Tiểu luận Đổi mới phân công và sử dụng lao động trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Đổi mới phân công và sử dụng lao động trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- tieu_luan_doi_moi_phan_cong_va_su_dung_lao_dong_trong_boi_ca.doc
Nội dung text: Tiểu luận Đổi mới phân công và sử dụng lao động trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 2 PHẦN NỘI DUNG 3 I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG 3 1. Phân công lao động và sử dụng lao động 3 1.1. Khái niệm 3 1.2. Tác dụng 4 1.3. Các hình thức phân công lao động 4 2. Cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức 5 2.1. Cách mạng khoa học công nghệ 5 2.1.1. Khái niệm 5 2.1.2. Khái quát lịch sử các cuộc cách mạng công nghiệp 5 2.2 Kinh tế tri thức 8 2.2.1. Sự hình thành và bản chất của kinh tế tri thức 8 2.2.2. Đặc điểm của nền kinh tế tri thức 8 II. THỰC TRẠNG PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM 8 1. Tác động của cách mạng khoa học công nghệ và kinh tế tri thức đến phân công lao động và sử dụng lao động nói chung 8 2. Những cơ hội và thách thức đặt ra cho lao động Việt Nam trong bối cảnh cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức 11 2.1. Cơ hội 11 2.2. Thách thức 12 3. Đổi mới phân công và sử dụng lao động trong bối cảnh cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam 15 III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỔI MỚI PHÂN CÔNG VÀ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM 19 1. Đối với chính phủ 19 2. Đối với hệ thống đào tạo và dạy nghề 20 3. Đối với Doanh nghiệp 21 4. Đối với người lao động 21 KẾT LUẬN 21 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 22
- MỞ ĐẦU Các cuộc cách mạng khoa học công nghệ và sự phát triển của kinh tế tri thức đã tạo những chuyển biến quan trọng trên phạm vi toàn cầu. Ngày nay, thế giới đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đó là xu hướng phát trển mới, dựa trên hệ thống vật lý mạng, là sự kết hợp của công nghệ mới trong các lĩnh vực vật lý, số hóa, tự động hóa và sinh học, tạo ra những khả năng hoàn toàn mới và có tác động sâu sắc tới các hệ thống chính trị, xã hội và kinh tế của thế giới. Chỉ trong hơn một thập kỷ trở lại đây, thế giới đã chứng kiến những sự nhảy vọt về công nghệ thông tin, internet và tự động hóa, cách mạng số, phát triển dựa trên tri thức và trí tuệ nhân tạo. Bên cạnh những ưu điểm và tác động tích cực, cuộc cách mạng công nghiệp mới cũng đang đặt ra cho các nước, các chính phủ, doanh nghiệp và người lao động nhiều vấn đề cần giải quyết và cần chuẩn bị. Trong đó vấn đề phân công và sử dụng lao động là vấn đề quan trọng hàng đầu. Với mỗi cuộc cách mạng khoa học công nghệ, việc phân công và sử dụng lao động có sự khác biệt rõ rệt, trong phạm vi tiểu luận này của học viên trong môn học Những vấn đề kinh tế chính trị đương đại, học viên nghiên cứu chủ yếu trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự phát triển của kinh tế tri thức với Chủ đề tiểu luận: “Đổi mới phân công và sử dụng lao động trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam”.
- PHẦN NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG 1. Phân công lao động và sử dụng lao động 1.1. Khái niệm Phân công lao động xã hội là việc chuyên môn hóa người sản xuất, mỗi người chỉ sản xuất một hoặc một vài sản phẩm nhất định, hay nói cách khác: Sự phân công lao động xã hội là cách điều chỉnh hạn chế một cách thích ứng những cá nhân vào những lĩnh vực nghề nghiệp đặc thù. Trình độ phát triển lực lượng sản xuất của một xã hội biểu hiện rõ nhất ở trình độ phân công lao động xã hội. Nói cách khác, sự phát triển lực lượng sản xuất là điều kiện quyết định trình độ phân công lao động xã hội; đặc biệt là sự phát triển của công cụ lao động. Đồng thời, phân công lao động, bản thân nó, tác động trở lại đến sự phát triển ngày càng có năng suất cao. Trong lịch sử, ở thời kỳ công trường thủ công, phân công lao động đóng vai trò đòn bẩy mạnh mẽ đối với sản xuất và tăng năng suất lao động, mặc dù kỹ thuật vẫn dựa trên cơ sở thủ công. Sử dụng lao động: nói đến sử dụng lao động là đề cập đến vấn đề người lao động và người sử dụng lao động. Theo Luật Lao động 2012, người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động. Người sử dụng lao động là doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao động; nếu là cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. 1.2. Tác dụng Sự phân công lao động trong xã hội làm cơ sở chung cho mọi nền sản xuất hàng hóa, chính sự phân công lao động trong xã hội làm cho sức lao động trở thành hàng hóa. Sự phân công lao động đặt cơ sở cho việc hình thành những nghề nghiệp chuyên môn, những ngành chuyên môn nhằm nâng cao sức sản xuất. Sự phân công lao động theo vùng với ngành sản xuất chuyên môn hóa đặc trưng sẽ là yếu tố quyết định sự khai thác có hiệu quả và phát huy thế mạnh của vùng. Sự phân công lao động trong xã hội khi đã phát triển đến một trình độ nào đó thì sẽ dẫn đến sự phân công lao động ở tầm vi mô – các xí nghiệp, các hãng sản xuất – điều này làm cho các giai đoạn sản xuất ra sản phẩm bị chia nhỏ, sản phẩm được hoàn thiện về chất lượng, dễ dàng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Sự phân công lao động áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật làm việc sản xuất đi vào chuyên môn hóa, nâng cao tay nghề của người sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội. 1.3. Các hình thức phân công lao động Có 3 hình thức phân công lao động: Phân công lao động theo công nghệ: là phân công loại công việc theo tính chất quy trình công nghệ, ví dụ: ngành dệt, may cơ khí. Hình thức này cho phép
- xác định nhu cầu công nhân theo nghề tạo điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn của công nhân. Phân công lao động theo trình độ: là phân công lao động theo mức độ phức tạp của công việc, hình thức này phân công thành công việc giản đơn và phức tạp (chia theo bậc). Hình thức này tạo điều kiện kèm cặp giữa các loại công nhân trong quá trình sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm, trình độ lành nghề của công nhân. Phân công lao động theo chức năng: là phân chia công việc cho mỗi công nhân viên của doanh nghiệp trong mối quan hệ với chức năng mà họ đảm nhận. Ví dụ: công nhân chính, công nhân phụ, công nhân viên quản lý kinh tế, kỹ thuật, hành chính Hình thức này xác định mối quan hệ giữa lao động gián tiếp và lao động trực tiếp và tạo điều kiện cho công nhân chính được chuyên môn hóa cao hơn nhờ không làm công việc phụ. 2. Cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức 2.1. Cách mạng khoa học công nghệ 2.1.1. Khái niệm Trong nghiên cứu lý luận, hiện nay có nhiều cách quan niệm về cách mạng khoa học công nghệ (hay công nghiệp), ở đây, theo cách tiếp cận của kinh tế chính trị Mác – Lênin có thể thấy rằng, khi lực lượng sản xuất phát triển, tiến bộ khoa học công nghệ trong lĩnh vực sản xuất có những thay đổi mang tính đột biến, triệt để làm thay đổi cơ bản các điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa và kỹ thuật, tại một thời điểm nhất định thì khi đó xuất hiện một cuộc cách mạng công nghiệp. Cách mạng khoa học công nghiệp được hiểu đó là những bước phát triển nhảy vọt về chất trình độ tư liệu lao động trên cơ sở những phát minh đột phá về kỹ thuật và công nghệ trong quá trình phát triển của nhân loại kéo theo sự thay đổi căn bản về trình độ phân công lao động xã hội cũng như tạo bước phát triển năng suất lao động cao hơn hẳn nhờ áp dụng một cách phổ biến những tính năng mới trong kỹ thuật – công nghệ đó vào đời sống xã hội. Cách mạng khoa học công nghiệp theo nghĩa hẹp: là cuộc cách mạng trong lĩnh vực sản xuất, tạo ra sự thay đổi cơ bản các điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa và kỹ thuật, xuất phát từ nước Anh sau đó lan tỏa ra toàn thế giới. Cách mạng khoa học công nghiệp theo nghĩa hẹp thường dùng để chỉ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra ở Anh, vào nửa cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp này là chuyển từ lao động thủ công, quy mô nhỏ lên lao động sử dụng máy móc, quy mô lớn. Cách mạng khoa học công nghiệp theo nghĩa rộng: là những cuộc cách mạng diễn ra ngày càng sâu rộng trong lĩnh vực sản xuất, dẫn đến những thay đổi cơ bản các điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa và kỹ thuật của xã hội loài người với mức độ ngày càng cao. Như vậy, theo nghĩa rộng thì “Cách mạng công nghiệp” bao quát tất cả các cuộc cách mạng công nghiệp trong lịch sử đều được đặc trưng bằng sự thay đổi về chất của sản xuất và sự thay đổi này được tạo ra bởi các tiến bộ đột phá của khoa học công nghệ. 2.1.2. Khái quát lịch sử các cuộc cách mạng công nghiệp
- Về mặt lịch sử, cho đến nay, loài người đã trải qua ba cuộc cách mạng công nghiệp và đang bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0). Cụ thể: Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất khởi phát từ nước Anh, bắt đầu từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX. Tiền đề của cuộc cách mạng này xuất phát từ sự trưởng thành về lực lượng sản xuất cho phép tạo ra bước phát triển đột biến về tư liệu lao động, trước hết trong lĩnh vực dệt vải sau đó lan tỏa ra các ngành kinh tế khác của nước Anh. Nội dung cơ bản của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất là chuyển từ lao động thủ công thành lao động sử dụng máy móc, thực hiện cơ giới hóa sản xuất bằng việc sử dụng năng lượng nước và hơi nước. Những phát minh quan trọng tạo tiền đề cho cuộc cách mạng này là: Phát minh máy móc trong ngành dệt như thoi bay của John Kay (1733), xe kéo sợi Jenny (1764), máy dệt của Edmund Cartwright (1785) làm cho ngành công nghiệp dệt phát triển mạnh mẽ. Phát minh máy động lực, đặc biệt là máy hơi nước của James Watt là mốc mở đầu quá trình cơ giới hóa sản xuất. Các phát minh trong công nghiệp luyện kim của Henry Cort, Henry Bessemer về lò luyện gang, công nghệ luyện sắt là những bước tiến lớn đáp ứng cho nhu cầu chế tạo máy móc. Trong ngành giao thông vận tải, sự ra đời và phát triển của tàu hỏa, tàu thủy đã tạo điều kiện cho giao thông vận tải phát triển mạnh mẽ. Nghiên cứu về cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, C.Mác đã khái quát tính quy luật của cách mạng công nghiệp qua ba giai đoạn phát triển là: hiệp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp. C.Mác khẳng định đó là ba giai đoạn tăng năng suất lao động xã hội; ba giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất gắn với sự củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa; đồng thời cũng là ba giai đoạn xã hội hóa lao động và sản xuất diễn ra trong quá trình chuyển biến từ sản xuất nhỏ, thủ công, phân tán lên sản xuất lớn, tập trung, hiện đại. Cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra vào nửa cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Nội dung của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai được thể hiện ở việc sử dụng năng lượng điện và động cơ điện, để tạo ra các dây chuyền sản xuất có tính chuyên môn hóa cao. Nội dung của cuộc cách mạng này là chuyển nền sản xuất cơ khí sang nền sản xuất điện – cơ khí và sang giai đoạn tự động hóa cục bộ trong sản xuất. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai là sự tiếp nối cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, với những phát minh về công nghệ và sản phẩm mới được ra đời và phổ biến như điện, xăng dầu, động cơ đốt trong. Kỹ thuật phun khí nóng, công nghệ luyện thép Bessemer trong sản xuất thép đã làm tăng nhanh sản lượng, giảm chi phí và giá thành sản xuất. Ngành sản xuất giấy phát triển kéo theo sự phát triển của ngành in ấn và phát hành sách, báo. Ngành chế tạo ô tô, điện thoại, sản phẩm cao su cũng được phát triển nhanh. Sự ra đời của những phương pháp quản lý sản xuất tiên tiến của H.For và Taylor như dây chuyền, phân công lao động chuyên môn hóa được ứng dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp đã thúc đẩy nâng cao năng suất lao động. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai cũng đã tạo ra những tiến bộ vượt bậc trong giao thông vận tải và thông tin liên lạc.
- Cách mạng công nghiệp lần thứ ba bắt đầu từ khoảng những thập niên 60 của thế kỷ XX đến cuối thế kỷ XX. Đặc trưng cơ bản của cách mạng này là sử dụng công nghệ thông tin, tự động hóa sản xuất. Cách mạng công nghiệp lần thứ ba diễn ra khi có các tiến bộ về hạ tầng điện tử, máy tính và số hóa vi mô được xúc tác bởi sự phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính (thập niên 1960), máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 1980) và Internet (thập niên 1990). Đến cuối thế kỷ XX, quá trình này cơ bản hoàn thành nhờ những thành tựu khoa học công nghệ cao. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba đã chuyển từ công nghiệp điện tử - cơ khí, sang công nghệ số. Sản phẩm được sản xuất hàng loạt với sự chuyên môn hóa cao, cùng với sự phát triển của cách mạng Internet, máy móc điện tử, điện thoại di động. Những tiến bộ kỹ thuật công nghệ nổi bật trong giai đoạn này là: hệ thống mạng, máy tính cá nhân, thiết bị điện tử sử dụng công nghệ số và robot công nghiệp. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được đề cập lần đầu tiên tại Hội chợ triển lãm công nghệ Hannover (CHLB Đức) năm 2011 và được Chính phủ Đức đưa vào “Kế hoạch hành động chiến lược công nghệ cao” năm 2012. Gần đây tại Việt Nam cũng như trên nhiều diễn đàn kinh tế thế giới, việc sử dụng thuật ngữ cách mạng công nghiệp lần thứ tư với hàm ý có một sự thay đổi về chất trong lực lượng sản xuất trong nền kinh tế thế giới. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được hình thành trên cơ sở cuộc cách mạng số, gắn với sự phát triển và phổ biến của Internet kết nối vạn vật với nhau (Internet of Things – IoT). Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được phát triển ở ba lĩnh vực chính là vật lý, công nghệ số và sinh học. Biểu hiện đặc trưng là sự xuất hiện các công nghệ mới có tính đột phá về chất so với các công nghệ truyền thống. Trong lĩnh vực vật lý thông tin, có nhiều công nghệ mới xuất hiện và nhanh chóng được áp dụng một cách phổ biến. Công nghệ in 3D, Big Data, Blockchain chẳng hạn. Công nghệ in 3D là công nghệ tạo ra một đối tượng vật lý bằng cách in theo các lớp từ một bản vẽ hay một mô hình 3D có trước. Cùng với công nghệ in 3D, trong lĩnh vực vật lý còn có sự phát triển của cảm biến – bộ cảm biến là thiết bị điện tử cảm nhận trạng thái hay quá trình vật lý, hóa học ở môi trường khảo sát và biến đổi thành tín hiệu điện tử để thu thập thông tin về trạng thái hay quá trình đó. Thông tin sau đó sẽ được xử lý để rút ra tham số định tính hoặc định lượng, phục vụ cho các nhu cầu nghiên cứu, nhu cầu kinh tế - xã hội, môi trường và dân sinh. Ngoài ra, trong lĩnh vực vật lý còn có sự phát triển của công nghệ xe tự hành, hiện đang được thử nghiệm ở giai đoạn cuối và sẽ được thương mại hóa trong tương lai gần, khi đó sẽ dẫn đến những thay đổi lớn trong lĩnh vực giao thông vận tải và bảo vệ môi trường. Về công nghệ số nhưng công nghệ nổi bật là Internet kết nối vạn vật, dữ liệu lớn, trí thông minh nhân tạo và chuỗi khối. Internet phát triển giúp kết nối vạn vật thông qua mạng wifi, mạng viễn thông băng thông rộng (3G, 4G) Bluetooth, Zigbee, hồng ngoại sẽ hình thành các hệ thống thông minh và các hệ thống thông minh này kết nối với nhau, để hình thành hệ thống thông minh lớn hợp nhất như: nhà thông minh, văn phòng thông minh, thành phố thông minh, đô thị thông minh, công nghiệp thông minh, nông nghiệp thông minh Dữ liệu lớn (Big Data) là một tập hợp dữ liệu rất lớn và phức tạp, được xử lý để
- lấy các thông tin thích hợp phục vụ cho các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa hoặc môi trường. Công nghệ Blockchain cho phép một cơ sở dữ liệu được chia sẻ trực tiếp không thông qua trung gian, trong tương lai Blockchain sẽ được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như: bầu cử, khai sinh, kết hôn, xác nhận tài liệu, văn bằng Về công nghệ sinh học, nổi bật là các công nghệ về gen và tế bào, công nghệ phức hợp y sinh – thông tin (kết hợp thông tin với các bộ phận cơ thể sống). Sự phát triển của công nghệ sinh học tổng hợp trong tương lai sẽ cho phép các nhà khoa học tạo ra các AND, cấy ghép để tạo ra những bộ phận thay thế trong cơ thể người, giúp chữa những căn bệnh nan y như ung thư, huyết áp, tiểu đường từ đó giúp kéo dài tuổi thọ con người, công nghệ gen thậm chí có thể tạo ra những giống, loài động, thực vật kể cả con người, có thể chống chọi được với điều kiện môi trường tự nhiên khắc nghiệt. Công nghệ gen cũng giúp ngành nông nghiệp gia tăng sản lượng lương thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu gia tăng dân số nhanh chóng. Như vậy, mỗi cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện có những nội dung cốt lõi về tư liệu lao động. Sự phát triển của tư liệu lao động đã thúc đẩy sự phát triển của văn minh nhân loại. Theo nghĩa đó, vai trò của cách mạng công nghiệp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thúc đẩy phát triển. 2.1.3. Vai trò của cách mạng công nghiệp đối với phát triển Vai trò của các cuộc cách mạng công nghiệp đối với phát triển có thể được khái quát như sau: Một là, thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất Hai là, thúc đẩy hoàn thiện quan hệ sản xuất. Ba là, thúc đẩy đổi mới phương thức quản trị phát triển 2.2 Kinh tế tri thức 2.2.1. Sự hình thành và bản chất của kinh tế tri thức Từ những năm cuối của thế kỷ XX, khoa học và công nghệ có bước phát triển nhảy vọt, đặc biệt là xuất hiện cách mạng thông tin, cách mạng tri thức và sự bùng nổ của công nghệ cao làm ra đời nền kinh tế tri thức. Nền kinh tế tri thức đã cuốn mọi quốc gia, dù là nước phát triển hay đang phát triển. Kinh tế tri thức là lĩnh vực mà ở đó mỗi sản phẩm hay toàn bộ sản phẩm được tạo bởi nguồn gốc là tri thức chiếm tỷ trọng chủ yếu (70 – 75% trở lên) Bản chất của nền kinh tế tri thức: là nền kinh tế sử dụng có hiệu quả tri thức cho phát triển kinh tế và xã hội, bao gồm cả việc khai thác kho tri thức toàn cầu, cũng như làm chủ, sáng tạo ra tri thức đáp ứng nhu cầu riêng của mình (UNDP – 2014). Trong nền kinh tế tri thức, hoạt động chủ yếu nhất là sáng tạo ra tri thức, quảng bá tri thức và sử dụng tri thức, biến tri thức thành giá trị. Sức lao động trở thành động lực trực tiếp nhất của sự phát triển. 2.2.2. Đặc điểm của nền kinh tế tri thức Nền kinh tế tri thức bao gồm một số đặc điểm sau: Một là, hoạt động kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức. Hai là, sáng tạo và đổi mới là động lực phát triển “phát minh trở thành một nghề đặc biệt”.
- Ba là, hoạt động kinh tế có tính toàn cầu hóa, mạng thông tin là kết cấu hạ tầng quan trọng nhất. Bốn là, sự di chuyển cơ cấu lao động theo hướng gia tăng số lao động trí tuệ và dịch vụ. Sự chuyển đổi về cơ cấu các ngành kinh tế. Năm là, nền kinh tế dựa trên sự học tập và nhân lực tài năng. Sáu là, tri thức hóa các quyết sách kinh tế. II. THỰC TRẠNG PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM 1. Tác động của cách mạng khoa học công nghệ và kinh tế tri thức đến phân công lao động và sử dụng lao động nói chung Các cuộc cách mạng công nghiệp có những tác động vô cùng to lớn đến sự phát triển lực lượng sản xuất của các quốc gia. Và đồng thời, tác động mạnh mẽ tới quá trình điều chỉnh cấu trúc và vai trò của các nhân tố trong lực lượng sản xuất xã hội. Về tư liệu lao động, từ chỗ máy móc ra đời thay thế cho lao động chân tay cho đến sự ra đời của máy tính điện tử, chuyển nền sản xuất sang giai đoạn tự động hóa, tài sản cố định thường xuyên được đổi mới, quá trình tập trung hóa sản xuất được đẩy nhanh. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dưới tác động của công nghệ thông tin hiện đại đang tạo ra những biến đổi to lớn trong phân công lao động xã hội, cụ thể là: Phân công lao động dưới tác động của công nghệ thông tin đang thay đổi theo hướng tăng lao động trí óc, giảm lao động chân tay, mà điển hình là sự xuất hiện một dạng lao động mới - lao động thông tin. Đây là loại lao động liên quan trực tiếp đến thông tin, đến các quy trình, như đầu vào, đầu ra, xử lý thông tin. Những người lao động trong lĩnh vực thông tin rất đa dạng, đa ngành nghề; họ có thể là những nhân viên văn phòng, người lập trình, chuyên gia, kỹ sư, nhà nghiên cứu, doanh nhân, nhà phân tích Nhiệm vụ của họ là sản xuất, xử lý, trao đổi thông tin, cung cấp những cơ sở cho việc ra quyết định. Đòi hỏi đối với lao động thông tin là không chỉ nắm vững khả năng thao tác, mà còn phải có khả năng thích ứng và sáng tạo với những thay đổi liên tục của công việc, nhằm thu được hiệu quả tối đa. Như vậy, phân công lao động trong nền kinh tế mới không còn phụ thuộc chủ yếu vào tài nguyên thiên nhiên, ngành nghề được đào tạo, nguồn lao động dồi dào hay lượng tư bản lớn như trước đây, mà ngày càng dựa nhiều hơn vào lực lượng lao động có năng lực sáng tạo, khả năng vận dụng kiến thức, trong đó lao động thông tin là một loại lao động trực tiếp sản xuất ra tri thức. Đi kèm với sự xuất hiện của lao động thông tin là sự biến đổi nhanh chóng trong cơ cấu ngành nghề của nền kinh tế. Việc thu hẹp những ngành nghề trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và xu hướng mở rộng, phát triển các loại ngành nghề mới thuộc lĩnh vực hoạt động dịch vụ tất yếu kéo theo sự thay đổi về cơ cấu lao động. Số lao động trong các lĩnh vực có liên quan đến thông tin và xử lý thông tin tăng nhanh, đặc biệt là trong các lĩnh vực phần mềm máy tính, nghiên cứu triển khai, phân tích, đo lường, giáo dục - đào tạo và hàng loạt các ngành khác. Cơ cấu lao động biến đổi theo hướng tăng đội ngũ lao động chất
- xám. Vai trò của người điều hành sản xuất ngày càng trở nên hết sức quan trọng, quyết định sự thành bại của các công ty, các tổ chức kinh tế. Như vậy, ngoài việc đem lại những lợi ích to lớn, như thúc đẩy nền kinh tế phát triển vượt bậc, tạo ra của cải vật chất ngày càng nhiều, tạo những cơ hội có việc làm mới thì nền sản xuất mới, với những đòi hỏi khắt khe về năng lực và kỹ năng lao động cũng sẽ loại trừ những cá nhân không đáp ứng được những yêu cầu đó. Có thể thấy, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nòng cốt là cách mạng công nghệ thông tin đã góp phần làm biến đổi nội dung và tính chất của lao động. Về nội dung, lao động đang chuyển dần từ lao động thủ công, lao động cơ khí sang lao động thông tin, lao động trí tuệ. Về tính chất, lao động đang biến đổi theo hướng ngày càng mang tính xã hội hoá sâu sắc. Lao động được xã hội hoá thể hiện ở việc tổ chức sản xuất trực tiếp giữa các đơn vị sản xuất diễn ra trên một quy mô lớn với sự phân công lao động vừa đảm bảo khả năng chuyên môn hoá, vừa có khả năng phi chuyên môn hoá một cách rộng rãi. Sự biến đổi nội dung và tính chất của lao động dưới tác động của cuộc cách mạng trong công nghệ thông tin đặt ra một câu hỏi là, phải chăng bản chất của lao động đang có sự thay đổi? Chúng ta biết rằng, trong các nền sản xuất dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, lao động là một sự bắt buộc, bị thúc bách bởi những nhu cầu bên ngoài lao động và trở thành cái mà C.Mác gọi là “lao động bị tha hoá”. Ngày nay, với sự thay đổi nội dung và tính chất của lao động, chúng ta có thể hy vọng rằng, lao động không còn là một thứ nô dịch, lao động đang dần trở về đúng với bản chất đích thực của nó, tức là lao động đã thực sự trở thành một nhu cầu, là hoạt động tự do và sáng tạo của con người. Công nghệ thông tin đã và đang tạo tiền đề cho việc thay đổi vị trí, chức năng của con người trong quá trình sản xuất. Với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều chức năng mà con người trực tiếp đảm nhận trong chu trình sản xuất trước đây được chuyển giao dần cho máy móc. Điều này đã giúp con người có thể giảm thiểu thời gian cho các hoạt động vật chất và dành nhiều thời gian hơn cho các hoạt động tinh thần, sáng tạo và hưởng thụ. Con người không còn bị cột chặt vào guồng máy sản xuất như trong nền kinh tế công nghiệp, mà họ được tự do hơn trong các hoạt động của mình. Công nghệ thông tin cùng các công nghệ khác của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang góp phần tạo ra một hệ thống "khoa học - kỹ thuật - sản xuất" thống nhất. Với hệ thống này, lao động ngày càng mang nhiều nội dung khoa học, trí tuệ và sáng tạo. Song, cần phải lưu ý rằng, điều đó không có nghĩa là những tiến bộ của công nghệ nói chung và công nghệ thông tin nói riêng là nguyên nhân duy nhất quyết định sự thay đổi bản chất của lao động. Chủ nghĩa Mác đã chỉ ra rằng, bản chất của lao động là sáng tạo, nhưng dưới chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, cái bản chất tốt đẹp đó của lao động đã bị tha hoá. Bởi vậy, nếu chỉ căn cứ vào sự phát triển của các tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ mà khẳng định trong nền kinh tế thông tin, lao động đã trở về với bản chất sáng tạo ban đầu của nó thì chưa thoả đáng. Ở điểm này, chúng ta cần phải lưu ý tới quan điểm của thuyết kỹ trị khi thuyết này cho rằng, sự phát triển của kỹ thuật sẽ quyết định toàn bộ sự phát triển của các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Trong thực tế, điều đó đã không diễn ra đúng như vậy; bởi lẽ, trong xã hội vẫn còn tồn tại sự
- đối kháng về lợi ích giữa người giàu với người nghèo, giữa các nước phát triển với các nước kém phát triển. Mâu thuẫn lớn nhất hiện nay của xã hội tư bản, kể cả các nước tư bản phát triển cao nhờ công nghệ thông tin như nước Mỹ, vẫn là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá cao độ của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Mặc dù, chủ nghĩa tư bản đã có những điều chỉnh nhất định trong phân phối và đa dạng hoá các hình thức sở hữu do sự bắt buộc của sản xuất, song bản chất của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa vẫn không hề thay đổi. Dù cho một bộ phận dân cư có sự chuyển dời về địa vị xã hội, hoặc được cải thiện về mặt đời sống thì nhìn tổng thể, quyền lực vẫn thuộc về những nhà tư bản lớn, những nhóm người có khả năng thao túng kinh tế quốc gia, thậm chí cả nền kinh tế thế giới. Trong nền kinh tế hiện đại, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất đã phát triển vượt bậc và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trên bình diện quốc tế vẫn còn tồn tại khá phổ biến. Mặc dù lực lượng sản xuất đã có bước phát triển nhảy vọt về chất, song quan hệ sản xuất vẫn chưa có những thay đổi tương ứng, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất cả ở tầm quốc gia lẫn quốc tế. Tuy một số cường quốc tư bản hàng đầu đã có những điều chỉnh trong chính sách phát triển, nhưng đó vẫn chỉ là những cải biến để thích ứng và mang tính cục bộ. Nhìn tổng thể, chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất ở những quốc gia này vẫn tiếp tục được duy trì và đây chính là nguồn gốc của những mâu thuẫn gay gắt trong xã hội tư bản. Hơn nữa, ngày nay, sự thống trị của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa không còn bó hẹp trong các nước tư bản chủ nghĩa, mà đã bao trùm trên phạm vi toàn cầu, thông qua các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia. Người nắm giữ các công ty này đều là những tập đoàn tư bản lớn của các nước tư bản phát triển. Họ có đủ tiềm lực để nắm bắt, chiếm lĩnh những thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ, đặc biệt là những thành tựu của công nghệ thông tin. Có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng, trong thời đại thông tin, kinh tế tri thức ngày nay, ai nắm giữ được thông tin người đó sẽ chiến thắng và giữ quyền thống trị. Các nước tư bản phát triển đang làm được điều đó và do vậy, mâu thuẫn giữa con người với con người trong thời đại thông tin ngày nay chưa thể bị triệt tiêu. Bởi vậy, hoàn toàn không nên ảo tưởng rằng, sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại có thể làm thay đổi được bản chất của chủ nghĩa tư bản. Chính ở đây, những nghiên cứu sâu hơn về tác động của công nghệ hiện đại, trong đó có công nghệ thông tin, trong tương quan với các biến đổi xã hội khác là một đòi hỏi cấp thiết. 2. Những cơ hội và thách thức đặt ra cho lao động Việt Nam trong bối cảnh cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức Nói đến bối cảnh của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức hiện nay đó chính là việc đề cập đến cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đối với Việt Nam, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có những ảnh hưởng to lớn, mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra không ít thách thức trong vấn đề liên quan đến lao động Việt Nam. 2.1. Cơ hội Cách mạng công nghiệp 4.0 mở ra rất nhiều cơ hội làm việc mới, hứa hẹn
- khả năng gia tăng năng suất và nâng cao thu thập cho người lao động. Cụ thể: Thứ nhất, Việt Nam hiện vẫn là quốc gia có lợi thế về số lượng lao động trẻ và lao động giá rẻ. Cách mạng 4.0 có thể dẫn đến xu hướng chuyển dịch các ngành công nghiệp truyền thống sử dụng nhiều lao động từ các nước phát triển sang các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam ( K ergroach, 2017). Nếu như xu hướng chuyển dịch này là rõ ràng thì Việt Nam thì tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam sẽ không ở mức quá cao. Tuy nhiên lợi thế về lao động giá rẻ sẽ mất dần đi khi chúng ta dân số dần bị già hoá. Do vậy về mặt dài hạn, tăng trưởng cần dựa vào sự gia tăng của chất lượng lao động. Thứ hai, nhiều nhà phân tích cho rằng những cơ hội việc làm mới sẽ được tạo ra trong cách mạng 4.0. Đặc biệt nhu cầu đối với những lao động có khả năng kết hợp giữa máy móc với những kiến thức về kỹ thuật điện tử, điều khiển và thông tin hay chính là kiến thức STEM (Tomas Volek; Martina Novotnas, 2017). Cuộc cách mạng này sẽ tạo ra những thay đổi trong cơ cấu lao động giữa các ngành mà ở đó chúng ta có thể kỳ vọng nhu cầu sử dụng lao động trong các ngành công nghiệp sản xuất truyền thống sẽ giảm đi trong khi nhu cầu lao động trong ngành dịch vụ có sự tăng lên. Sự tăng lên của cầu lao động trong những ngành dịch hứa hẹn sẽ góp phần tăng thu nhập cho người lao động. Thứ ba, cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra áp lực và đồng thời là cơ hội để lao động phải Việt Nam không ngừng nâng cao trình độ, kỹ năng cũng như tạo áp lực đổi mới lên hệ thống giáo dục đào tạo để có thể đáp ứng nhu cầu về nhân lực trong thời kỳ mới. Những cơ hội việc làm mới được tạo ra đòi hỏi người lao động phải có trình độ và kỹ năng tương ứng như các kỹ năng giải quyết vấn đề, teamwork, giao tiếp, công nghệ thông tin là những kỹ năng mà đại bộ phận lao động Việt Nam đang thiếu và yếu. Để đáp ứng được những yêu cầu công việc mới đòi hỏi sự nỗ lực của bản thân người lao động và đặc biệt sự đổi mới và phát triển của hệ thống giáo dục đào tạo. Thứ tư, năng suất lao động trong cách mạng 4.0 có xu hướng được cải thiện do việc giảm nhu cầu sử dụng lao động là con người mà thay bằng máy móc và robots. Với công nghệ phát triển, các nhà máy sản xuất có thể tránh được những lỗi phát sinh bởi máy móc do có khả năng phân tích và dự đoán trước các lỗi kỹ thuật. Hiệu quả sản xuất có thể sẽ được cải thiện nhanh hơn do các dịch vụ kho vận được nâng cấp, giảm tiêu hao năng lượng và sử dụng nguyên liệu , từ đó tiết kiệm chi phí sản xuất cho doanh nghiệp trong khi doanh thu có xu hướng tăng do đáp ứng được tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Người lao động lúc này được sử dụng một cách hiệu quả hơn và chỉ cho những công việc mà thực sự đòi hỏi sự có mặt của con người. Năng suất của người lao động tăng lên tạo cơ hội để Việt Nam tạo ra những đột phá trong cải thiện tiền lương và thu nhập cho người lao động. Như vậy nếu Việt Nam có thể tận dụng được những lợi thế này do cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại thì đó sẽ là cú huých rất lớn giúp người lao động có được những công việc làm tốt hơn, giúp cải thiện năng suất và thu nhập của họ 2.2. Thách thức
- Cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại rất nhiều thách thức đối với các quốc gia nói chung và đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam nói riêng. Một là, thiếu hụt lao động có trình độ và kỹ năng phù hợp. Như đã phân tích ở trên, Việt Nam vẫn là nước có lợi thế về số lượng lao động, nhưng chất lượng lao động thấp đang là vấn đề báo động đối với nước ta. Do vậy, thách thức lớn nhất đặt ra cho chúng ta là thiếu hụt nguồn nhân lực có trình độ. Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, các công ty sẽ gia gia tăng nhu cầu sử dụng lao động có trình độ và thay thế dần giữa sử dụng giữa lao động và vốn. Điều đó có nghĩa là việc sử dụng lao động vẫn là cần thiết nhưng vai trò của người lao động sẽ thay đổi. Các doanh nghiệp sẽ có nhu cầu nhiều hơn với những lao động có khả năng tích hợp các kiến thức về công nghệ, tự động hoá, thông tin và những kỹ năng mềm quan trọng như teamwork, giao tiếp, giải quyết vấn đề, kỹ năng về công nghệ thông tin trong khi lại cắt giảm nhu cầu đối với các lao động giản đơn. Hai là, thách thức trong chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng năng suất lao động và thu nhập cho người lao động. Hiện có khoảng 40% lao động Việt Nam đang làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp với năng suất lao động cực thấp. Trong cuộc cách mạng 4.0, một số ngành nghề sử dụng lao động giản đơn sẽ không còn nhưng những ngành nghề mới đòi hỏi lao động có trình độ sẽ ra đời. Trong nông nghiệp, việc tăng cường ứng dụng công nghệ trong nông nghiệp sẽ góp phần tăng suất, sản lượng, giảm số giờ lao động của lao động nông nghiệp. Nhưng để có thể thực sự tạo ra sự cải thiện đột phá trong lĩnh vực nông nghiệp, một mặt nó đòi hỏi người nông dân phải có những kỹ năng tay nghề mới, mặt khác lao động nông nghiệp, nông thôn cần có sự chuẩn bị về trình độ và kỹ năng để có thể chuyển dịch thành công từ lĩnh vực nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành sản xuất, lao động giản đơn trong ngành dệt may, giày da và trong ngành điện tử có khả năng rất lớn sẽ bị thay thế khi máy móc, công nghệ và tự động hoá diễn ra trên quy mô rộng (ILO,2018). Do đó, để có thể đáp ứng được với yêu cầu của công việc trong tình hình mới đòi hỏi nguồn nhân lực phải được trang bị kiến thức, kỹ năng cần thiết. Tuy nhiên, như đã chỉ ra ở trên, lao động của chúng ta đa phần là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo, các kỹ năng cứng mà mềm cũng thiếu và yếu, vậy nên bài toán chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng năng suất và thu nhập trở thành một bài toán không đơn giản. Ba là, thách thức trong việc gia tăng bất bình đẳng giữa các tầng lớp lao động. Bất bình đẳng nổi lên giữa các tầng lớp lao động do cơ cấu lao động thay đổi và những bộ phận lao động kém thích nghi với công nghệ mới sẽ bị đào thải. Bất bất bình đẳng vì thế tăng lên giữa các ngành kinh tế, giữa các vùng miền, giữa thành thị và nông thôn ( Zoltán Rajnai; István Kocsis, 2017). Những nhóm lao động nghèo sẽ là những người bị ảnh hưởng rất nhiều trong bối cảnh của công nghệ số. Cách mạng 4.0 cũng có thể khiến bất bình đẳng về giới tăng lên do phụ nữ vẫn thường được xem là kém thích ứng với sự thay đổi của công nghệ hơn là nam giới. Với tỷ lệ 48% lao động là nữ như
- hiện nay cho thấy nếu không có những chính sách chuẩn bị và hỗ trợ cho lao động nữ trong bối cảnh công nghệ thì bộ phận lao động này có khả năng bị tổn thương rất lớn. Bốn là, thách thức đặt ra đối với hệ thống giáo dục đào tạo. Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố then chốt để đảm bảo sự thành công của Việt Nam trong bối cảnh của cách mạng 4.0. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, khâu đột phá là đổi mới và nâng cao giáo dục và đào tạo. Nhưng vấn đề đặt ra cho Việt Nam là nền giáo dục đào tạo của chúng ta còn ở trình độ thấp và chậm được đổi mới. Mặc dù công cuộc đổi mới giáo dục nước nhà đã được tiến hành từ khá lâu nhưng chưa đạt được những thành tựu khả quan. Hiện vẫn còn rất nhiều khoảng trống và bất cập trong hệ thống giáo dục và đào tạo của Việt Nam. Bằng chứng là mặc dù nhu cầu với lao động, đặc biệt là lao động trình độ cao là rất cao nhưng các doanh nghiệp lại không thể tìm được những người lao động tốt và đáp ứng được nhu cầu của công việc. Trong khi đó có một thực tế là tỷ lệ thất nghiệp, đặc biệt là thất nghiệp của đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao lại ở mức cao (đã phân tích ở trên). Điều này cho thấy khoảng cách giữa đào tạo, đặc biệt là đào tạo đại học với nhu cầu xã hội là rất lớn. hông chỉ chất lượng đào tạo thấp, hiện còn tồn tại sự bất hợp lý trong cơ cấu đào tạo chung, cơ cấu đào tạo theo ngành cũng như sự thiếu hụt lao động ở một số ngành mà thị trường lao động đang có nhu cầu. Đặc biệt, một trong những đặc thù của cách mạng 4.0 là kết nối và chia sẻ dữ liệu. Do vậy việc giảng dạy, đặc biệt là giảng dạy kỹ sư phải có khả năng tích hợp được nhiều kiến thức bằng phương pháp STEM. Nhưng trong số 350 trường đại học ở Việt Nam, chỉ có 12 trường có nhóm giảng viên được trang bị kiến thức giảng dạy bằng phương pháp STEM. Trong bố cảnh mới đòi hỏi người lao động không chỉ có được năng lực phối hợp, tổ chức tốt các công việc và còn phải có được những kỹ năng phối hợp với nhau và có được tư duy đổi mới sáng tạo mới có thể thích ứng tốt với những yêu cầu của công việc. Điều này đòi hỏi phải có những quan điểm về giáo dục và đào tạo mới: đó là liên tục, mở và mang tính khai phóng. Cách tiếp cận của chúng ta đối với quan điểm giáo dục này còn hạn chế. Năm là, Việt Nam chưa có sự chuẩn bị đáng kể nào trước thời đại của công nghệ số. Tại Hội nghị Industry 4.0 Summit and Expo 2018 tổ chức tại Hà Nội vào ngày 13 tháng 7 năm 2018, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khẳng định Việt Nam đã sẵn sàng đón nhận những thách thức của cuộc cách mạng 4.0 và tận dụng những cơ hội mà nó mang lại. Theo số liệu từ cuộc điều tra khảo sát do Vietnam ICT Summit thực hiện thì có 35,2% các doanh nghiệp Việt đã sẵn sàng cho cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp, IT và trong lĩnh vực ngân hàng. Tuy nhiên, theo đánh giá của các tổ chức quốc tế Việt Nam lại chưa có sự chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc cách mạng này. Theo báo cáo mới nhất của diễn đàn kinh tế thế giới đánh giá sự sẵn sàng của các quốc gia trước tương lai của nền sản xuất thế giới thì Việt Nam nằm
- trong các quốc gia “Nascent countries”, tức là thuộc nhóm các quốc gia sơ khai, đứng ở thứ hạng cuối cùng và chưa có chuẩn bị tốt cho cuộc cách mạng này. Theo đó, trong số 100 quốc gia được đánh giá, Việt Nam đứng thứ 48 về chỉ số cơ cấu sản xuất và đứng thứ 53 về chỉ số các nhân tố dẫn dắt sản xuất có khoảng cách rất xa với Malaysia (lần luợt xếp thứ 20 và 22 về hai chỉ số này) và Thái Lan (xếp thứ 12 và 35). Đánh giá sự sẵn sàng của một số quốc gia đối với tương lai của nền sản xuất thế giới Chỉ số cấu trúc Chỉ số các yếu tố sản xuất dẫn dắt sản xuất Tên quốc gia Điểm Xếp Điểm Xếp hạng hạng Trung Quốc 8,25 5 6,14 2 Malaysia 6,81 2 6,51 5 2 Singapore 7,28 0 1 7,96 1 2 Ấn Độ 5,99 1 3 5,24 4 Phillipines 6,12 0 2 4,51 4 6 Thái Lan 7,13 8 1 5,45 6 3 HongKong 4,52 2 5 7,45 5 8 Qatar 3,89 8 7 5,96 2 Việt Nam 4,96 2 4 4,93 9 5 Nguồn: (WEF,8 2018) 3 Đáng chú ý là trong các tiêu chí để đánh giá các nhân tố dẫn dắt sản xuất, các yếu tố liên quan đến đổi mới sáng tạo và công nghệ sáng tạo chiếm một tỷ trọng lớn cho thấy năng lực đổi mới sáng tạo của Việt Nam còn ở mức thấp (WEF, 2018). Điều này là một trở ngại không nhỏ cho chúng ta khi bước vào cuộc cách mạng 4.0. Tuy vậy, cũng có thể thấy rằng tuy Việt Nam nằm trong các nhóm nước được xếp hạng ở vị trí cuối cùng về mức độ sẵn sàng nhưng vị trí của chúng ta đang khá gần với nhóm nước tiềm năng. Do vậy, trong thời gian tới nếu Việt Nam có những chiến lược đúng đắn, chúng ta có nhiều cơ hội cải thiện năng lực đổi mới và sẵn sàng hơn trước kỷ nguyên số. 3. Đổi mới phân công và sử dụng lao động trong bối cảnh cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự phát triển kinh tế trí thức hiện nay, vấn đề phân công lao động và sử dụng lao động ở Việt Nam có sự thay đổi theo xu thế chung của khu vực và thế giới. Việt Nam hiện là quốc gia sở hữu lực lượng lao động dồi dào với gần 55 triệu lao động. Đại bộ phận lao động của chúng ta là lao động trẻ.
- Lực lượng lao động Việt Nam qua các năm phân theo nhóm tuổi Cơ cấu(%) Tổng số Năm (nghìn người) 15 - 24 25 - 49 50+ 15 - 24 25 - 49 50+ 2000 38.545,4 8.289,1 25.474,1 4.782,2 21,5 66,1 12,4 2002 40.716,0 8.776,8 26.783,9 5.155,3 21,6 65,7 12,7 2004 43.008,9 9.060,6 27.236,0 6.712,3 21,1 63,3 15,6 2006 46.238,7 9.727,4 29.447,7 7.063,6 21,0 63,7 15,3 2008 48.209,6 8.734,3 29.973,4 9.501,9 18,1 62,2 19,7 2010 50.392,9 9.245,4 30.939,2 10.208,3 18,3 61,4 20,3 2012 52.348,0 7.887,8 32.014,5 12.445,7 15,1 61,1 23,8 2014 53.748,0 7.585,2 32.081,0 14.081,8 14,1 59,7 26,2 2016 54.445,3 7.510,6 32.418,3 14.516,4 13,8 59,5 26,7 Sơ bộ 59,5 2017 54.823,8 7.581,1 32.599,2 14.643,5 13,8 26,7 Nguồn: GSO Lực lượng lao động nằm trong độ tuổi từ 15 đến 49 hiện chiếm trên 73% lực lượng lao động, trong đó lao động từ 15 đến 24 tuổi chiếm gần 14% và lao động từ 25 đến 49 tuổi chiếm 60%. Cơ cấu lao động Việt Nam hiện vẫn đang ở trong thời kỳ dân số vàng và chúng ta vẫn được xem là quốc gia đang có lợi thế về số lượng lao động. Tuy nhiên chúng ta đang mất dần đi lợi thế này khi chuẩn bị bước vào thời kỳ già hoá dân số. Lao động từ 50 tuổi trở lên đang bắt đầu tăng nhanh từ mức 12,4% vào năm 2000 lên gấp hơn 2 lần, 26,7% vào năm 2017. Theo dự báo của các tổ chức quốc tế, Việt Nam sẽ bước vào thời kỳ già hoá dân số trong khoảng 15 đến 20 năm nữa. Khi không có lợi thế về số lượng lao động nữa, chúng ta phải dựa vào chất lượng của lao động. Lực lượng lao động Việt Nam phân theo giới tính và phân theo thành thị và nông thôn Thành Nông Tổng số Nam Nữ thị thôn 2005 42.774,9 21.926,4 20.848,5 10.689,1 32.085,8 2010 49.048,5 25.305,9 23.742,6 13.531,4 35.517,1
- 2015 52.840,0 27.216,7 25.623,3 16.374,8 36.465,2 2016 53.302,8 27.442,8 25.860,0 16.923,6 36.379,2 Sơ bộ 2017 53.703,4 27.813,7 25.889,7 17.116,7 36.586,7 Tỷ lệ Thành Nông (%) Tổng số Nam Nữ thị thôn 2005 100 51,3 48,7 25,0 75,0 2010 100 51,6 48,4 27,6 72,4 2015 100 51,5 48,5 31,0 69,0 2016 100 51,5 48,5 31,7 68,3 Sơ bộ 2017 100 51,8 48,2 31,9 68,1 Nguồn: GSO Cơ cấu lao động về giới của Việt Nam hiện nay khá cân bằng với khoảng 48% lao động nữ và 52% lao động là nam giới. Lao động làm việc ở khu vực nông thôn có giảm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ cao trên tổng số lao động, từ 75% trên tổng số lao động vào năm 2005 xuống còn 68,1% vào năm 2017 Có thể thấy đại bộ phận lao động Việt Nam làm việc trong ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản. Cơ cấu chuyển dịch lao động theo ngành diễn ra rất chậm. Cụ thể là năm 2005, tỷ lệ lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản; công nghiệp và xây dựng, dịch vụ lần lượt là 55,1%,
- 17,6% và 27,1%. Tính đến năm 2017, tức là sau 12 năm; mặc dù đã có sự chuyển dịch lao động lao động sang khu vực công nghiệp và xây dựng và dịch vụ (lao động trong hai ngành này tăng lên tương ứng 25,7% và 34,1% trên tổng số lao động Việt Nam) nhưng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn ở mức cao 40,2%. Tỷ lệ (%) lao động đã qua đào tạo và chưa qua đào tạo của Việt Nam Nguồn: GSO Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của chúng ta đạt thấp và chậm được cải thiện theo thời gian. Năm 2009, tỷ lệ lao động đã qua đào tào chiếm 14,8% trên tổng số lao động. Tính đến thời điểm năm 2016, ước tính cũng mới chỉ có trên 20% lao động đã qua đào tạo. Bên cạnh đó có sự mất cân đối nhất định trong cơ cấu đào tạo, trong đó tỷ lệ lao động được đào tạo trình độ đại học trở lên tăng nhanh hơn so với các loại hình đạo khác (lao động qua đào tạo có trình độ đại học trở lên tăng nhanh từ 5,5% vào năm 2009 lên 9% vào năm 2016) trong khi số lao động được đào tào dưới hình thức dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp và cao đẳng tăng chậm hoặc tăng không đáng kể (lao động được đào tạo trình độ cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề tương ứng từ 1,5%, 2,7% và 4,8% vào năm 2009 lên 2,7%, 3,9% và 5% vào năm 2006). Sự mất cân đối không những xảy ra đối với cơ cấu đào tạo mà còn tồn tại sự mất cân đối trong hệ thống các trường đào tạo, mất cân đối về ngành nghề. Nguồn nhân lực không được đào tạo tốt và bố trí hợp lý khiến cho lao động không thể phát huy được hết vai trò và tiềm năng của nó phục vụ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Việt Nam hiện đang ở trong cảnh vừa thừa vừa thiếu lao động, thừa lao động có tay nghề thấp nhưng lại thiếu lao động lành nghề. Trong một báo cáo của mình, World Bank đã chỉ ra, hiện các doanh nghiệp gặp phải khó khăn rất lớn trong việc tuyển dụng lao động do lao động không có đủ những kiến thức và kỹ năng cần thiết và do sự thiếu hụt lao động ở một số ngành nghề (WB, 2013). Các doanh nghiệp cũng đồng thuận về nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự yếu kém của lao động Việt Nam là do hệ thống giáo dục và đào tạo. Hiện nay cũng như trong thời gian tới, doanh nghiệp có nhu cầu cao đối với người lao động có
- những kỹ năng tổng hợp về cả tay nghề, nhận thức và hành vi, đặc biệt là các kỹ năng như giao tiếp, teamwork, giải quyết vấn đề nhưng những kỹ năng hiện lao động Việt Nam đang rất yếu. Vì lao động chủ yếu làm trong lĩnh vực nông nghiệp và ở nông thôn nên tỉ lệ thất nghiệp ở Việt Nam thuộc hàng thấp nhất Đông Nam Á và thế giới nhưng tỷ lệ thiếu việc làm lại khá cao do tính chất mùa vụ của nghề nông. Đây cũng là lí do khiến tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị cao hơn so với ở nông thôn nhưng tỷ lệ thiếu việc làm ở khu vực nông thôn lại cao hơn so với thành thị (xem bảng 5). Tuy nhiên cũng có thể thấy rằng tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm đã giảm theo thời gian. Trong đó tỷ lệ thất nghiệp chung và tỷ lệ thiếu việc làm chung giảm tương ứng từ mức 2,38% và 4,65% năm 2008 xuống còn 2,24 % và 3,18%. Thất nghiệp của Việt Nam qua các năm phân theo thành thị và nông thôn Tỷ lệ thất nghiệp Tỷ lệ thiếu việc làm Chung Thành thị Nông thôn Chung Thành thị Nông thôn Sơ bộ 2017 2,24 3,18 1,78 1,62 0,82 2,03 2016 2,30 3,23 1,84 1,66 0,73 2,12 2014 2,10 3,40 1,49 2,35 1,20 2,90 2012 1,96 3,21 1,39 2,74 1,56 3,27 2010 2,88 4,29 2,30 3,57 1,82 4,26 2008 2,38 4,65 1,53 5,10 2,34 6,10 Nguồn: GSO III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỔI MỚI PHÂN CÔNG VÀ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM Trên cơ sở phân tích thực trạng phân công và sử dụng lao động ở Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức, những cơ hội và thách thức của cách mạng 4.0 đối với lao động, tác giả đề xuất một số khuyến nghị giúp lao động nước ta tận dụng được những cơ hội và vượt qua những thách thức đặt ra như sau: 1. Đối với chính phủ Cần xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực sáng tạo, với sự hợp tác chặt chẽ giữa các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp. Chiến lược cần đảm bảo tăng cường sự tham gia của lao động nữ. Cần có kế hoạch để vượt qua các rào cản về nhận thức, tầm nhìn nhằm huy động nguồn lực cho đào tạo nhân lực, coi đó là sự sống còn của doanh nghiệp, tương lai của quốc gia. Cần tăng cường các yếu tố sáng tạo trong xây dựng các chính sách về giáo dục đào tạo và các chính sách lao động, việc làm đáp ứng các yêu cầu mới về kỹ năng, tạo ra môi trường đào tạo tốt hơn. Cần có các chính sách thị trường lao động tích cực với các mục tiêu xác định rõ ràng và các chương trình hỗ trợ lao
- động tìm việc. Thị trường lao động và các chính sách xã hội cần được xây dựng phù hợp với các hình thức việc làm mới. Cần có những quy định luật pháp rõ ràng và tạo sân chơi bình đẳng cho mọi doanh nghiệp và có các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào R&D, đổi mới công nghệ để tận dụng cơ hội từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Nghiên cứu chính sách đào tạo lao động cho khu vực nông nghiệp, nông thôn, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn để chuyển dịch cơ cấu lao động thành công và cải thiện thu nhập cho lao động nông nghiệp, nông thôn. Khuyến khích đổi mới sáng tạo thông qua xây dựng các trung tâm đổi mới sáng tạo trực thuộc các trường đại học gắn chặt chặt với môi trường kinh doanh, hỗ trợ các ý tưởng khởi nghiệp và nghiên cứu triển khai. Cần có chính sách huy động nguồn vốn từ nhà đầu tư thiên thần và mạo hiểm để đầu tư vào các hoạt động khởi nghiệp sáng tạo. Cần hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội bảo đảm cho mọi người dân có thu nhập tối thiểu, có khả năng phòng ngừa, khắc phục và giảm thiểu rủi ro; hoàn thiện các dịch vụ công để cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin cho người dân. 2. Đối với hệ thống đào tạo và dạy nghề Cuộc cách mạng công nghiệp mới mới đặt ra yêu cầu phải kết hợp các kiến thức về công nghệ thông tin (IT) với các kiến thức về công nghệ điều hành (OT) trong các chương trình đào tạo và các khóa học nghề. Do vậy, cần tập trung vào đào tạo nghề và có những chính sách thu hút sinh viên theo học các ngành khoa học - công nghệ - kỹ thuật. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua đổi mới giáo dục và nâng cao chất lượng đào tạo là khâu then chốt. Để làm tốt nội dung này cần tập trung vào một số điểm sau: - Cần cơ cấu lại hệ thống đào tạo để đảm bảo cân đối giữa các hình thức đào tạo (như đào tạo đại học, cao đẳng, trung cấp, đào tạo nghề), các ngành nghề đào tạo, chú trọng vào đào tạo những ngành nghề mà xã hội, các doanh nghiệp đang có nhu cầu. Giáo dục nghề nghiệp cần tăng cường năng lực của hệ thống, mở rộng thu hút người học, tăng cường đào tạo năng lực thực hành, tập trung vào những kỹ năng cơ bản cốt lõi (sáng tạo, phân tích phê phán, trình bày, công nghệ thông tin, ngoại ngữ .), kỹ năng kỹ thuật và kỹ năng hành vi xã hội để làm việc trong môi trường công nghệ hiện đại. - Đổi mới nội dung và chương trình đào tạo trong đó chú trọng cập nhật những chương trình đào tạo về STEM, công nghệ thông tin, khoa học dữ liệu, an ninh, an toàn thông tin Việt Nam là quốc gia có thế mạnh về lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghệ thông tin nên đào tạo về STEM là một hướng đi tốt để chúng ta tận dụng những lợi thế của mình. - Tiếp cận và thay đổi quan điểm giáo dục từ truyền thống sang hệ thống giáo dục mở và mang tính khai phóng. Đào tạo cần linh hoạt, có tính liên ngành, trú trọng trang bị cho sinh viên không chỉ kiến thức mà còn trang bị năng lực nhận thức, tư duy và các kỹ năng cần thiết như kỹ năng giao tiếp trong đó có giao tiếp bằng tiếng anh, teamwork, giải quyết vấn đề.
- - Đào tạo cần gắn với nhu cầu xã hội, tạo ra kết nối giữa các cơ sở giáo dục đào tạo với các doanh nghiệp. Để liên kết thành công, trước hết cần nâng cao nhận thức của các trường đại học và các doanh nghiệp để họ thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng của quá trình liên kết, từ đó chủ động liên kết với nhau. Nhờ có liên kết, sinh viên được học tập ở môi trường mang tính thực tiễn cao hơn, các doanh nghiệp có thể bộc lộ rõ nhu cầu của mình đối với các sản phẩm đào tạo để đặt hàng nhà trường cũng như tham gia đóng góp trực tiếp quá trình đào tạo. Có như vậy thì nguồn nhân lực tương lai mới phù hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp, doanh nghiệp không phải mất nhiều chi phí để đào tạo lại. 3. Đối với Doanh nghiệp Cần thực sự coi nhân lực là nguồn vốn quan trọng nhất và đặt con người ở vị trí trung tâm trong quá trình cạnh tranh, phát triển. Để có thể thích nghi được với sự thay đổi trong cuộc cách mạng công nghiệp này, doanh nghiệp cần tập trung vào đào tạo nguồn nhân lực, và tăng cường hợp tác với các viện nghiên cứu, trường đại học, các cơ sở dạy nghề để nâng cao trình độ công nghệ. Đào tạo lại cho lực lượng lao động cần được coi là nhiệm vụ thường xuyên. Nhiều nội dung mới trong quản lý lao động cần được cập nhật như quản lý các đột phá kỹ năng, quản lý tài năng, ứng dụng các hình thức việc làm linh hoạt, số hóa các nguồn tài năng. 4. Đối với người lao động Mỗi người cần xác định rõ năng lực sở trường của mình và lựa chọn nghề nghiệp phù hợp. Người lao động cần có được các kỹ năng phù hợp với những công việc mới và luôn thay đổi. Người lao động cần linh hoạt hơn, chuẩn bị cho các tình huống việc làm "phi tiêu chuẩn". Theo Frey và Osborne, để chiến thắng trong cuộc chạy đua với quá trình tự động hóa và vi tính hóa, người lao động cần làm chủ được các "kỹ năng sáng tạo và kỹ năng xã hội". Phương châm "Học tập suốt đời" có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, mỗi người lao động phải luôn nhận thức về yêu cầu nâng cao năng lực và thay đổi kỹ năng thích nghi với công nghệ mới, đáp ứng yêu cầu công việc thông qua rèn luyện học tập suốt đời. Chính phủ và các doanh nghiệp cần tạo ra nhiều cơ hội hơn để đảm bảo rằng người lao động có thời gian, động lực và phương tiện để họ tìm kiếm cơ hội được đào tạo lại.
- KẾT LUẬN Cuộc cách mạng công nghệ 4.0 và sự phát triển không ngừng của nền kinh tế tri thức là một xu thế tất yếu của nhân loại. Bên cạnh những cơ hội rất lớn mà cuộc cách mạng 4.0 mang lại thì nó cũng đặt ra không ít những thách thức cho thị trường lao động các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng. Thiết nghĩ, cách tốt nhất để ứng phó với những biến đổi trong thời đại mới đó là mỗi lao động, mỗi doanh nghiệp, mỗi cơ sở đào tạo và Chính phủ Việt Nam cần chủ động chuẩn bị và nỗ lực hết mình nhằm đón nhận những thời cơ và vượt qua những thách thức. Đổi mới phân công và sử dụng lao động trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức là xu thế và yêu cầu hết sức cần thiết. Nếu không chúng ta có thể sẽ đứng nguy cơ tụt hậu nhanh hơn và xa hơn bao giờ hết.
- DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] C.Mác – Ănghen, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 4, tr.602 [2] C.Mác – Ănghen, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 4, tr.598 [3] C.Mác – Ănghen, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 46, phần II, tr.368-369 [4] C.Mác – Ănghen, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 46, phần II, tr.372 [5] Klaus Schwab: “The Fourth Industrial Revolution” – Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, 2016, tr.5 [6] Nguyễn Thị Lan Hương, Tác động của cuộc cách mạng trong công nghệ thông tin đến lực lượng sản xuất – nhìn từ góc độ triết học, tạp chí Triết học, số 9 (184), tháng 9/2006 [7] Website:
- Tiểu luận Những vấn đề KTCT đương đại Văn Công Vũ