản lý tìm cách giảm bớt chênh lệch so với tiêu chuẩn thay vì tìm cách cải thiện liên tục. - Không cung cấp thông tin về nhu cầu của khách hàng và HQKD của đối thủ cạnh tranh [55]. Các mô hình đánh giá HQKD được đề xuất trước năm 1980 thường tập trung vào các chỉ tiêu tài chính và phục vụ cho đánh giá HQKD ngắn hạn. Các chỉ tiêu này có thể giúp lãnh đạo DN và các đối tượng quan tâm dễ dàng đánh giá được HQKD của DN để đưa ra các quyết định nhằm đạt được mục tiêu ngắn hạn. Việc sử dụng các chỉ tiêu tài chính để đánh giá HQKD đã bộc lộ một số nhược điểm nhất định, đó là các chỉ tiêu tài chính thường gắn với một kỳ kế toán cụ thể, không có sự kết hợp giữa các mục tiêu, nhân tố thành công, chiến lược với các chỉ tiêu đánh giá HQKD của DN. Do đó, nếu chỉ dựa vào các chỉ tiêu tài chính để đánh giá HQKD thì có thể các chỉ tiêu này vô tình lại trở thành rào cản việc thực hiện chiến lược, cải thiện khả năng cạnh tranh của DN. Các mô hình đánh giá HQKD sau năm 1980 Hạn chế của các mô hình đánh giá HQKD trước năm 1980 là không gắn với chiến lược, do vậy không giúp cho các DN đánh giá khả năng thực hiện thành công chiến lược. Trong môi trường cạnh tranh, chiến lược kinh doanh là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của DN, giúp DN đạt được thành công trên thương trường. Để giúp DN thực hiện thành công chiến lược, hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD của DN phải gắn với chiến lược của DN và phải đo lường được hiệu quả chiến lược. Quan điểm này đã nhận được sự đồng tình của nhiều học giả. Sau năm 1980, nhiều mô hình đánh giá HQKD được đề xuất. Tiêu biểu trong các mô hình này là mô hình ma trận đánh giá HQKD của Keegan, Eiler và Jones từ 1989 [Neely, 2007: 145]; mô hình Kim tự tháp SMART của Lynch và Cross (1991); mô hình kết quả và yếu tố quyết định (Result and Determinants Framework) của Fitzgerald và cộng sự (1991), mô hình câu hỏi đánh giá HQKD (Performance Measurement Questionnaire) của Dixon và cộng sự (1990), Mô hình Lăng kính hiệu suất của Neely (2001), v.v Nổi bật hơn cả trong các mô hình trên là mô hình Bảng điểm cân bằng (Balance Scorecard) đánh giá HQKD dưới nhiều khía cạnh khác nhau do Kaplan và Norton đề xuất vào đầu những năm 1990 (Bourne, 2008).
  8. 8 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Trong điều kiện nguồn lực ngày càng khan hiếm, sự cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt đòi hỏi các DN phải đánh giá đúng đắn HQKD của mỗi bộ phận trong DN cũng như toàn DN để có các quyết định đúng đắn. Thời gian gần đây, quan điểm về đánh giá HQKD trên thế giới đã có những thay đổi đáng kể. Trước đây người ta chỉ chú ý đến HQKD ngắn hạn thì gần đây các DN chú ý nhiều hơn đến đánh giá HQKD dài hạn. Về các chỉ tiêu đánh giá HQKD cũng có nhiều thay đổi, nếu như trước đây người ta thường chỉ chú ý sử dụng chỉ tiêu tài chính để đánh giá HQKD là chủ yếu, thì hiện nay các chỉ tiêu đánh giá HQKD của DN không chỉ dừng lại ở các chỉ tiêu tài chính mà đã bao gồm cả các chỉ tiêu phi tài chính. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá HQKD của DN bao gồm cả các chỉ tiêu tài chính và chỉ tiêu phi tài chính, các chỉ tiêu đánh giá HQKD ngắn hạn và chỉ tiêu đánh giá HQKD dài hạn, v.v không chỉ cho phép đánh giá HQKD ngắn hạn mà còn phải cho phép đánh giá khả năng thực hiện mục tiêu chiến lược của DN. Quan điểm về đánh giá HQKD cũng còn thay đổi ở chỗ coi trọng mục tiêu và hoạt động kết quả chiến lược hơn là HQKD ngắn hạn. Việc đánh giá HQKD được gắn với chiến lược và thực hiện mục tiêu chiến lược của DN. Nhằm mục tiêu làm sáng tỏ lý luận về HQKD và hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD phục vụ cho quản trị DN, chương 1 đã tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản về HQKD và đánh giá HQKD trong các DN. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HỆ THỐNG CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HQKD TRONG CÁC DOANH NGHIỆP XDCTGT THUỘC BỘ GTVT 2.1. TỔNG QUAN VỀ CÁC DN XDCTGT THUỘC BỘ GTVT 2.1.1. Quá trình thành lập và phát triển Việc mở cửa, chuyển đổi nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường của Việt Nam đã tạo ra một bước chuyển biến mạnh mẽ trong cơ cấu các thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho các DN Việt Nam phát triển, từng bước hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các DN trong ngành giao thông nói chung và các DN XDCTGT thuộc Bộ GTVT nói riêng cũng có sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng.
  9. 9 Trong thời gian vừa qua, ngành GTVT đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua nhiều khó khăn thách thức, tích cực thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, thực hiện tốt hơn chức năng quản lý nhà nước về GTVT, góp phần đáng kể vào thành tựu chung của đất nước. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, các DN thuộc Bộ GTVT còn những mặt hạn chế: quy mô còn nhỏ, cơ cấu còn nhiều bất hợp lý, HQKD và sức cạnh tranh còn thấp, nợ tồn đọng không có khả năng thanh toán còn cao v.v Mặc dù còn một số tồn tại nhưng cũng cần ghi nhận những nỗ lực của Bộ GTVT trong việc góp phần kiềm chế và giảm thiểu tai nạn giao thông. Công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông được tăng cường cả về thể chế và giải pháp đồng bộ, v.v 2.1.2. Mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh và tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh Các TCT XDCTGT đều được tổ chức theo mô hình HĐQT, Tổng giám đốc, các phòng ban chức năng và các đơn vị thành viên. Các DN cấp dưới được tổ chức theo hai hình thức là các DN hạch toán độc lập là các công ty TNHH hoặc CTCP và các xí nghiệp hạch toán phụ thuộc. Dưới TCT là các công ty thành viên gồm các công ty TNHH MTV và các CTCP. Các công ty TNHH MTV được tổ chức theo sơ đồ HĐQT, theo đó HĐQT sẽ chọn một người là giám đốc điều hành công ty và các phó giám đốc. Giúp việc cho giám đốc có các phòng, ban. Các đơn vị sản xuất được tổ chức thành các xí nghiệp hoặc các đội thi công. Các CTCP XDCTGT thuộc Bộ GTVT phần lớn là các DN nhà nước có khó khăn về tài chính trước đây được cổ phần hóa. Khi chuyển sang hình thức CTCP, các DN này được tổ chức theo mô hình gồm HĐQT, tổng giám đốc, các phó tổng giám đốc và phòng ban chức năng. Các đơn vị thi công được tổ chức thành các đội hoặc các xí nghiệp. 2.1.3. Lĩnh vực kinh doanh Trong xu thế phát triển chung của xã hội, nhằm tận dụng lợi thế kinh doanh và đa dạng hóa sản phẩm, các DN XDCTGT ngoài lĩnh vực kinh doanh chính là xây dựng các công trình giao thông còn đang dần dần mở rộng hoạt động kinh doanh sang nhiều lĩnh vực khác như: đầu tư bất động sản, xuất nhập khẩu, sản xuất vật liệu, phân bón, kinh doanh vận tải, du lịch, v.v Các hoạt động kinh doanh chính của DN XDCTGT thường bao gồm: - Xây dựng các công trình giao thông: đây là hoạt động kinh doanh chính và mang tính truyền thống của các DN XDCTGT.
  10. 10 - Xây dựng các công trình công nghiệp và dân dụng: đầu tư, xây dựng các khu công nghiệp, cụm dân cư và đô thị, v.v - Khai thác chế biến vật liệu xây dựng, sản xuất cấu kiện bê tông đúc sẵn. - Các hoạt động khác. 2.1.4. Tổ chức bộ máy kế toán và hệ thống kế toán tại các DN XDCTGT thuộc Bộ GTVT 2.1.4.1. Tổ chức bộ máy kế toán Do đặc điểm của các DN XDCTGT là phải thi công các công trình giao thông xa trụ sở của công ty nên công ty tổ chức bộ máy kế toán theo mô hình nửa tập trung, nửa phân tán. Tại công ty, phòng kế toán công ty đóng vai trò trung tâm có nhiệm vụ thu thập, xử lý các chứng từ kế toán do các đơn vị thành viên chuyển đến đồng thời thực hiện quyết toán các công trình, hạng mục công trình, lập các báo cáo tài chính riêng công ty mẹ và lập báo cáo tài chính hợp nhất toàn công ty. 2.1.4.2. Tổ chức hệ thống kế toán tại các DN XDCTGT Hiện nay các DN XDCTGT thuộc Bộ GTVT đang áp dụng chế độ kế toán ban hành kèm theo Quyết định số 15/2006 QĐ-BTC ngày 20/03/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và thông tư số 244/2009TT-BTC ngày 31/12/2009, thông tư 106/2008 và thông tư 206/2009 ban hành về việc hướng dẫn sửa đổi bổ sung chế độ kế toán DN. Do yêu cầu quản lý và do tính chất của công tác kế toán cho DN xây lắp nên hầu hết các DN XDCTGT áp dụng hình thức kế toán nhật ký chung. Hiện nay, công tác hạch toán được thực hiện bằng máy vi tính thông qua phần mềm kế toán. 2.2. THỰC TRẠNG HỆ THỐNG CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HQKD CỦA CÁC DN XDCTGT THUỘC BỘ GTVT Để nghiên cứu thực trạng hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD của các DN XDCTGT, tác giả tiến hành khảo sát thực tế trong các DN này và kết quả tác giả đã có được 84 phiếu khảo sát thu về từ 41 DN XDCTGT. Đối tượng khảo sát là các giám đốc, trưởng phòng kinh doanh, đội trưởng thi công và một số kế toán trưởng, kế toán viên của các DN này. Kết quả khảo sát đã thu được thể hiện trên các khía cạnh: - Cơ cấu các đối tượng tham gia trả lời phiếu khảo sát - Số lượng lao động trong các DN tham gia khảo sát
  11. 11 - Về hình thức tổ chức của các DN tham gia khảo sát - Về vốn điều lệ của các DN tham gia khảo sát - Thời gian hoạt động của các DN tham gia khảo sát Thực tế nghiên cứu hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD của các DN XDCTGT cho thấy hầu hết các công ty đều sử dụng các chỉ tiêu đánh giá HQKD như sau: 2.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá HQKD của DN theo quy định của Chính phủ Phần lớn các DN XDCTGT thuộc Bộ GTVT đều thuộc sở hữu Nhà nước hoặc do DNNN chiếm cổ phần chi phối, do vậy đều thuộc đối tượng phải áp dụng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của DN nhà nước, kết quả hoạt động của Hội đồng quản trị, Ban giám đốc theo quy định tại Điều 12 Quy chế giám sát ban hành kèm theo Quyết định số 224/2006/QĐ-TTg ngày 06/10/2006 của Thủ tướng Chính phủ và khoản 4, mục III, Thông tư số 115/2007/TT-BTC ngày 25/9/2007 của Bộ Tài chính. Các DN đều đánh giá HQKD theo các chỉ tiêu quy định tại khoản 1 Điều 12 Quy chế kèm theo Quyết định số 224/2006/QĐ-TTg, bao gồm: a. Doanh thu và thu nhập khác: Chỉ tiêu này được xác định căn cứ vào báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh b. Lợi nhuận thực hiện và tỷ suất lợi nhuận thực hiện trên vốn Nhà nước: Bao gồm lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh và lợi nhuận khác phản ánh trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. c. Nợ phải trả quá hạn và khả năng thanh toán nợ đến hạn: là các khoản nợ đã quá thời hạn cam kết thanh toán cho các chủ nợ. d. Tình hình chấp hành chế độ, chính sách pháp luật: bao gồm các chính sách thuế, thu nộp ngân sách, tín dụng, bảo hiểm, bảo vệ môi trường, lao động, tiền lương, chế độ tài chính, kế toán, kiểm toán, chế độ báo cáo tài chính và báo cáo khác. e. Tình hình thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích: căn cứ vào việc thực hiện trực tiếp các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ công cộng theo chính sách của Nhà nước thông qua hình thức đấu thầu hoặc nhận đặt hàng hoặc nhận nhiệm vụ Nhà nước giao. 2.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả khác Ngoài các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả do cơ quan quản lý quy định đối với các DN nhà nước và các CTCP mà nhà nước nắm cổ phần chi phối, các
  12. 12 DN XDCTGT thuộc Bộ GTVT còn sử dụng các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả khác phục vụ cho quản lý và đánh giá hiệu quả riêng của đơn vị mình, gồm: a. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời: Luận án đã khảo sát thực tế các chỉ tiêu Tỷ suất lợi nhuận gộp; Tỷ suất lợi nhuận thuần (ROS); Tỷ suất sinh lời của tài sản (ROA); Tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản (ROTA); Tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROE); Tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROE); Tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư (ROI). b. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản: Số vòng quay của tài sản; sức sản xuất của TSCĐ; số vòng quay của tài sản ngắn hạn; thời gian một vòng quay của tài sản ngắn hạn; số vòng quay của hàng tồn kho; số vòng quay nợ phải thu khách hàng; kỳ thu tiền bình quân. c. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay: Hệ số sinh lời của lãi vay d. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng chi phí và các chỉ tiêu khác: Tỷ suất sinh lời của giá vốn hàng bán; tỷ suất sinh lời của chi phí bán hàng; tỷ suất sinh lời của chi phí quản lý DN; tỷ suất sinh lời của tổng chi phí, v.v e. Các chỉ tiêu phi tài chính Việc nhận thức tầm quan trọng của các chỉ tiêu phi tài chính và sử dụng các chỉ tiêu này trong thực tiễn hoạt động kinh doanh của các DN XDCTGT thuộc Bộ GTVT vẫn còn rất hạn chế. Xuất phát từ quan điểm kinh doanh cũ nên các DN chưa thực sự chú trọng tới khách hàng. Các DN còn giữ quan điểm là các sản phẩm của ngành mang tính chất đơn chiếc nên chưa quan tâm đến việc giữ chân các khách hàng đã đến với DN, hoặc cũng chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc đào tạo tăng cường văn hóa kinh doanh cho người lao động, đặc biệt là các nhân viên bàn giao công trình, nên khoản chi cho công tác này còn chưa thỏa đáng. Tác giả đã đưa ra rất nhiều câu hỏi khảo sát để đánh giá tác dụng của các chỉ tiêu đánh giá HQKD đối với hoạt động quản trị DN, đánh giá tình hình xây dựng các chỉ tiêu đánh giá HQKD của các bộ phận trong DN, sự phù hợp và mối liên hệ của hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD hiện tại đối với chiến lược của DN, tác dụng của hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD đối với việc thực hiện chiến lược của DN, và đánh giá sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD nhằm trợ giúp cho các nhà quản trị hoàn thiện và thực hiện chiến lược. Tuy nhiên, các câu hỏi đưa ra tương đối khó trả lời. Bên cạnh đó, do hạn chế về nhận thức và khả năng kiểm chứng các kết quả của hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD nên khó có thể trả lời đúng câu hỏi này. Việc trả lời câu hỏi này hoàn toàn phụ thuộc vào sự đánh giá chủ quan của người được hỏi.
  13. 13 2.3. Nhận xét về hệ thống các chỉ tiêu đánh giá HQKD trong các DN XDCTGT thuộc Bộ GTVT 2.3.1. Ưu điểm Các DN XDCTGT thuộc Bộ GTVT đã áp đụng đầy đủ hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD của DN nhà nước, kết quả hoạt động của Hội đồng quản trị, Ban giám đốc thực hiện theo quy định. Ngoài việc sử dụng các chỉ tiêu theo quy định tại Quyết định số 224/2006/QĐ-TTg, một số DN đã sử dụng các chỉ tiêu khác để phản ánh HQKD theo yêu cầu quản trị DN như các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sinh lời, hiệu quả sử dụng tài sản, hiệu quả sử dụng vốn vay, v.v Một số DN cũng đã sử dụng một số chỉ tiêu phi tài chính để đánh giá HQKD của DN như tỷ lệ hao phí vật liệu so với định mức, tỷ lệ hao phí lao động thực tế so với định mức, v.v Cách tính toán các chỉ tiêu trên phù hợp với thông lệ và xu thế chung của các DN. Nguồn tài liệu sử dụng để thu thập tính toán các chỉ tiêu trên dựa trên các báo cáo tài chính của DN nên tương đối tin cậy. Việc sử dụng tương đối đầy đủ các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả với phương pháp xác định phù hợp dựa trên nguồn thông tin tin cậy đã giúp DN phần nào kiểm soát và đánh giá được HQKD của các bộ phận trong DN cũng như của toàn DN. 2.3.2. Tồn tại So với xu hướng và thông lệ đánh giá hiệu quả mà các DN trên thế giới đang áp dụng hiện nay, hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD của các DN XDCTGT thuộc Bộ GTVT đang bộc lộ một số tồn tại sau: Hệ thống chỉ tiêu đánh giá chưa toàn diện và đầy đủ. Hầu hết các DN đều tuân thủ các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả theo quy định tại Quyết định số 224/2006/QĐ-TTg ngày 06/10/2006 của Thủ tướng Chính phủ và khoản 4, mục III, Thông tư số 115/2007/TT-BTC ngày 25/9/2007 của Bộ Tài chính. Tuy nhiên những chỉ tiêu này mới chỉ phản ánh được một phần HQKD mà chưa phản ánh toàn diện mọi mặt hoạt động của DN. Các chỉ tiêu do các DN sử dụng ngoài quy định của cơ quan quản lý đã phản ánh được HQKD của DN trên các khía cạnh khả năng sinh lời, hiệu quả sử dụng tài sản, hiệu quả sử dụng vốn vay và hiệu quả sử dụng chi phí. Tuy nhiên, đây mới chỉ là những chỉ tiêu đánh giá HQKD ngắn hạn, không gắn với chiến lược và các mục tiêu dài hạn của DN. So với các tiêu chuẩn của một hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cần phải có, các chỉ tiêu trong hệ
  14. 14 thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của các DN hiện nay vẫn còn những bất cập sau: Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá HQKD của các DN XDCTGT thuộc Bộ GTVT vẫn tập trung chủ yếu vào các chỉ tiêu tài chính và dựa vào các thông tin quá khứ. Do dựa nhiều vào thông tin quá khứ và chưa chứa đựng các nhân tố có ảnh hưởng quan trọng đến thành công của DN nên các chỉ tiêu đánh giá HQKD được các DN này sử dụng ít có khả năng dự báo cho những thành công của DN trong tương lai. Các chỉ tiêu đánh giá HQKD được các DN XDCTGT thuộc Bộ GTVT sử dụng vẫn tập trung vào các chỉ tiêu ngắn hạn là chủ yếu. Việc sử dụng các chỉ tiêu ngắn hạn để đánh giá HQKD của các DN và các bộ phận trong DN sẽ dẫn đến hậu quả là các nhà quản trị chỉ quan tâm đến các kết quả ngắn hạn và thúc đẩy tư duy hành động vì mục tiêu ngắn hạn. Tư duy này có thể gây khó khăn cho DN trong việc thực hiện chiến lược và các kế hoạch dài hạn để nâng cao khả năng cạnh tranh và vị thế của DN. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả chưa gắn với chiến lược của DN: nhiều DN chưa có chiến lược. Những DN đã có chiến lược nhưng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả chưa gắn với chiến lược cũng như tầm nhìn, giá trị và các yếu tố thành công chủ yếu và mục tiêu cụ thể của DN. Trong hệ thống các chỉ tiêu đánh giá HQKD của các DN có rất ít các chỉ tiêu phi tài chính phản ánh khía cạnh kinh doanh nội bộ, chưa có các chỉ tiêu phản ánh khía cạnh khách hàng, khía cạnh nhận thức và phát triển. Các chỉ tiêu đánh giá HQKD mới chỉ được xây dựng để phục vụ đánh giá HQKD của toàn DN mà chưa có các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động của các bộ phận cấp dưới của DN. Các chỉ tiêu được các DN XDCTGT thuộc bộ GTVT sử dụng chưa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Do vậy, không chỉ ra cho các nhà quản trị thấy được cần phải làm thế nào để cải thiện HQKD của DN. Các chỉ tiêu được sử dụng trong các DN phần lớn dựa vào thông tin quá khứ, chưa có tác dụng dự báo. Do đó, phần nào đã giảm đi tác dụng của các chỉ tiêu đối với hoạt động quản trị DN. Một số DN sử dụng quá nhiều chỉ tiêu, trong đó có những chỉ tiêu không quan trọng, đôi khi trùng lắp làm giảm đi sự tập trung vào những chỉ tiêu có ảnh hưởng quan trọng đến sự thành công của DN trên thị trường.
  15. 15 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Khảo sát thực trạng sử dụng các chỉ tiêu đánh giá HQKD của các DN XDCTGT cho thấy phần lớn các DN mới chỉ tập trung vào các chỉ tiêu đánh giá HQKD của DN theo quy định của Chính phủ và một số chỉ tiêu đánh giá HQKD theo yêu cầu của các nhà quản trị DN. Các DN vẫn chưa có hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD phản ánh được tầm nhìn, chiến lược của DN cũng như các chỉ tiêu phản ánh nhu cầu của khách hàng và cổ đông. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD của một số DN chứa đựng quá nhiều chỉ tiêu do vậy làm giảm đi sự tập trung của DN vào những chỉ tiêu quan trọng. Những hạn chế trên đã làm giảm đi vai trò và tác dụng của hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD của DN đối với hoạt động quản trị DN nói riêng và với người sử dụng nói chung. Do đó, cần thiết phải hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD trong các DN XDCTGT. Chương 2 đã đánh giá những ưu điểm và hạn chế của tình hình thực tế sử dụng các chỉ tiêu đánh giá HQKD trong các DN XDCTGT. Những đánh giá trên làm căn cứ quan trọng giúp tác giả có thể đưa ra những kiến nghị mang tính khả thi, phù hợp với thực tiễn của các DN XDCTGT. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HQKD TRONG CÁC DOANH NGHIỆP XDCTGT THUỘC BỘ GTVT 3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH GTVT VIỆT NAM Trong chiến lược phát triển GTVT từ nay đến năm 2020, Bộ GTVT cũng chỉ rõ: “GTVT là một bộ phận quan trọng trong kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, cần ưu tiên đầu tư phát triển đi trước một bước với tốc độ nhanh, bền vững nhằm tạo tiền đề cho phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước” [6]. Về xây dựng cơ sở hạ tầng GTVT, chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng từ nay đến năm 2020 là: “Tập trung các nguồn lực đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Bắc - Nam, nâng cấp đường sắt hiện có, xây dựng hệ thống đường sắt đô thị ở các thành phố lớn. Trên cơ sở quy hoạch, chuẩn bị các điều kiện để từng bước xây dựng đường sắt cao tốc Bắc - Nam với lộ trình phù hợp; xây dựng một số cảng biển và cảng hàng không hiện đại; cải tạo và nâng cấp hạ tầng đô thị tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Từng bước
  16. 16 hình thành đồng bộ trục giao thông Bắc - Nam, các trục hành lang Đông - Tây bảo đảm liên kết các phương thức vận tải; xây dựng các tuyến đường bộ đối ngoại đạt tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế”. Để thực hiện chiến lược này, Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra mục tiêu từ nay đến năm 2020 là: nâng cấp các công trình hiện có, xây dựng mới một số công trình quan trọng phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của Trung ương và địa phương. 3.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HQKD TRONG CÁC DN XDCTGT THUỘC BỘ GTVT Các DN XDCT giao thông có vai trò quan trọng trong việc tạo ra cơ sở hạ tầng giao thông cho đất nước. Việc sử dụng số vốn đầu tư khổng lồ trong ngành giao thông đòi hỏi các DN XDCTGT phải kiểm soát được các hoạt động kinh doanh và sử dụng có hiệu quả các tài sản này. Các DN đều muốn có hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD tốt bởi hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD tốt không chỉ giúp DN thấy được những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến việc thực hiện thành công chiến lược, mà còn tập trung vào những khía cạnh quan trọng trong quá trình thực hiện chiến lược, động viên được mọi nguồn lực trong DN tham gia vào thực hiện chiến lược. 3.3. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HQKD TRONG CÁC DN XDCTGT THUỘC BỘ GTVT Việc hoàn thiện hệ thống đánh giá hiệu quả trong các DN XDCTGT cần được thực hiện theo các quan điểm và định hướng sau: - Hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD của DN phải giúp cho DN đánh giá được cả HQKD ngắn hạn và dài hạn. - Hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD phải gắn với chiến lược của DN. - Hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD phải phản ánh được những khía cạnh kinh doanh quan trọng và các nhân tố ảnh hưởng quyết định đến thành công của DN. - Hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD phải cho phép đánh giá được hiệu quả hoạt động của các cấp quản lý khác nhau trong DN. - Hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD phải tạo được động lực, khuyến khích các cá nhân và tập thể trong DN hoạt động có hiệu quả nhằm giúp cho DN đạt được mục tiêu chiến lược. - Hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD của DN không gây ra các phản ứng tiêu cực dẫn đến các hành động gây hại cho DN của các cá nhân được đánh giá. - Hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD được xây dựng phải khả khi, phù hợp với chiến lược và khả năng thực hiện của DN.
  17. 17 3.4. YÊU CẦU VÀ NGUYÊN TẮC HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HQKD CỦA CÁC DOANH NGHIỆP XDCTGT 3.4.1. Yêu cầu của hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD của DN XDCTGT - Hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD phải diễn giải được chiến lược của các DN XDCTGT thành các mục tiêu cụ thể. - Hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD phải phản ánh được các khía cạnh và các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến việc thực hiện chiến lược của các DN XDCTGT. - Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả phải giúp cho DN dự báo được tương lai, chỉ ra khả năng thực hiện được mục tiêu chiến lược của DN. - Các chỉ tiêu đánh giá HQKD phải đạt được sự cân bằng giữa các yếu tố liên quan đến hoạt động của DN. - Lợi ích do hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD mang lại phải lớn hơn chi phí thực hiện. 3.4.2. Nguyên tắc hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD của DN XDCTGT - Hoàn thiện chỉ tiêu đánh giá HQKD phải phù hợp với chiến lược của doanh nghiệp. - Các chỉ tiêu trong hệ thống đánh giá HQKD phải liên kết với nhau theo quan hệ nhân - quả. - Không được sử dụng quá nhiều chỉ tiêu làm ảnh hưởng đến tính tập trung trong hoạt động của DN. - Cần có sự cân bằng giữa các chỉ tiêu trong hệ thống đánh giá HQKD của DN. - Cần phải có các chỉ tiêu phù hợp cho từng bộ phận, cá nhân cụ thể. 3.5. SỬ DỤNG BẢNG ĐIỂM CÂN BẰNG ĐỂ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HQKD TRONG CÁC DN XDCTGT THUỘC BỘ GTVT Hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD của các DN XDCTGT có thể được hoàn thiện bằng nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, khi nghiên cứu các mô hình đánh giá HQKD của DN, mô hình bảng điểm cân bằng do Kaplan và Norton đề xuất năm 1992 tỏ ra là hệ thống đánh giá HQKD có nhiều ưu điểm nhất và đang được nhiều DN trên thế giới sử dụng phổ biến.
  18. 18 Việc vận dụng bảng điểm cân bằng để hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD trong DN có các ưu điểm sau: - Tránh được việc tập trung quá mức vào các chỉ tiêu không cần thiết làm phân tán sự tập trung của DN vào những mục tiêu và khía cạnh có ảnh hưởng quan trọng đến sự thành công của chiến lược. - Tạo được sự cân bằng giữa các yếu tố bên trong và bên ngoài, giữa các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn, giữa các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính, v.v - Tạo được sự liên kết giữa các chỉ tiêu theo quan hệ nhân quả, do vậy cho phép các nhà quản trị dự báo được kết quả hoạt động trong tương lai. Các DN XDCTGT thực hiện sứ mệnh xây dựng những công trình hạ tầng giao thông có chất lượng phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thực hiện sứ mệnh này, các DN cần phải có chiến lược kinh doanh đúng đắn nhằm nâng cao HQKD và tăng sức cạnh tranh của DN trên thì trường trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 3.5.1. Tầm nhìn, sứ mệnh và chiến lược kinh doanh của các DN XDCTGT thuộc Bộ GTVT Hiện nay, bên cạnh một số DN XDCTGT đã xác định được tầm nhìn và sứ mệnh thì vẫn còn nhiều DN chưa quan tâm đến vấn đề này. Tương tự, các DN cũng chưa xác định được chiến lược kinh doanh cho DN. Tuy nhiên, kinh doanh trong điều kiện cạnh tranh mạnh mẽ của nền kinh tế đang hội nhập ngày càng sâu rộng với nền kinh tế khu vực và thế giới nên các DN đều mong muốn nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể đứng vững và phát triển trên thị trường. Để đạt được mục tiêu chiến lược này đòi hỏi các DN phải nâng cao chất lượng sản phẩm, bàn giao công trình đúng hạn, sử dụng các kỹ thuật thi công hiệu quả để tiết kiệm chi phí, hạ giá thành, nâng cao lợi nhuận. Đây là những mục tiêu ngắn hạn của các DN. Để đánh giá việc thực hiện các mục tiêu này cần có hệ thống đánh giá HQKD cho toàn DN cũng như cho mỗi bộ phận trong DN. 3.5.2. Xây dựng bảng điểm cân bằng áp dụng trong các DN XDCTGT thuộc Bộ GTVT Để đánh giá HQKD của DN trong ngắn hạn và dài hạn, cần thiết phải xây dựng bảng điểm cân bằng cho các DN XDCTGT. Đây là hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD của DN trong ngắn hạn và dài hạn với các chỉ tiêu liên kết với nhau theo quan hệ nhân - quả và được chia thành bốn nhóm sau:
  19. 19 3.5.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá khía cạnh nhận thức và phát triển Các chỉ tiêu đánh giá khía cạnh nhận thức và phát triển thường sử dụng các chỉ tiêu gồm: Số lượng nhân viên được đào tạo hàng năm, số lượng nhân viên tham gia các khóa huấn luyện về kỹ thuật thi công mới, số lượng nhân viên tham gia các khóa đào tạo về trách nhiệm với DN và xã hội, số lượng nhân viên tham gia các khóa huấn luyện về văn hóa kinh doanh, số lượng nhân viên được tham gia các khóa huấn luyện về an toàn lao động, v.v 3.5.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá quy trình nội bộ Các chỉ tiêu này phản ánh DN đã cải thiện như thế nào để đem lại những giá trị mà khách hàng mong muốn và kỳ vọng. Dựa trên những kiến thức và kỹ năng mà đội ngũ nhân viên có được thông qua các chương trình đào tạo và huấn luyện, DN cải thiện được các phương pháp thi công nhằm rút ngắn thời gian hoàn thành công trình, tiết kiệm chi phí, nâng cao chất lượng công trình. Nhờ được huấn luyện tốt, tinh thần và thái độ của nhân viên khi giao tiếp với khách hàng được cải thiện. Khách hàng cảm thấy thoải mái khi được phục vụ chu đáo với những hành vi ứng xử đúng mực của nhân viên. Các chỉ tiêu đánh giá quy trình kinh doanh nội bộ của DN có thể là: Chỉ tiêu đánh giá sự đổi mới và sáng tạo trong phương pháp thi công; chỉ tiêu đánh giá sự tiết kiệm chi phí; các chỉ tiêu đánh giá sự cải thiện về chất lượng; thời gian bàn giao công trình; chỉ tiêu phản ánh sự cạnh tranh về giá cả; các chỉ tiêu đánh giá thái độ phục vụ khách hàng v.v 3.5.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá khía cạnh khách hàng Khách hàng của các DN XDCTGT là các chủ đầu tư. Các chủ đầu tư của các công trình GTVT có thể là Chính phủ (Bộ GTVT), UBND các tỉnh, chủ sở hữu các khu công nghiệp, v.v . Chủ đầu tư thường thành lập các ban quản lý dự án để trực tiếp ký hợp đồng, theo dõi tiến độ và quản lý chất lượng công trình. Chủ đầu tư quan tâm đến thời gian thi công, giá cả và chất lượng công trình. Do vậy để thỏa mãn khách hàng là các chủ đầu tư, DN XDCTGT phải giao hàng đúng hoặc trước hạn; giá cả cạnh tranh với chất lượng tốt. Các chỉ tiêu cần sử dụng để đánh giá sự hài lòng của khách hàng mà DN XDCTGT đem lại là: DN được đánh giá thành công nếu như số lượng khách hàng trung thành với DN tăng lên, hàng năm DN có thêm các khách hàng mới và số lượng khách hàng cũ bỏ đi giảm xuống. Các chỉ tiêu đánh giá khía cạnh khách hàng sẽ bao gồm: Số lượng khách hàng mới tăng lên; Số lượng khách hàng bỏ đi giảm xuống; Tỷ lệ khách hàng hài lòng về chất lượng công trình; Tỷ lệ khách hàng hài lòng về giá cả công trình; Tỷ lệ khách hàng hài lòng về thời gian bàn giao công trình; Tỷ lệ khách hàng hài lòng về thái độ phục vụ của công nhân viên, v.v
  20. 20 3.5.2.4. Các chỉ tiêu đánh giá khía cạnh tài chính Khía cạnh tài chính phản ánh kết quả hoạt động cuối cùng của DN. Kết quả này thể hiện bằng các chỉ tiêu hiệu quả tài chính như: doanh thu, lợi nhuận, hiệu quả sử dụng tài sản (ROA), hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu (ROE). Khía cạnh Mục tiêu Thước đo Tăng doanh thu, lợi Lợi nhuận ròng, ROI, ROA, ROE Tài chính nhuận - Giữ chân khách - Tỷ lệ khách hàng hài lòng về chất lượng hàng cũ công trình; tỷ lệ khách hàng hài lòng về giá cả - Tăng thêm khách công trình; tỷ lệ khách hàng hài lòng về thời hàng mới gian bàn giao công trình; tỷ lệ khách hàng hài Khách hàng lòng về thái độ phục vụ; số lượng hợp đồng ký được với khách hàng - Cải tiến phương - Số lượng phương pháp, sáng kiến được áp pháp thi công dụng trong thi công. - Rút ngắn thời - Tỷ lệ công trình bàn giao sớm; tỷ lệ công gian hoàn thành trình bàn giao đúng thời hạn; tỷ lệ công trình bàn giao chậm tiến độ, thời gian khắc phục sự cố (sửa chữa công trình bị hư hỏng). - Tiết kiệm chi phí - Tỷ lệ giảm giá thành công trình so với kỳ trước. - Giảm giá bán - Tỷ lệ giảm giá bán so với năm trước tính cho 1 đơn vị. Quy trình nội bộ - Nâng cao chất - Tỷ lệ công trình phải làm lại (tính theo m2) lượng công trình. - Tỷ lệ chi phí sửa chữa công trình so với chi phí thi công. - Nâng cao chất - Số lượng các khiếu nại của khách hàng về lượng phục vụ thái độ phục vụ. - Nâng cao trình - Số lượng nhân viên được đào tạo hàng năm độ, tay nghề; trang - Số lượng nhân viên tham gia các khóa huấn bị kiến thức, kỹ luyện về kỹ thuật thi công mới năng cần thiết - Trang bị về văn - Số lượng nhân viên tham gia các khóa đào Nhận thức và hóa kinh doanh tạo về trách nhiệm với DN và xã hội; số phát triển lượng nhân viên tham gia các khóa huấn luyện về văn hóa kinh doanh; số lượng nhân viên được tham gia các khóa huấn luyện về an toàn lao động - Thu hút, giữ chân - Số lượng nhân viên được nâng bậc, nâng được người lao lương; thời gian nâng bậc, nâng lương trung động giỏi bình, v.v
  21. 21 3.5.2.5. Mối quan hệ nhân quả giữa các chỉ tiêu Các chỉ tiêu liên kết với nhau dựa trên mối quan hệ nhân - quả. Một chỉ tiêu thay đổi sẽ dẫn đến sự thay đổi của các chỉ tiêu khác. Mối quan hệ giữa các chỉ tiêu trên bốn khía cạnh này có thể được minh họa bằng Bảng điểm cân bằng trong sơ đồ 3.1: ROA, ROS, TÀI ROE, ROI ( + ) CHÍNH Doanh thu tăng ( + ) Chi phí giảm ( - ) Số lượng hợp đồng tăng ( + ) KHÁCH HÀNG Khách hàng hài lòng Khách hàng hài lòng về Khách hàng hài lòng về thời gian thi công chất lượng công trình về thái độ phục vụ ( + ) ( + ) ( + ) Thời gian bàn giao Tỷ lệ sai sót kỹ thuật Số lượng khiếu nại về công trình rút ngắn trong công trình giảm thái độ phục vụ giảm QUY ( - ) ( - ) ( - ) TRÌNH Thời gian thi công rút ngắn NỘI ( - ) BỘ Số lượng sáng kiến, cải tiến trong thi công tăng ( + ) Số lượng công nhân Số lượng nhân viên ký hợp đồng, NHẬN thi công được huấn quyết toán công trình được THỨC luyện kỹ năng, tay nghề giáo dục văn hóa kinh doanh VÀ ( + ) ( + ) PHÁT TRIỂN Tiền lương người lao động cao ( + ) Sơ đồ 3.1: Bảng điểm cân bằng đề xuất cho DN XDCTGT
  22. 22 3.5.3. Xây dựng các chỉ tiêu đánh giá HQKD cho các bộ phận chủ yếu trong DN Các DN XDCTGT thường được tổ chức thành các phòng ban chức năng như phòng kỹ thuật, phòng kinh tế - kế hoạch, phòng vật tư, phòng tổ chức nhân sự, phòng tài chính - kế toán và các đơn vị thi công. Các phòng ban, tùy theo chức năng để đảm nhận các công việc tham mưu liên quan đến các mảng công việc khác nhau do vậy cần có các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận này. Như đã đề cập, biểu hiện cao nhất của HQKD là hiệu quả hoạt động. Do đó, luận án đã xây dựng các chỉ tiêu cụ thể cho mỗi bộ phận chức năng trong DN, bao gồm: 3.5.3.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của Phòng kỹ thuật - Số lượng CNV được tham gia các khóa đào tạo, tập huấn - Số lượng các giải pháp kỹ thuật đề xuất - 3.5.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của Phòng vật tư - Tỷ lệ tiết kiệm giá mua vật tư - Số ngày dừng sản xuất do thiết vật tư - 3.5.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của Phòng kinh tế - kế hoạch - Giá trị hợp đồng được ký kết - Tỷ lệ tiết kiệm chi phí so với dự toán 3.5.3.4. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của Phòng tổ chức nhân sự - Số lượng công nhân viên được đào tạo - Tỷ lệ chi phí tuyển dụng, đào tạo và chi phí hoạt động tiết kiệm được so với dự toán 3.5.3.5. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của Phòng tài chính kế toán - Số ngày bị dừng hoạt động do thiếu vốn - Số ngày người lao động bị chậm lương - 3.5.3.6. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của các đơn vị thi công - Số lượng các sáng kiến, cải tiến kỹ thuật được áp dụng - Số ngày bàn giao công trình trước hạn -
  23. 23 3.6. NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ THỰC HIỆN GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HQKD TRONG CÁC DN XDCTGT THUỘC BỘ GTVT 3.6.1. Về phía doanh nghiệp Về mặt nhận thức: lãnh đạo các DN cần coi hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD là một công cụ để giúp DN kiểm soát và thực hiện mục tiêu chiến lược hơn là để báo cáo thành tích. Nhận thức này sẽ giúp DN đánh giá các thực chất hiệu quả hoạt động, tránh được căn bệnh hình thức. Về mặt tổ chức: DN cần phải tổ chức tốt hệ thông tin thông tin phục vụ quản trị DN, đặc biệt là hệ thống kế toán. Cần tổ chức tốt hệ thống kế toán quản trị trong DN. Đặc biệt là kế toán trách nhiệm để cung cấp thông tin phù hợp, kịp thời và tin cậy cho các nhà quản trị. Các DN cần xây dựng được hệ thống định mức và dự toán chi phí khoa học, hợp lý. Công tác phân tích chênh lệch dự toán và kiểm soát chi phí, đánh giá hiệu quả cần được coi trọng. DN cần quan tâm bồi dưỡng, nâng cao kiến thức về quản trị DN cho các nhà quản trị và nhân viên. 3.6.2. Về phía Nhà nước Cần thay đổi các chỉ tiêu đánh giá HQKD phù hợp với xu hướng chung của thế giới. Các chỉ tiêu đánh giá HQKD cần gắn với mục tiêu chiến lược của DN. Tránh sử dụng các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả không gắn với chiến lược kinh doanh hoặc có thể dẫn đến các hành vi gây hại cho DN. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ nâng cao kiến thức về quản trị và kinh doanh để nâng cao khả năng cạnh tranh của các DN. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Xuất phát từ định hướng phát triển ngành GTVT và sự cần thiết phải thực hiện thành công chiến lược của các DN XDCTGT, luận án đã trình bày quan điểm và đề xuất các giải pháp hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD trong các DN XDCTGT thuộc Bộ GTVT. Để các giải pháp này có thể thực hiện được, các điều kiện cần thiết để thực hiện giải pháp hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD được đề xuất trong luận án. Do mỗi DN có chiến lược kinh doanh khác nhau nên việc hoàn thiện và xây dựng chỉ tiêu để đánh giá HQKD chung cho các DN là rất khó. Tuy nhiên, các DN XDCTGT đều có mục tiêu chung là xây dựng những công trình giao thông có chất lượng cao, giá thành hạ trong thời gian ngắn nhất nên việc xây dựng cho các DN này một hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD là hoàn toàn có thể thực hiện được.
  24. 24 KẾT LUẬN Để thực hiện chiến lược phát triển GTVT đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, các DN XDCTGT phải sử dụng hiệu quả các nguồn lực có hạn hiện có. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD không chỉ giúp đánh giá tình hình và HQKD trong quá khứ mà còn phải giúp dự đoán được những thành công của DN trong tương lai. Đồng thời, hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD vừa giúp cho DN đánh giá và tìm biện pháp nâng cao HQKD trong ngắn hạn, vừa phải giúp đạt được thành công trong dài hạn và thực hiện được mục tiêu chiến lược của DN. Căn cứ vào mục tiêu đó, luận án đã đạt được một số kết quả: Thứ nhất, luận án đề cập đến cơ sở lý luận về HQKD và đánh giá HQKD trong các DN. Do đó, trước tiên luận án làm rõ về HQKD và đánh giá HQKD trong DN; tiếp theo, là vai trò của đánh giá HQKD trong DN và hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD trong DN. Thứ hai, luận án tiến hành khảo sát thực trạng sử dụng các chỉ tiêu đánh giá HQKD của các DN XDCTGT. Thông qua kết quả khảo sát, luận án đã đánh giá những ưu điểm cũng như tồn tại của tình hình thực tế sử dụng các chỉ tiêu đánh giá HQKD trong các DN XDCTGT, tác giả nhận thấy hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD trong các doanh nghiệp XDCTGT là việc làm cần thiết. Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu cấp thiết cần hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD trong các DN XDCTGT thuộc Bộ GTVT, luận án đã trình bày quan điểm và đề xuất các giải pháp hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD trong các DN này. Các giải pháp tác giả đưa ra có tính khả thi cao, song cũng cần thiết phải có các điều kiện để thực hiện giải pháp. Do đó, tác giả cũng đã đề cập đến các điều kiện giúp cho việc thực hiện giải pháp hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKD được đề xuất trong luận án.