Luận văn Tổng quan về pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay

doc 88 trang yendo 5260
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tổng quan về pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docluan_van_tong_quan_ve_phap_luat_giai_quyet_tranh_chap_kinh_t.doc

Nội dung text: Luận văn Tổng quan về pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay

  1. LUẬN VĂN TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
  2. Mục lục TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 4 I. KHÁI NIỆM TRANH CHẤP KINH TẾ VÀ TỐ TỤNG KINH TẾ 4 1. Khái niệm tranh chấp kinh tế: 4 2. Khái niệm tố tụng kinh tế: 5 II. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA VIỆC BAN HÀNH PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ 6 III. CÁC PHƯƠNG PHÁP GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ TẠI VIỆT NAM 7 1.Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng: 8 2. Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng hoà giải: 10 3. Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng tòa án 11 4. Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng trọng tài 16 CHƯƠNG II THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT 27 TRANH CHẤP KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 27 I. CÁC LOẠI TRANH CHẤP PHỔ BIẾN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 28 1. Tranh chấp phát sinh do một bên vi phạm nghĩa vụ giao hàng hoặc thực hiện lao vụ: 28 2. Tranh chấp phát sinh do một bên vi phạm nghĩa vụ thanh toán và tiếp nhận hàng hoá công việc: 31 II. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ BẰNG PHƯƠNG PHÁP TIỀN KHỞI KIỆN 41 1. Thương lượng: 41 2. Hoà giải 43 3. Các bước của quá trình hoà giải: 47 4. Thời gian hoà giải: 49 III. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ BẰNG TÒA ÁN 50 1. Thủ tục tố tụng vụ án kinh tế 50 2. KẾT QUẢ THỤ LÝ VÀ GIẢI QUYẾT ÁN KINH TẾ TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN 56 3 Thuận lợi và khó trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế bằng toà án 57 IV. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI 64 1. Kết quả hoạt động xét xử của các Trung tâm Trọng tài 65 2.Thuận lợi và khó khăn 65
  3. CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP Ở NƯỚC TA 68 I. LỰA CHỌN PHƯƠNG PHÁP GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ 68 1. Ưu điểm và nhược điểm của các phương pháp giải quyết tranh chấp trước khi đi kiện: 69 2. Nhược điểm của đi kiện ở Toà án so với đi kiện ở các Trung tâm trọng tài: 70 II. CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ 73 1. Các biện pháp phòng ngừa tranh chấp kinh tế: 73 2 Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp: 78 KẾT LUẬN 86 TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
  4. TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY I. KHÁI NIỆM TRANH CHẤP KINH TẾ VÀ TỐ TỤNG KINH TẾ 1. Khái niệm tranh chấp kinh tế: Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế có chế độ sở hữu khác nhau, các quan hệ kinh tế ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Mục đích tìm kiếm lợi nhuận chẳng những là động lực trực tiếp thúc đẩy quá trình mở rộng các giao lưu kinh tế, mà còn là lý do tồn tại của các chủ thể kinh tế. Cùng với sự phát triển của các quan hệ kinh tế và dưới sự tác động trực tiếp của quy luật cạnh tranh, tranh chấp kinh tế cũng trở nên phong phú hơn về chủng loại, gay gắt, phức tạp hơn về tính chất và quy mô. Chính vì vậy, việc áp dụng hình thức và phương thức giải quyết tranh chấp sao cho phù hợp, có hiệu quả là một đòi hỏi khách quan để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh, bảo đảm nguyên tắc pháp chế Xã hội Chủ nghĩa, thông qua đó góp phần tạo môi trường pháp lý lành mạnh để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế. Tranh chấp kinh tế là tranh chấp biểu hiện những mâu thuẫn hay xung đột về quyền, nghĩa vụ giữa các nhà đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Như vậy tranh chấp kinh tế có thể phát sinh trong cả quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Tuy nhiên, dù tồn tại dưới hình thức nào và có thể bắt nguồn từ nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, nhưng đặc trưng chung của tranh chấp kinh tế là luôn gắn liền với hoạt động kinh tế và chủ thể tham gia chủ yếu là các nhà doanh nghiệp. Về bản chất, mỗi tranh chấp xét cho cùng đều phản ánh những xung đột về lợi ích kinh tế giữa các bên Tranh chấp kinh tế khác với tranh chấp dân sự ở một số điểm sau:  Tranh chấp kinh tế thường chỉ gắn liền với những yếu tố tài sản, những lợi ích của các bên có tranh chấp và chỉ phát sinh từ các quan hệ vì mục đích kinh doanh, các tranh chấp dân sự vừa mang tính chất tài sản, tính chất nhân thân phi tài sản.  Giá trị tranh chấp kinh tế thường rất lớn, các tranh chấp kinh tế thường làm ảnh hưởng kinh tế không những cho bên cùng tranh chấp mà còn làm ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của cả cộng đồng kinh doanh nữa. Do đó, tranh chấp kinh tế thường có tính nguy hiểm hơn tranh chấp dân sự.
  5.  Bên bị vi phạm trong quan hệ kinh tế không những được bồi thường thiệt hại (nếu có thiệt hại xảy ra) giống như bên bị vi phạm trong quan hệ luật dân sự mà có quyền đòi hỏi phạt vi phạm hợp đồng kinh tế.  Chủ thể trong quan hệ có tranh chấp kinh tế chủ yếu là chủ thể kinh doanh khi tham gia quan hệ kinh doanh hoặc nếu không trực tiếp kinh doanh thì ít nhất họ là những người tiến hành hành vi đầu tư vốn nhằm mục đích kinh doanh sinh lời. Trong khi đó tranh chấp dân sự chủ yếu phát sinh từ các chủ thể không tham gia kinh doanh. Tranh chấp kinh tế gồm các loại sau: Tranh chấp Hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh. Tranh chấp giữa Công ty với thành viên Công ty hoặc giữa thành viên Công ty với nhau liên quan đến việc thiết lập hoạt động hoặc giải thể công ty. Tranh chấp đến việc mua bán chứng khoán (Cổ phiếu, Trái phiếu); Và các tranh chấp kinh tế khác theo qui định của pháp luật; Trong điều kiện kinh tế thị trường sự đa dạng về đối tượng cũng như sự xuất hiện của các thị trường yếu tố phi truyền thống đã làm phát sinh nhiều tranh chấp mới như tranh chấp về thương hiệu, Ly- xăng, tranh chấp về quảng cáo Những tranh chấp kinh tế xảy ra mà được cơ quan toà án có thẩm quyền giải quyết theo một trình tự thủ tục nguyên tắc nhất định thì được gọi là "Vụ án kinh tế". 2. Khái niệm tố tụng kinh tế: Tố tụng kinh tế là một chế định pháp luật quan trọng của pháp luật kinh tế, là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ tố tụng giữa cơ quan toà án và người tham gia tố tụng, trong quá trình toà án giải quyết các vụ án kinh tế để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng. Cũng có thể hiểu tố tụng kinh tế là quá trình cơ quan toà án có thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế theo một trình tự nhất định. Với nội dung khái niệm tranh chấp kinh tế như trên có thể thấy các tranh chấp kinh tế hiện nay là rất đa dạng và phức tạp, các chủ thể của nền kinh tế được mở rộng hơn trước và phạm vi hoạt động cũng đa dạng hơn trước. Vì vậy, pháp luật áp dụng cho việc giải quyết các tranh chấp kinh tế phải linh hoạt và mềm dẻo hơn, các cơ quan tài phán vừa phải nâng cao trình độ nghiệp vụ của mình, vừa phải thay đổi phương pháp giải quyết tranh chấp kinh tế cho phù hợp với nền kinh tế mở như hiện nay của nước ta.
  6. II. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA VIỆC BAN HÀNH PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ 1. Sau chiến thắng mùa xuân 1975, cả nước ta bước vào giai đoạn lịch sử mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cơ chế quản lý cũ tập trung, quan liêu bao cấp trong thời kỳ chiến tranh đã không phát huy tác dụng tích cực mà còn làm trì trệ sự phát triển kinh tế, gây nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội, trước tình hình trên Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã kịp thời chỉ ra mặt yếu kém, sai lầm chủ quan duy ý chí trong cơ chế quản lý tập trung bao cấp, đề ra đường lối đổi mới toàn diện đặc biệt đường lối phát triển kinh tế. Đường lối đổi mới đó được hoàn thiện và chính thức đưa vào đời sống xã hội bằng pháp luật đó là Hiến pháp 1992, đã thừa nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường ở nước ta. Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Tư pháp và các Cơ quan tài phán nói chung và các cơ quan tài phán kinh tế nói riêng cũng nằm trong khuôn khổ của công cuộc đổi mới này. Đáp ứng các đòi hỏi tất yếu khách quan đó Quốc hội nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt nam khoá IX kỳ họp thứ 4 đã thông qua luật sửa đổi bổ xung Luật tổ chức Toà án nhân dân với những qui định và chức năng mới của toà án là giải quyết các tranh chấp kinh tế và giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, Luật phá sản doanh nghiệp và pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế cũng được ban hành với tư cách là luật nội dung để giải quyết các tranh chấp kinh tế trong cơ chế mới. Pháp lệnh Hội đồng trọng tài kinh tế ban hành ngày 12/1/1990 cũng không còn phù hợp với nền kinh tế nhiều thành phần nữa. Bởi trọng tài kinh tế nhà nước là cơ quan thuộc hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước nhưng lại có thẩm quyền xét xử. Đây là một cơ quan vừa có chức năng quản lý lại vừa có chức năng của cơ quan tư pháp, kèm theo đó thực lực của đội ngũ trọng tài viên còn hạn chế. Các quyết định của trọng tài kinh tế không có một cơ chế thi hành hiệu quả, chủ yếu chỉ mong vào sự tự nguyện của bên phải thi hành. 2. Nhằm hoà nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế, nhà nước ta thực hiện một chính sách kinh tế mở. Mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế chúng ta vừa thu hút được đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, vừa nắm bắt được những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến và kinh nghiệm kinh doanh của các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Vấn đề đặt ra là khi mở rộng các quan hệ kinh tế chúng ta buộc phải xem xét, chấp nhận những tập quán thương mại quốc tế và các nguyên tắc của luật pháp quốc tế về các lĩnh vực thương mại kinh doanh quốc tế.
  7. Mở rộng các mối quan hệ kinh tế quốc tế đã tác động tích cực vào nền kinh tế của chúng ta làm các hoạt động kinh doanh trở nên đa dạng, sôi động và đương nhiên dẫn đến sẽ có phát sinh các tranh chấp trong hoạt động kinh tế ngày càng nhiều và gay gắt. Các chủ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam họ đều quan tâm đến sự bảo đảm về mặt pháp lý cho hoạt động kinh doanh của mình và pháp luật phải bảo đảm đầy đủ các quyền và lợi ích chính đáng của họ khi nảy sinh các tranh chấp. Chính vì vậy khi tiến hành đầu tư vào Việt Nam ngoài các yếu tố đảm bảo về mặt pháp lý cho hoạt động kinh doanh, hiệu quả kinh doanh thì các chủ đầu tư cũng đặc biệt quan tâm đến việc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, giải quyết các tranh chấp phải nhanh chóng, có hiệu lực mới bảo đảm quyền lợi chính đáng của họ. III. CÁC PHƯƠNG PHÁP GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ TẠI VIỆT NAM Việc chuyển đổi nền kinh tế ở nước ta từ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã làm thay đổi quan niệm về một loạt vấn đề xung quanh các chế định hợp đồng kinh tế (HĐKT), tranh chấp kinh tế, tài phán kinh tế, quyền tự do của các bên tranh chấp trong việc lựa chọn cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp kinh tế, vị trí của cơ quan tài phán kinh tế trong bộ máy Nhà nước v.v. Từ năm 1987 - 1990, nước ta đã có nhiều cố gắng để tiếp tục phát huy vai trò của trọng tài kinh tế. Do đó năm 1989 Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế và năm 1990 ban hành Pháp lệnh Trọng tài kinh tế với mục đích làm cho hai chế định này thích nghi với cơ chế quản lý kinh tế mới và mới đây Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh trọng tài thương mại số 08/PL UBTVQH 11 ban hành ngày 25/2/2003 nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo tính tương thích với các quy định của luật pháp quốc tế. Hiến pháp năm 1992 ra đời đã đánh dấu những thay đổi quan trọng trong chế độ kinh tế của Nhà nước CHXHCN Việt nam và phần nào đã làm cho sự tồn tại của hệ thống trọng tài kinh tế trở nên không còn phù hợp. Đó là những nguyên tắc như đa dạng hóa các thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, cá nhân được tự do kinh doanh, tự do thành lập doanh nghiệp, Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh đúng pháp luật của các doanh nghiệp Tranh chấp kinh tế tất yếu xảy ra trong hoạt động kinh doanh vì vậy, giải quyết tranh chấp phát sinh được coi như là đòi hỏi tự thân của quá trình kinh tế. Theo cách hiểu thông thường giải quyết tranh chấp kinh tế là cách thức,
  8. phương pháp cũng như các hoạt động để khắc phục và loại trừ các tranh chấp đã phát sinh nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh, bảo vệ trật tự, kỷ cương xã hội. Khi xảy ra tranh chấp các chủ thể kinh doanh đều muốn giải quyết tranh chấp kinh tế được nhanh chóng và thuận lợi, từ đó các chủ thể kinh doanh có nhu cầu lựa chọn một hình thức giải quyết các tranh chấp kinh tế phù hợp với mình. 1.Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng: Khái niệm, đặc điểm: a. Khái niệm: Thương lượng là một phương thức giải quyết tranh chấp mà theo đó các bên cùng nhau bàn bạc, thoả thuận để tự giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ hợp đồng của mình mà không có sự tham gia của bên thứ ba. b. Đặc điểm: - Thương lượng là một phương pháp tự giải quyết tranh chấp của các bên. - Thương lượng không mang tính chất bắt buộc trừ khi hợp đồng có quy định và không đòi hỏi sự can thiệp hành chính của bất cứ một thiết chế nào. Thương lượng được áp dụng tương đối phổ biến để giải quyết tranh chấp kinh tế thời gian và chi phí giành cho cuộc thương lượng thông thường phụ thuộc vào tính chất và trị giá tranh chấp. Tuy nhiên, trong thực tế thương lượng lại phụ thuộc vào thiện trí của các bên và cách thức thương lượng là thương lượng trực tiếp hay thông qua thư tín, telex, fax Việc giải quyết tranh chấp bằng thương lượng nhằm gạt bỏ các ý kiến bất đồng để đạt tới sự thống nhất, thiện trí là một phương pháp giải quyết tranh chấp rất phổ biến ở nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia Á Đông. Theo Điều 7 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế: “ Các tranh chấp phát sinh khi thực hiện hợp đồng kinh tế được giải quyết bằng cách tự thương lượng giữa các bên với nhau hoặc đưa ra trọng tài kinh tế”. Phương thức thương lượng này đẩy nhanh tốc độ giải quyết tranh chấp giữa hai bên bày tỏ thái độ tôn trọng bên vi phạm hợp đồng cũng như để hai bên hiểu rõ nội dung sự việc, nội dung tranh chấp dẫn đến sự thiện trí của cả hai bên. - Trong các hợp đồng kinh tế, tại điều khoản về xử lý tranh chấp thường được ghi: “ Các tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng trước hết được giải quyết thông qua đàm phán, thương lượng giữa các bên. Nếu tranh chấp không giải quyết được bằng thương lượng sẽ được đem ra xét xử tại (toà án hoặc trọng tài) theo quy tắc của (toà án, trọng tài) phí xét xử sẽ do bên thua kiện chịu” điều này càng chức tỏ một trong những đặc điểm nổi bật của thương lượng là " hình thức tự giải quyết tranh chấp" được áp dụng phổ biến nhất.
  9. 1.2 Cách thức thương lượng: a. Thương lượng bằng cách gặp gỡ trực tiếp: Thương lượng bằng cách gặp nhau trực tiếp là việc các bên cử đại diện của mình gặp mặt nhau tại một địa điểm nhất định trong một thời gian xác định để bàn bạc vấn đề tranh chấp nhằm đưa ra các giải pháp giải quyết tranh chấp. b. Thương lượng thông qua thư từ, điện tín, telex Với sự phát triển vượt bậc của công nghệ điện tử Internet, email thì việc thương lượng giữa các bên đương sự được thực hiện hết sức thuận lợi. Tuy vậy tất cả các thư từ điện tín email đều phải được trả lời một cách nhanh chóng cho dù nguyên nhân tranh chấp là do phía mình gây ra cũng cần phải được trả lời sớm, để giải quyết thoả đáng nếu trì hoãn hoặc cố tình quên không trả lời sẽ gây ấn tượng xấu. Khi xem xét những điểm cơ bản về phương pháp giải quyết tranh chấp kinh tế thông qua thương lượng cho thấy rằng phương pháp này cũng có một số điểm hạn chế nhất định, cụ thể do sự thành công hay thất bại của việc thương lượng chủ yếu phụ thuộc vào thái độ thiện chí của các bên tranh chấp nên chỉ cần một trong các bên đương sự thiếu thiện chí thì quá trình thương lượng có thể đi đến chỗ bế tắc buộc các bên phải tìm kiếm hình thức giải quyết tranh chấp khác. Một số bước thương lượng, đàm phán lại để gỡ rối khi các bên tranh chấp bế tắc: Bước 1: Trong một số trường hợp, cuộc thương lượng giải quyết tranh chấp gặp bế tắc, điều quan trọng nhất là các bên tìm được giải pháp thích hợp, vấn đề sẽ đơn giản hơn nhiều nếu hai bên có thiện chí và tìm cách xử lý hợp lý. Khi đối mặt với những tình huống gay cấn, trước hết các bên phải thật bình tĩnh, tập trung tìm các phương pháp khắc phục những vướng mắc để đi tới thống nhất, sự bình tĩnh sẽ mang lại cho cả hai bên một thái độ tích cực làm cho việc giải quyết tranh chấp đi theo hướng thuận lợi. Hai bên lần lượt đưa ra các giải pháp của mình, tránh tranh luận cái nào tốt và hợp lý hơn cái nào. Sau đó, tất cả các giải pháp được gộp thành một bản danh sách lần lượt sắp xếp chúng theo thứ tự cho là thích hợp nhất. Sau khi phân loại các phương án đã hoàn thành, đôi bên mới bắt đầu trình bày lý do việc lựa chọn của mình, bằng cách trên mới vượt qua được một số “điểm chết” trong quá trình thảo luận, đây là tiền đề để cho việc tìm kiếm một phương án khả thi nhất. Cuộc thảo luận nhờ đó chuyển hướng từ chỗ bế tắc sang chọn lựa một giải pháp tối ưu nhất. Bước 2: Xem xét nội dung chính của vấn đề: Trong trường hợp này cần thiết phải tập trung vào vấn đề chính của cuộc thảo luận thay vì cân đong đo đếm xem phương án nào nặng nhẹ hơn, xem xét lại vấn đề từ đầu từ chỗ khúc mắc mà hai bên chưa có cách giải quyết,
  10. tránh sa đà vào các cuộc tranh luận ngoài lề nếu cảm thấy phương án đưa ra không được phía bên kia chấp nhận, tiếp tục đặt lại vấn đề chính yếu nhất mà cả hai bên đều có ý định đạt được trong buổi gặp gỡ. Chọn một phương án nào đó tối ưu nhất cho cả hai bên, đề nghị bên kia cũng nghiên cứu trên tinh thần xây dựng và với yêu cầu phải bám sát mục tiêu chính của cuộc thương lượng chỉ có như vậy mới không rơi vào bế tắc một lần nữa. Khi có quá nhiều vấn đề được nêu ra nhưng rút cục hai bên đều không đạt được sự thống nhất cần thiết, các bên đương sự cần phải biết cách chẻ nhỏ vấn đề đặt riêng từng cái một để dễ dàng nhất trí được với nhau về cách giải quyết. Nếu thấy cần thiết đại diện của các bên chủ động rút lại các vấn đề của mình, lần lượt cùng nhau xem xét và giải quyết từng vấn đề theo thứ tự, không nên vội vàng vì nông nóng dễ làm hỏng việc. 2. Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng hoà giải: 2.1 Định nghĩa và đặc điểm của hoà giải: Hoà giải là một phương pháp để giải quyết tranh chấp, trong đó bên thứ ba là người đóng vai trò trung gian hoà giải tham gia vào các cuộc họp chung giữa các bên và tham gia vào các phiên họp riêng với từng bên để điều hoà lợi ích các bên, phân tích cho họ thấy nội dung, thực chất của tranh chấp và cố gắng giúp các bên tìm ra một giải pháp để giải quyết tranh chấp. Từ khái niệm đó hoà giải mang những đặc điểm chủ yếu sau:  Các bên tranh chấp thoả thuận bên thứ 3 tạo điều kiện thuận lợi cho việc đàm phán.  Bên thứ 3 không có quyền quyết định tranh chấp;  Khi các bên đạt được sự nhất trí trong việc giải quyết tranh chấp, thì sự nhất trí phải được thể hiện bằng văn bản và văn bản này có giá trị pháp lý ràng buộc các bên. Việc hoà giải thành công hay không là do sự kết hợp hai yếu tố chủ chốt trong bất kỳ cuộc thương lượng nào, sự trao đổi thông tin và sự tin cậy lẫn nhau, Vì vậy, bên thứ 3 phải là người mà các bên tranh chấp đủ tin cậy để có thể trao đổi những lập trường riêng đích thực của họ trong vụ tranh chấp. Quá trình hoà giải mang tính chất tự nguyện, mềm dẻo và không bắt buộc, thông thường việc hoà giải diễn ra nhanh chóng với chi phí vừa phải. Các vụ giải quyết tranh chấp bằng hoà giải có thể rất đơn giản hoặc có thể lớn và phức tạp, có thể chỉ có hai bên hay nhiều bên tham gia tranh chấp. Trong quá trình hoà giải tính đối kháng của các bên ít quyết liệt hơn so với các hình thức giải quyết tranh chấp bằng toà án hoặc trọng tài do vậy đặc trưng của việc hoà giải là cho phép duy trì mối quan hệ làm ăn lâu dài và đưa ra những giải pháp hữu hiệu. Các bên có thể xoá bỏ vai trò của người
  11. hoà giải vào bất cứ thời điểm nào mà họ muốn, người hoà giải không áp đặt quan điểm riêng của mình cho các bên mà để các bên thoả thuận và thể hiện bằng văn bản có giá trị bắt buộc cho cả hai bên. Khi người hoà giải nắm được các sự kiện, nguyên nhân các tình tiết của vụ tranh chấp đồng thời lại biết được những chi tiết riêng tư trong lập trường của từng bên thì họ có thể tháo gỡ hoặc góp phần làm giảm đi những bất đồng, những rào cản và khác biệt trong quan điểm của các bên theo những cách thức, lập luận, dẫn dắt của mình nếu chỉ có các bên tranh chấp với nhau cùng với những lập trường riêng của họ thì không thể giải quyết nổi. Nhìn chung hoà giải là phương pháp giải quyết tranh chấp nhanh, tiết kiệm chi phí, nỗ lực giải quyết tranh chấp của các bên cùng với sự đóng góp của hoà giải viên sẽ làm cho tiến trình hoà giải diễn ra nhanh chóng và mang lại kết quả theo mong muốn của các bên. 3. Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng tòa án. 3.1 Cơ cấu tổ chức của toà án kinh tế. a. Cơ cấu của toà án trong điều kiện mới: Toà án kinh tế được tổ chức thành tòa chuyên trách trong hệ thống tòa án nhân dân như: Tòa dân sự, Toà hình sự, gồm có: Tòa kinh tế Tòa án nhân dân tối cao, Tòa kinh tế thuộc Tòa án nhân dân cấp Tỉnh, Thẩm phán chuyên trách xét xử các vụ án kinh tế ở Toà án cấp Huyện. Ở Trung Ương: Toà án nhân dân tối cao có toà án kinh tế tồn tại độc lập và song song với các toà chuyên trách khác như: Toà hình sự, Toà dân sự, Toà lao động Cơ cấu tổ chức của Toà kinh tế Toà án nhân dân tối cao gồm có Chánh toà, các Phó Chánh toà, các Thẩm phán và Thư ký toà. Ở Địa phương: Cơ cấu tổ chức của toà kinh tế toà án nhân dân cấp Tỉnh gồm có: Chánh toà, Phó chánh toà, các Thẩm phán và Thư ký toà. Ở Toà án nhân dân cấp Huyện không có tổ chức chuyên trách song TAND cấp Huyện vẫn có chức năng giải quyết các tranh chấp kinh tế và có các Thẩm phán kinh tế đảm nhận xét xử các vụ án kinh tế. b. Chức năng và nhiệm vụ của toà án: b.1. Chức năng: Theo quy định hiện nay toà kinh tế có 2 chức năng chủ yếu sau:  Chức năng xét xử các vụ án kinh tế theo qui định của pháp luật. Đây là chức năng chủ yếu thường xuyên mang tính truyền thống của một cơ quan xét xử, toà án có thẩm quyền nhân danh nước CHXHCN Việt Nam để tuyên án và kết quả của việc xét xử là bản án hoặc quyết định.  Chức năng tuyên bố phá sản doanh nghiệp: Toà án nhân dân cấp Tỉnh, Toà án nhân dân tối cao là cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
  12. b.2. Nhiệm vụ của toà án kinh tế: Giải quyết đúng pháp luật, kịp thời các vụ án kinh tế nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của cá nhân, pháp nhân. Nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN. Nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhiệm vụ giải quyết nhanh chóng kịp thời các vụ án kinh tế. Thực tiễn hoạt động kinh doanh yêu cầu đặt ra là phải có phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế phù hợp với nền kinh tế thị trường, cần giải quyết tranh chấp kinh tế kịp thời đúng pháp luật và đạt hiệu quả cao, không chỉ giảm bớt những tổn thất về kinh tế, mà còn có tác dụng bảo vệ và khôi phục quyền lợi của các doanh nghiệp, các nhà kinh doanh, tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Mặt khác khuyến khích các cá nhân và tổ chức trong nước cũng như ở nước ngoài yên tâm bỏ vốn để đầu tư phát triển đất nước. Ngày 16/3/1994 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức tòa án nhân dân, từ ngày 1/7/1994 giải quyết tranh chấp kinh tế được chuyển sang tòa kinh tế - Tòa chuyên trách trong hệ thống Tòa án nhân dân. Ngày 28/6/1996 Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm soát nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư liên nghành số 04 TTLT hướng dẫn áp dụng Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế. Trong đó quy định tổ chức toà kinh tế nằm trong hệ thống tòa án nhân dân với vai trò như những tòa chuyên trách khác, có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh tế phát sinh trong nền kinh tế thị trường. 3.2 Nguyên tắc tố tụng vụ án kinh tế: Nguyên tắc giải quyết các vụ án kinh tế là những tư tưởng chỉ đạo đối với việc giải quyết các vụ án kinh tế được các quy phạm pháp luật về tố tụng kinh tế ghi nhận qua những nội dung và đặc trưng cơ bản của tố tụng kinh tế. Việc tuân thủ các nguyên tắc của tố tụng kinh tế là cơ sở cho việc đảm bảo giải quyết vụ án kinh tế khách quan, đúng luật, đặc biệt cần phải tuân thủ những nguyên tắc sau đây: 3.2.1 Nguyên tắc tự định đoạt Đây là nguyên tắc cơ bản trong tố tụng kinh tế, nó xuất phát từ quyền tự do kinh doanh, tự do giao kết hợp đồng của các chủ thể kinh doanh. Theo nguyên tắc này, thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế đã quy định cho đương sự được quyền khởi kiện, quyền yêu cầu toà án bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, có quyền lựa chọn Toà án giải quyết tranh chấp trong những trường hợp nhất định. Nguyên đơn được quyền thay đổi nội dung đơn kiện,
  13. quyền rút đơn kiện, cũng như đương sự có quyền hoà giải, thương lượng trong quá trình giải quyết vụ án. 3.2.2 Nguyên tắc đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh: Trong tố tụng kinh tế, toà án không có nghĩa vụ phải điều tra xác minh sự thật của vụ án, mà các đương sự phải có nghĩa vụ cung cấp thu thập tài liệu chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình. Có thể nói, sự thất bại trong một vụ tranh tụng tại toà án phụ thuộc nhiều vào việc đương sự có cung cấp đầy đủ các chứng cứ bảo vệ quyền lợi của mình hay không. 3.2.3 Nguyên tắc hoà giải: Khi có tranh chấp kinh tế xảy ra các bên đương sự phải chủ động gặp gỡ nhau để hoà giải, thương lượng, khi sự thương lượng đó không đem lại kết quả thì bên bị vi phạm có quyền khởi kiện vụ án kinh tế ra toà án nhân dân có thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án kinh tế toà án có nhiệm vụ phải hoà giải giữa các bên đương sự, hoà giải là bắt buộc trong tố tụng kinh tế, nếu như khi giải quyết vụ án kinh tế Toà án không hoà giải giữa các bên thì coi như đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Toà án chỉ đưa ra xét xử khi hoà giải không thành. Xét về nguyên tắc, hoà giải không chỉ giải quyết "Ai đúng, Ai sai" mà chính là khuyến khích các bên thừa nhận quyền lợi chung. Thực tiễn xét xử cho thấy rằng phần lớn các vụ án kinh tế thành công ở giai đoạn hoà giải. Hoà giải thật sự có ý nghĩa quan trọng đối với cả hai bên đương sự và với cả toà án, nó giúp vụ án được giải quyết nhanh chóng đạt được yêu cầu của cả hai bên và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện những thoả thuận đó sau này. 3.2.4 Nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng kịp thời: Đây là nguyên tắc đặc trưng của tố tụng vụ án kinh tế, bởi lẽ nó chi phối tất cả các thời hạn tố tụng trong việc giải quyết vụ án kinh tế, nhanh chóng về thời gian là đòi hỏi của các chủ thể kinh doanh khi giải quyết vụ án. 3.2.5 Nguyên tắc xét xử công khai: Đây là nguyên tắc hiến định đối với hoạt động của toà án. Trong một số trường hợp pháp luật cho phép toà án được xử kín: Khi xét xử các vụ án kinh tế, toà án có thể xét xử kín nếu xét thấy cần giữ bí mật Nhà nước hoặc bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ. Bí mật của đương sự trong tranh chấp kinh tế thường là bí quyết về kinh doanh như phát minh sáng chế có liên quan trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của người kinh doanh, nếu bí quyết đó bị tiết lộ thì sẽ đem lại hiệu quả xấu cho doanh nghiệp đó vì vậy họ có quyền đề nghị toà xét xử kín. 3.3 Thẩm quyền giải quyết vụ án kinh tế của toà án. 3.3.1 Thẩm quyền của Toà án:
  14. Khi có vụ tranh chấp kinh tế xảy ra, đương sự phải khởi kiện tại toà án có thẩm quyền hoặc các toà án phải xem xét và xử lý vụ án đúng thẩm quyền theo qui định của pháp luật tố tụng. Chúng ta hiểu thẩm quyền của toà án ở các mặt sau đây: - Thẩm quyền chung; - Thẩm quyền của toà án các cấp; - Thẩm quyền của toà án theo lãnh thổ; - Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn; a. Thẩm quyền chung của toà án: Theo qui định của pháp luật tố tụng thì toà án có thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế sau:  Tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh.  Các tranh chấp giữa công ty với thành viên của công ty, các thành viên của công ty với nhau có liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty.  Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu.  Các tranh chấp khác theo quy định của pháp luật. Do đó khi xảy ra tranh chấp và đưa đến toà án thì cần phải xác định được rằng: vụ tranh chấp đó thuộc về một trong số các loại vụ việc kể trên không?. Cũng cần phải lưu ý rằng đối với những tranh chấp kinh tế thuộc các loại kể trên nhưng lại có nhân tố nước ngoài thì chỉ áp dụng luật tố tụng của Việt nam để giải quyết theo thủ tục tố tụng kinh tế khi không có điều ước quốc tế mà Việt nam tham gia, hoặc ký kết có qui định khác. b. Thẩm quyền của Toà án các cấp: Toà án kinh tế cấp Tỉnh và toà án nhân dân cấp Huyện có quyền xử sơ thẩm vụ án kinh tế, nhưng cần phải lưu ý rằng không phải quyền xét xử Sơ thẩm mọi vụ án kinh tế đều do toà án kinh tế giải quyết, bởi lẽ toà án nhân dân cấp Huyện cũng có thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế theo quy định của pháp luật tố tụng. Do đó khi có một tranhh chấp kinh tế mà chúng ta xác định nó thuộc thẩm quyền chung như đã nói ở trên thì cần phải xác định bước tiếp theo là toà án cấp nào có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án kinh tế đó. Toà án nhân dân cấp Huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án kinh tế có đủ 3 điều kiện sau: - Đó là tranh chấp về hợp đồng kinh tế; - Giá trị tranh chấp dưới 50 triệu đồng; - Không có nhân tố nước ngoài. b.1 Thẩm quyền của toà án kinh tế - toà án nhân dân cấp Tỉnh
  15. - Sơ thẩm: Những vụ án kinh tế trừ những vụ án thuộc thẩm quyền của toà án nhân dân cấp Huyện. Tuy nhiên trong những trường hợp cần thiết toà án cấp Tỉnh có thể lấy những vụ án kinh tế thuộc quyền của toà án nhân dân cấp Huyện lên để giải quyết do vụ án đó có nhiều tình tiết phức tạp, có ảnh hưởng đến an ninh chính trị hoặc vì lý do cần thiết nào đó. - Phúc thẩm: Những vụ án kinh tế mà bản án, quyết định Sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của toà án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo qui định của pháp luật tố tụng. - Giải quyết việc phá sản doanh nghiệp theo qui định của pháp luật. Tóm lại, thẩm quyền xét xử của Toà án Nhân dân cấp Tỉnh đối với các vụ án kinh tế là: Giám đốc thẩm, Tái thẩm; các vụ án mà bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của toà án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị. b.2 Thẩm quyền của toà kinh tế - toà án nhân dân tối cao:  Giám đốc thẩm, Tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo qui định của pháp luật tố tụng. Toà kinh tế - toà án nhân dân tối cao không có quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm các vụ án kinh tế như toà hình sự toà án nhân dân tối cao.  Về phúc thẩm: Toà án Nhân dân tối cao có các Thẩm phán kinh tế được phân công giải quyết và có thẩm quyền: Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của toà án cấp dưới trực tiếp bị kháng cáo, kháng nghị theo qui định của pháp luật tố tụng. Giải quyết khiếu nại đối với các quyết định của TAND Tỉnh, Thành phố trực thuộc TW về tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo qui định của pháp luật. c. Thẩm quyền của toà án theo lãnh thổ: Theo qui định của pháp luật thì toà án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án kinh tế là toà án nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú; trong trường hợp vụ án chỉ liên quan đến bất động sản, thì toà án nơi có bất động sản giải quyết. d. Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn: Theo qui định của pháp luật thì nguyên đơn có quyền lựa chọn một trong số toà án có thẩm quyền theo những trường hợp dưới đây để khởi kiện vụ án kinh tế: - Nếu không biết rõ trụ sở, hoặc nơi cư trú của bị đơn thì có quyền yêu cầu toà án nơi có tài sản, nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú cuối cùng của bị đơn để giải quyết vụ án. - Nếu vụ án phát sinh là hoạt động của Chi nhánh, thì có thể yêu cầu toà án nơi doanh nghiệp có trụ sở hoặc nơi Chi nhánh đó để giải quyết.
  16. - Nếu vụ án phát sinh do vi phạm hợp đồng kinh tế, thì có quyền yêu cầu: Toà án nơi thực hiện hợp đồng giải quyết. - Nếu bị đơn có trụ sở hoặc nơi cư trú khác thì có quyền yêu cầu toà án nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú của một trong số các bị đơn giải quyết vụ án. - Nếu vụ án không chỉ liên quan đến bất động sản thì có quyền yêu cầu toà án nơi có bất động sản hoặc nơi cư trú của bị đơn giải quyết. - Nếu vụ án liên quan đến bất động sản ở nhiều nơi khác nhau thì có quyền yêu cầu toà án của một trong số các nơi đó giải quyết. - Trong trường hợp có tranh chấp về thẩm quyền của toà án thì do toà án cấp trên trực tiếp giải quyết. 4. Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng trọng tài 4.1 Khái niện và những ưu thế cơ bản a. Khái niệm: Trọng tài là một tổ chức trung gian được thành lập ra và có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh tế và tranh chấp khác phù hợp với pháp luật của nước trọng tài. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là một phương thức giải quyết mà ở đó trọng tài với tư cách là người thứ 3 độc lập phán xử và quyết định tranh chấp của các bên. Đó thông thường là một cơ quan trung gian được các bên đương sự giao tranh chấp để xét xử. Phán quyết của trọng tài thông thường mang tính chất chung thẩm được áp dụng phổ biến nhất hiện nay. b. Những ưu thế cơ bản của trọng tài: Cùng với việc quyết định chuyển giao việc xét xử tranh chấp kinh tế từ trọng tài kinh tế sang tòa án, Chính phủ Việt Nam chủ trương soạn thảo và ban hành Pháp luật về trọng tài kinh tế phi Chính phủ, nhằm tạo điều kiện cho các bên tranh chấp thực hiện quyền tự do định đoạt phương thức giải quyết tranh chấp của mình. Vấn đề đặt ra ở đây là tại sao việc giải quyết các tranh chấp kinh tế đã có toà án kinh tế theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, vậy trọng tài phi Chính phủ được thành lập nhằm mục đích gì? Có các nguyên nhân sau đây: Một là: Thủ tục tố tụng của toà án có thể qua nhiều cấp xét xử khác nhau, điều đó không phù hợp với đòi hỏi của các nhà kinh doanh về mặt thời gian. Các nhà kinh doanh muốn vụ tranh chấp được phán quyết nhanh chóng bằng thủ tục đơn giản, phù hợp với công việc kinh doanh của họ; Hai là: Các nhà kinh doanh có quyền tự do kinh doanh theo luật định đồng thời cũng có quyền lựa chọn cơ quan tài phán trong việc giải quyết tranh chấp về kinh tế. Họ muốn "chọn mặt gửi vàng" vào cơ quan tài phán mà họ tín nhiệm, muốn có "người" giải quyết tranh chấp do họ lựa chọn, thậm chí
  17. muốn lựa chọn về thời gian, địa điểm để giải quyết vụ tranh chấp Về vấn đề này tố tụng của toà án không thể đáp ứng đầy đủ được. Ba là: Các nhà kinh doanh muốn gữi bí mật, đảm bảo uy tín trong hợp đồng kinh doanh họ thường không muốn doanh nghiệp mình phải ra "hầu toà" bị đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhưng về nguyên tắc tố tụng của toà án đòi hỏi xét xử công khai trừ trường hợp đặc biệt có lý do chính đáng; Bốn là: Các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta ngày càng phát triển với những hình thức đa dạng, phong phú như hợp đồng mua bán ngoại thương, hợp đồng đầu tư . có những tranh chấp phát sinh từ quan hệ kinh tế Quốc tế như: tranh chấp về tài chính, tín dụng, bảo hiểm, vận tải, du lịch quốc tế trong khi các đương sự không muốn giải quyết bằng toà án và theo thông lệ chung các nước có nền kinh tế thị trường thì những tranh chấp đó thường do Trọng tài thương mại giải quyết. Năm là: Mô hình giải quyết tranh chấp kinh tế trong kinh doanh bằng con đường trọng tài thương mại phi Chính phủ ở các nước có nền kinh tế thị trường rất được ưa chuộng điều này chứng tỏ một số ưu điểm độc đáo phù hợp với các nhà kinh doanh. 4.2 Trung tâm Trọng tài: Trước đây văn bản Pháp luật quan trọng điều chỉnh tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế là Nghị định 116 ngày 5/9/1994 nhưng đã được thay thế bằng Pháp lệnh trọng tài thương mại số 08/2003 PL - UBTVQH 11 ban hành ngày 25/2/2003 có hiệu lực ngày 01/07/2003. 4.2.1 Khái niệm, đặc điểm: a. Khái niệm: Trung tâm trọng tài là tổ chức phi Chính phủ có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản riêng, Trung tâm trọng tài được lập Chi nhánh, Văn phòng đại diện cho Trung tâm, có Ban điều hành và các trọng tài viên có Chủ tịch, Phó chủ tịch, Tổng thư ký. b. Đặc điểm: Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thoả thuận và được tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng do Pháp lệnh trọng tài thương mại ban hành ngày 25/2/2003. Tranh chấp giữa các bên được giải quyết tại Hội đồng trọng tài do Trung tâm trọng tài tổ chức hoặc tại Hội đồng trọng tài do các bên thành lập (Điều 2 Khoản 1 và Điều 4). - Về hình thức: Trọng tài thương mại là tổ chức phi Chính phủ; - Tổ chức hoạt động: Để tổ chức và hoạt động theo Điều lệ và Quy tắc tố tụng của mỗi Trung tâm phù hợp với quy định của các văn bản pháp luật hiện hành nhưng không được trái với những qui định của Pháp lệnh số 08/2003 UBTVQH 11;
  18. - Một đặc điểm nữa là: Các quyết định của Hội đồng trọng tài là Chung thẩm, các bên phải thi hành; - Đặc điểm thứ tư là: Các bên có quyền thoả thuận lựa chọn Trung tâm trọng tài để giải quyết tranh chấp. 4.2.2 Thẩm quyền: Theo qui định của Pháp lệnh số 08/PL/2003 UBTVQH 11 trọng tài có thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh trong “hoạt động thương mại” theo sự thoả thuận của các bên bằng văn bản hoặc hình thức văn bản khác như thư, điện báo, telex, fax, thư điện tử Hoạt động thương mại là một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm: mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li – xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò; khai thác; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ Điều 2 khoản 3 Pháp lệnh Trọng tài Thương mại số 08/PL/2003). 4.2.3 Thành lập và chấm dứt hoạt động của Trung tâm trọng tài: a. Điều kiện: Trung tâm trọng tài chỉ được phép thành lập khi có ít nhất năm Trọng tài viên là sáng lập viên đề nghị và được Hội luật gia Việt nam giới thiệu, Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét Quyết định cấp giấy phép thành lập Trung tâm trọng tài. Trọng tài viên phải là người có đủ các điều kiện theo qui định mới được công nhận là Trọng tài viên: phải là công dân Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, vô tư, khách quan, có bằng đại học và đã qua thực tế công tác theo ngành đã học từ 05 năm trở lên. Pháp luật cũng đưa ra điều kiện cấm chỉ: người đang bị quản chế hành chính, đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị kết án mà chưa được xoá án tích không được làm Trọng tài, Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Chấp hành viên, Công chức đang công tác tại Toà án, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án không được đồng thời làm trọng tài viên (Điều 12 Pháp lệnh 08/2003 UBTVQH 11). b. Thủ tục: - Các sáng lập viên phải gửi hồ sơ đề nghị thành lập Trung tâm trọng tài đến Bộ Tư pháp, trong thời hạn 40 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ trưởng Bộ Tư pháp cấp giấy phép thành lập Trung tâm trọng tài và phê chuẩn Điều lệ của Trung tâm trọng tài, trong trường hợp từ chối, phải trả lời bằng văn bản nêu rõ lý do; - Hồ sơ đề nghị thành lập Trung tâm trọng tài gồm có các nội dung sau: Đơn xin phép thành lập Trung tâm trọng tài;
  19. Họ và tên, địa chỉ, nghề nghiệp của các sáng lập viên; Điều lệ của Trung tâm trọng tài; Văn bản giới thiệu của Hội luật gia Việt nam; - Đơn xin phép thành lập Trung tâm trọng tài gồm có các nội dung sau: Ngày, tháng, năm viết đơn; Họ và tên, địa chỉ, nghề nghiệp của các sáng lập viên; Lĩnh vực hoạt động của Trung tâm trọng tài: Địa điểm dự định đặt trụ sở của Trung tâm trọng tài; - Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được Giấy phép thành lập, Trung tâm trọng tài phải đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp Tỉnh, Thành phố trực thuộc TW nơi Trung tâm trọng tài đặt trụ sở, hết thời hạn này mà Trung tâm trọng tài không đăng ký thì giấy phép bị thu hồi. - Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được cấp giấy đăng ký hoạt động Trung tâm trọng tài phải đăng báo hàng ngày của TW hoặc báo Địa phương nơi đăng ký hoạt động trong 3 số liên tiếp về những nội dung chủ yếu sau: Tên, địa chỉ, trụ sở của Trung tâm trọng tài Lĩnh vực hoạt động của Trung tâm; Số giấy đăng ký hoạt động, cơ quan cấp, ngày, tháng, năm cấp; Thời điểm bắt đầu hoạt động của Trung tâm trọng tài; Trung tâm trọng tài, phải niêm yết tại trụ sở những nội dung trên và danh sách trọng tài viên của Trung tâm trọng tài. c. Chấm dứt hoạt động: Điều 18 Pháp lệnh Trọng tài thương mại số 08/2003 UBTVQH 11 thì Trung tâm trọng tài chấm dứt hoạt động trong các trường hợp sau: - Các trường hợp qui định tại Điều lệ của Trung tâm trọng tài; - Bị thu hồi Giấy phép thành lập; Khi chấm dứt hoạt động, trung tâm trọng tài phải nộp lại Giấy phép thành lập cho cơ quan đã cấp giấy phép. 4.2.4. Giải quyết tranh chấp kinh tế của Trung tâm trọng tài kinh tế. a. Nộp đơn: Khi yêu cầu giải quyết tranh chấp Nguyên đơn phải gửi đơn hợp lệ cho Trung tâm trọng tài mà các bên đã thoả thuận bằng văn bản về việc đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại trung tâm trọng tài. Đơn yêu cầu phải có đầy đủ những nội dung sau: Ngày, tháng, năm viết đơn; Tên và địa chỉ của các bên; Tóm tắt nội dung tranh chấp; Các yêu cầu của Nguyên đơn; Trị giá tài sản mà Nguyên đơn yêu cầu; Trọng tài viên của Trung tâm mà Nguyên đơn chọn;
  20. - Để giải quyết vụ tranh chấp tại Hội đồng trọng tài do các bên thành lập nguyên đơn phải làm đơn kiện gửi cho bị đơn nội dung đơn kiện như trên đã qui định. - Kèm theo đơn kiện nguyên đơn phải gửi bản chính hoặc bản sao thoả thuận trọng tài, bản chính , bản sao các tài liệu, chứng cứ, bản sao phải có chứng thực hợp lệ. - Tố tụng trọng tài bắt đầu khi Trung tâm trọng tài nhận được đơn kiện của nguyên đơn hoặc từ khi bị đơn nhận được đơn kiện của nguyên đơn, nếu vụ tranh chấp được giải quyết tại Hội đồng trọng tài do các bên thành lập; Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ khi nhận được đơn kiện, Trung tâm trọng tài phải gửi cho bị đơn bản sao đơn kiện của nguyên đơn và những tài liệu, chứng cứ; b. Bản tự bảo vệ: - Đối với vụ tranh chấp mà các bên đã chọn Trung tâm trọng tài để giải quyết nếu các bên không có thoả thuận khác thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được đơn kiện và các tài liệu kèm theo của nguyên đơn do Trung tâm trọng tài gửi đến, bị đơn phải gửi cho Trung tâm trọng tài bản tự bảo vệ; - Đối với vụ tranh chấp được giải quyết tại Hội đồng trọng tài do các bên thành lập, nếu không có thoả thuận khác thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được đơn kiện của nguyên đơn và các tài liệu kèm theo bị đơn phải gửi cho nguyên đơn bản tự bảo vệ và tên Trọng tài mà mình lựa chọn. Bản tự bảo vệ phải gồm có các nội dung sau: Ngày, tháng, năm viết bản tự bảo vệ; Tên và địa chỉ của bị đơn; - Lý lẽ và chứng cứ để tự bảo vệ trong đơn bao gồm việc phản bác một phần hoặc toàn bộ nội dung đơn kiện của nguyên đơn. Ngoài những nội dung qui định tại điểm này, nếu bị đơn cho rằng vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài không có thoả thuận trọng tài hoặc thoả thuận trọng tài vô hiệu thì có quyền nêu ra trong bản tự bảo vệ. - Thời hạn bị đơn gửi bản tự bảo vệ kèm theo chứng cứ có thể dài hơn 30 ngày nhưng phải trước ngày Hội đồng trọng tài mở phiên họp. c. Thành lập Hội đồng trọng tài: Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn kiện Trung tâm trọng tài phải gửi cho bị đơn bản sao đơn kiện, tên Trọng tài viên mà nguyên đơn chọn và các tài liệu kèm theo cộng với danh sách trọng tài viên của Trung tâm trọng tài; - Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được tài liệu và các tài liệu kèm theo do Trung tâm trọng tài gửi đến, bị đơn phải chọn Trọng tài viên có tên trong danh sách Trọng tài viên đã gửi và báo cho Trung tâm trọng tài biết hoặc yêu cầu Chủ tịch Trung tâm trọng tài chỉ định trọng tài viên cho mình.
  21. Hết thời hạn này nếu bị đơn không chọn Trọng tài viên cho mình hoặc không yêu cầu Chủ tịch Trung tâm trọng tài chỉ định Trọng tài viên thì trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày hết hạn qui định này, Chủ tịch trung tâm trọng tài chỉ định trọng tài viên có tên trong danh sách của Trung tâm cho bị đơn. - Trong trường hợp vụ tranh chấp có nhiều bị đơn mà các bị đơn không thống nhất chọn được trọng tài viên trong thời hạn 30 ngày thì trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu chọn Trọng tài viên Chủ tịch trung tâm trọng tài chỉ định Trọng tài viên có tên trong danh sách của Trung tâm trọng tài cho các bị đơn. - Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày hai Trọng tài viên được các bên chọn, các Trọng tài viên này phải chọn Trọng tài viên thứ 3 có tên trong danh sách trọng tài viên của Trung tâm làm Chủ tịch hội đồng trọng tài. Hết thời hạn trên mà hai Trọng tài viên được chọn không chọn được Trọng tài viên thứ 3 làm Chủ tịch thì trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày hết hạn theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Chủ tịch Trung tâm trọng tài chỉ định Trọng tài viên thứ 3 có tên trong danh sách Trọng tài viên làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài. - Trong trường hợp các bên thoả thuận vụ tranh chấp do Trọng tài viên duy nhất của Trung tâm trọng tài giải quyết nhưng không chọn được Trọng tài viên thì theo yêu cầu của mỗi bên, Chủ tịch trung tâm trọng tài chỉ định Trọng tài viên duy nhất cho các bên trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu và thông báo cho các bên (Điều 25 khoản 4 Pháp lệnh 08/2003 UBTVQH11). d. Hội đồng trọng tài do các bên thành lập: Tương tự như thành lập Hội đồng Trọng tài tại Trung tâm trọng tài việc giải quyết tranh chấp kinh tế có thể được giải quyết bởi một Hội đồng trọng tài gồm 3 trọng tài viên hoặc do một trọng tài viên duy nhất thực hiện. Tuy nhiên trong trường hợp này Chánh án Toà án Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương giao cho một Thẩm phán chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn nếu bị đơn không chọn được Trọng tài viên theo yêu cầu của nguyên đơn trong thời hạn 7 ngày làm việc. - Chánh án Toà án cấp Tỉnh cũng thực hiện việc giao cho một Thẩm phán chỉ định trọng tài viên thứ 3 làm Chủ tịch Hội đồng, trong thời hạn 15 ngày nếu hai Trọng tài viên được chọn hoặc người được chỉ định không chọn được trọng tài viên thứ 3 làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài; - Trọng tài viên do các bên chọn hoặc toà án chỉ định có thể là trọng tài viên trong danh sách hoặc ngoài danh sách trọng tài viên của các trung tâm trọng tài của Việt Nam. Trong trường hợp các bên có thoả thuận giao vụ tranh chấp do một trọng tài viên giải quyết nhưng không thoả thuận được việc chọn Trọng tài viên duy nhất thì theo yêu cầu của một bên Chánh án Toà án
  22. nhân dân cấp Tỉnh nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú giao cho một Thẩm phán chỉ định Trọng tài viên duy nhất cho các bên trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu và thông báo cho các bên. - Trọng tài viên duy nhất làm nhiệm vụ như một Hội đồng trọng tài, Quyết định của trọng tài viên này có hiệu lực thi hành như quyết định của Hội đồng trọng tài. 4.3 Giải quyết tranh chấp:  Trọng tài viên nghiên cứu hồ sơ và tiến hành các công việc cần thiết cho việc giải quyết tranh chấp trọng tài viên có thể nghe các bên trình bày ý kiến, yêu cầu các bên cung cấp các bản giải thích, các bằng chứng và tài liệu khác có liên quan hoặc có thể tìm hiểu sự việc có liên quan từ những người khác với sự có mặt của các bên hoặc sau khi đã báo cáo cho các bên biết. Trong trường hợp cần thiết, Hội đồng trọng tài có thể tự mình thu thập chứng cứ, mời giám định theo yêu cầu của một bên hoặc các bên và phải thông báo cho các bên biết, bên yêu cầu giám định phải nộp tạm ứng phí giám định (Điều 32, khoản 2 Pháp lệnh Trọng tài thương mại số 08/2003 UBTVQH 11).  Thời gian địa điểm phiên họp giải quyết vụ tranh chấp do Chủ tịch Hội động trọng tài quyết định. Giấy triệu tập các bên tham dự phiên họp giải quyết vụ tranh chấp phải gửi cho các bên chậm nhất 30 ngày trước ngày mở phiên họp. Phiên họp giải quyết vụ tranh chấp không công khai, trong trường hợp có sự đồng ý của các bên, Hội đồng trọng tài cho phép những người khác tham dự phiên họp (Điều 38 Pháp lệnh số 08/2003 PL UBTVQH 11)  Theo đề nghị của các bên hoặc được các bên chấp thuận vụ tranh chấp có thể được giải quyết không có mặt của các bên. Trong trường hợp nguyên đơn vắng mặt mà không có lý do chính đáng hoặc bỏ phiên họp mà không được Hội đồng trọng tài đồng ý thì được coi là rút đơn kiện, Hội đồng trọng tài tiếp tục giải quyết vụ tranh chấp nếu bị đơn yêu cầu hoặc có đơn kiện lại. Bị đơn vắng mặt mà không có lý do chính đáng hoặc bỏ phiên họp mà không được Hội đồng trọng tài đồng ý thì việc giải quyết tranh chấp được tiến hành căn cứ vào tài liệu và chứng cứ hiện có. Hội đồng trọng tài có thể căn cứ vào hồ sơ để giải quyết vụ tranh chấp mà không cần các bên có mặt (Điều 40 Pháp lệnh 08/2003 Pháp lệnh UBTVQH 11)  Các bên có thể trực tiếp hoặc uỷ quyền cho người đại diện tham dự phiên họp giải quyết vụ tranh chấp hoặc có quyền mời nhân chứng, Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong việc giải quyết tranh chấp (Điều 39 Pháp lệnh).
  23.  Trong trường hợp quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại thì các bên có quyền làm đơn đến Toà án cấp Tỉnh nơi Hội đồng trọng tài thụ lý vụ tranh chấp yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời như kê biên tài sản, kê biên niêm phong tài sản ở nơi gửi giữ, phong toả tài khoản tại ngân hàng, bảo toàn chứng cứ trong trường hợp đang bị tiêu huỷ hoặc có nguy cơ bị tiêu huỷ.  Việc giải quyết tranh chấp được tiến hành căn cứ vào những điều khoản của hợp đồng và pháp luật hiện hành, mọi diễn biến của phiên họp giải quyết tranh chấp phải được Thư ký Trung tâm trọng tài ghi thành biên bản. Biên bản phải được các Trọng tài viên và Thư lý cùng ký và phải có chữ ký của Chủ tịch Hội đồng trọng tài. Khi quyết định Hội đồng được thiết lập theo nguyên tắc đa số, trừ trường hợp vụ tranh chấp do Trọng tài viên duy nhất giải quyết, ý kiến của thiểu số được ghi vào biên bản phiên họp (Điều 42, Pháp lệnh 08/2003 UBTVQH 11) Quyết định trọng tài phải có các nội dung chủ yếu sau: Ngày tháng, năm ra quyết định trọng tài; Tên Trung tâm trọng tài; Tên, địa chỉ của các Nguyên đơn, Bị đơn; Họ tên các trọng tài viên hoặc trọng tài viên duy nhất; Tóm tắt đơn kiện và các vấn đề tranh chấp; Cơ sở để quyết định trọng tài; Quyết định về vụ tranh chấp, quyết định phí trọng tài và các chi phí khác; Thời hạn thi hành quyết định trọng tài; Chữ ký của các trọng tài viên hoặc trọng tài viên duy nhất Quyết định trọng tài có hiệu lực kể từ ngày công bố. - Quyết định trọng tài có thể được công bố ngay tại phiên họp cuối cùng hoặc có thể công bố sau nhưng chậm nhất là 60 ngày, kể từ ngày kết thúc phiên họp. Toàn văn quyết định trọng tài phải được gửi cho các bên ngay sau ngày công bố. - Sau khi quyết định trọng tài được công bố, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định trọng tài một bên có thể yêu cầu Hội đồng trọng tài sửa chữa những lỗi về tính toán, lỗi đánh máy hoặc những lỗi khác. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu, Hội đồng trọng tài tiến hành chỉnh sửa và phải thông báo cho các bên biết (Điều 46 Pháp lệnh 08/2003 của UBTVQH 11). - Các bên có quyền yêu cầu huỷ quyết định trọng tài trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định trọng tài, nếu không đồng ý với quyết định trọng tài này thì có quyền làm đơn gửi toà án cấp Tỉnh nơi Hội đồng trọng tài ra quyết định trọng tài yêu cầu huỷ quyết định trọng tài, nếu các bên gửi
  24. đơn quá hạn vì có sự kiện bất khả kháng thì thời gian có sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hạn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài. Đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài gồm các nội dung sau: Ngày, tháng, năm viết đơn; Tên và địa chỉ của bên có yêu cầu huỷ quyết định trọng tài; Lý do yêu cầu hủy quyết định trọng tài; Kèm theo đơn yêu cầu phải có các giấy tờ sau: Bản chính hoặc bản sao quyết định trọng tài đã được chứng thực hợp lệ; Bản chính hoặc bản sao thoả thuận trọng tài đã được chứng thực hợp lệ; Giấy tờ kèm theo yêu cầu bằng tiếng nước ngoài phải được dịch ra tiếng Việt và bản dịch phải được chứng thực hợp lệ; - Toà án phải thông báo ngay cho các bên và yêu cầu nộp lệ phí, toà án có quyền yêu cầu bên nộp đơn giải thích những điều chưa rõ trong đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài; - Sau khi thụ lý đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài, toà án phải thông báo cho Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài do các bên thành lập, các bên tranh chấp và Viện kiểm sát cùng cấp. Trong trường hợp vụ tranh chấp do Trung tâm tổ chức giải quyết thì trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo của toà án, trung tâm trọng tài phải chuyển hồ sơ cho toà án. - Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thụ lý, Chánh án Toà án chỉ định một Hội đồng xét xử gồm 3 Thẩm phán, trong đó có một Thẩm phán làm chủ toạ mở phiên toà xét đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài, toà án phải chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 7 ngày làm việc, trước ngày mở phiên toà. - Phiên toà được tiến hành với sự có mặt của các bên tranh chấp, Luật sư (nếu có), Kiểm sát viên cùng cấp, nếu một trong các bên vắng mặt không có lý do chính đáng thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài; - Hội đồng xét xử không xét lại nội dung vụ tranh chấp mà chỉ kiểm tra giấy tờ theo quy định của pháp luật, chứng cứ, đối chiếu với những căn cứ để huỷ quyết định trọng tài. Các căn cứ để huỷ quyết định trọng tài như sau: Không có thoả thuận trọng tài; Thoả thuận trọng tài vô hiệu; Thành phần Hội đồng trọng tài, tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên; Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài Các bên chứng minh được có trọng tài viên vi phạm nghĩa vụ trọng tài viên quy định tại Khoản 2, Điều 13 Pháp lệnh 08/2003 UBTVQH 11;
  25. Quyết định trọng tài trái với lợi ích công cộng của nước CHXHCN Việt nam. Hội đồng xét xử có quyền ra quyết định huỷ hoặc không huỷ quyết định trọng tài theo quy định của Pháp luật. - Điều 55 của Pháp lệnh Trọng tài quy định: Trong thời hạn 15 ngày các bên có quyền kháng cáo quyết định của toà án, Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị quyết định của toà án. Đơn kháng cáo, quyết định, kháng nghị phải nêu rõ lý do yêu cầu của kháng cáo, kháng nghị và phải gửi cho toà án ra quyết định. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát nhân dân tối cao là 30 ngày kể từ ngày toà án ra quyết định. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định kháng nghị hoặc nhận đơn kháng cáo và người kháng cáo đã nộp lệ phí kháng cáo tòa án ra quyết định phải chuyển hồ sơ lên toà án nhân dân tối cao. - Xét kháng cáo, kháng nghị: Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ kháng cáo hoặc quyết định kháng nghị, toà án nhân dân tối cao phải mở phiên toà xem xét quyết định. Nếu cần phải yêu cầu người kháng cáo, kháng nghị giải thích những nội dung kháng cáo, kháng nghị thì thời hạn mở phiên toà được kéo dài thêm nhưng không quá 60 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ kháng cáo, kháng nghị toà án phải chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 7 ngày làm việc trước ngày mở phiên toà. Thành phần Hội đồng xét kháng cáo, kháng nghị gồm 3 thẩm phán, trong đó có một Thẩm phán làm chủ toạ do toà án nhân dân tối cao chỉ định; Phiên toà được tiến hành với sự có mặt của các bên tranh chấp, Luật sư của các bên (nếu có), Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp; Sau khi xem xét đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị, tài liệu kèm theo chứng cứ (nếu có), nghe ý kiến của các bên được triệu tập, của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử thảo luận và quyết định theo đa số; Hội đồng xét xử có quyền giữ nguyên, sửa một phần hoặc toàn bộ quyết định của toà án cấp sơ thẩm, đình chỉ việc xét kháng cáo trong trường hợp Viện kiểm sát rút quyết định kháng nghị, bên kháng cáo rút kháng cáo hoặc đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng bỏ phiên họp mà không được Hội đồng xét xử đồng ý. Quyết định của toà án nhân dân tối cao là quyết định cuối cùng và có hiệu lực thi hành. - Thi hành Quyết định trọng tài: Sau thời hạn 30 ngày kể từ ngày hết thời hạn thi hành quyết định trọng tài, nếu một bên không tự nguyện thi hành cũng không yêu cầu huỷ quyết định trọng tài, thì bên thi hành quyết định trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án cấp Tỉnh nơi có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi có tài sản của bên phải thi hành, thi hành quyết định trọng tài.
  26. Trong trường hợp một trong các bên có yêu cầu toà án huỷ quyết định trọng tài thì quyết định trọng tài được thi hành kể từ ngày quyết định toà án không huỷ quyết định trọng tài có hiệu lực. Trình tự thủ tục và thời hạn thi hành quyết định trọng tài theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự. 4.4 Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam 4.4.1 Khái quát chung: a. Đặc điểm của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt nam: - Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt nam là tổ chức trọng tài phi Chính phủ được thành lập bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh tế có yếu tố nước ngoài là chủ yếu. - Về tổ chức của hệ thống trọng tài Quốc tế Việt nam: Chỉ có một Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt nam duy nhất đặt trụ sở ở Hà nội, không tổ chức theo cấp quản lý từ Trung ương đến địa phương. - Trọng tài viên của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt nam do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam chọn và có thể mời chuyên gia nước ngoài làm trọng tài viên của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt nam, các trọng tài viên có thể kiêm nhiệm và không phải dự thi để được cấp thẻ trọng tài viên vì thế tư cách trọng tài viên của họ chỉ được xác định khi họ giải quyết tranh chấp do trung tâm trọng tài Quốc tế Việt nam giao cho. - Các phán quyết của Uỷ ban trọng tài có giá trị chung thẩm, nếu phán quyết đó không được tự giác thi hành trong thời hạn qui định thì sẽ áp dụng biện pháp cưỡng chế theo pháp luật của nước nơi phán quyết được yêu cầu thi hành. Trước đây ở nước ta có Hội đồng trọng tài Ngoại thương và Hội đồng trọng tài Hàng hải. Để thống nhất hoạt động của hai tổ chức này, tránh sự chồng chéo về thẩm quyền cũng như thi hành quyết định trọng tài, ngày 28/4/1993 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 204/TTg về tổ chức trung tâm trọng tài Quốc tế Việt nam (VIAC) trên cơ sở sáp nhập Hội đồng trọng tài Ngoại thương và Hội đồng trọng tài Hàng hải ban hành kèm theo Quyết định này là Điều lệ tổ chức Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam. b. Về tổ chức của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt nam có Chủ tịch và hai Phó Chủ tịch do các trọng tài viên của Trung tâm bầu ra với nhiệm kỳ 4 năm. Trung tâm có một Thư ký thường trực do Chủ tịch Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt nam chỉ định. Các trọng tài viên của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt nam là những người có kiến thức và kinh nghiệm trong các lĩnh vực pháp luật Ngoại thương, Tài chính, Ngân hàng, Bảo hiểm, Đầu tư Trọng tài viên do Ban thường trực Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam
  27. lựa chọn, với nhiệm kỳ 4 năm, sau mỗi nhiệm kỳ các trọng tài viên có thể được chọn lại, Chuyên gia nước ngoài cũng có thể được mời làm trọng tài viên của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt nam. c. Thẩm quyền của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt nam: Theo qui định tại Điều lệ tổ chức Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt nam ban hành kèm theo Quyết định 204 TTg và Quyết định 114 TTg ngày 26/2/1996 của Thủ tướng Chính phủ, thì Trung tâm trọng tài quốc tế Việt nam có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp sau đây: - Tranh chấp phát sinh từ quan hệ kinh tế quốc tế như các hợp đồng mua bán ngoại thương, các hợp đồng đầu tư, vận tải, du lịch và bảo hiểm quốc tế, chuyển giao công nghệ, tín dụng thanh toán Quốc tế v.v Khi có đủ các điều kiện sau đây: Một hoặc các bên đương sự là thể nhân hay pháp nhân nước ngoài; Nếu trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp, các bên đương sự thoả thuận đưa vụ việc ra trước Trung tâm trọng tài quốc tế Việt nam để giải quyết hoặc có một điều ước quốc tế ràng buộc các bên phải đưa vụ tranh chấp ra trước Trung tâm trọng tài quốc tế Việt nam để giải quyết. Các quan hệ phát sinh từ quan hệ kinh doanh trong nước nếu các bên thoả thuận đưa vụ việc đó ra Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt nam để giải quyết (Điều 1 Quyết định 114 TTg). Như vậy, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt nam không những có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh quan hệ kinh tế quốc tế mà hiện nay tổ chức này còn có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp kinh doanh trong nước, nếu các bên đương sự thoả thuận lựa chọn tổ chức này giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, Pháp lệnh trọng tài thương mại số 08/PLUBTVQH ban hành ngày 25/2/1003 có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2003 thì các Quyết định số 204TTg ngày 28/4/1993 và Quyết định 114 TTg ngày 16/2/1996 hết hiệu lực do vậy Trung tâm trọng tài Quốc tế sẽ phải sửa đổi bổ sung Điều lệ, Quy tắc tố tụng trọng tài cho phù hợp với quy định của Pháp lệnh số 08/PLUBTVQH trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày Pháp lệnh này có hiệu lực. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Từ khi chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể về kinh tế, nhất là những năm gần đây liên tục tăng trưởng. Các quan hệ pháp luật kinh tế cũng ngày càng được củng cố và phát triển, các quan hệ hợp đồng kinh tế giữa các chủ thể trong nước với nhau và giữa chủ thể trong nước với chủ thể nước ngoài cũng ngày càng phát triển đa
  28. dạng tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đề ra. Thời gian qua tranh chấp hợp đồng kinh tế xảy ra chủ yếu và có tính chất phổ biến ở các lĩnh vực hoạt động kinh tế: Xây dựng cơ bản, vận chuyển hàng hoá, vay tín dụng, thương mại, bảo hiểm Đồng thời các tranh chấp có yếu tố nước ngoài trong lĩnh vực mua bán hàng hoá, vận tải, bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu với nội dung phức tạp vì liên quan đến luật pháp quốc tế, pháp luật Hàng hải, liên quan đến các loại tài sản có giá trị lớn như tàu biển, hàng hóa xuẩt nhập khẩu Tranh chấp kinh tế thường liên quan đến nhiều đối tượng, có những vụ án các đối tượng có quyền và nghĩa vụ liên quan lại là các chủ thể tham gia các quan hệ tố tụng khác (hình sự, dân sự, hành chính ) nên việc giải quyết gặp không ít khó khăn phức tạp và mất nhiều thời gian để điều tra xác minh, thu thập chứng cứ và áp dụng pháp luật. Đương sự trong các vụ án kinh tế thường có trình độ học vấn cao, có hiểu biết nhất định về mặt pháp luật, có nhiều mánh lới trong làm ăn kinh tế nên thường lợi dụng những hạn chế, những kẽ hở của pháp luật trong ký kết, thực hiện hợp đồng kinh tế hoặc trong giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế, mặt khác, nếu thực hiện tốt việc phân tích, thuyết phục thì hai bên đương sự cũng dễ dàng chấp nhận, thoả thuận với nhau bằng biện pháp thương lượng, hòa giải để giải quyết các tranh chấp kinh tế đã phát sinh giữa các bên. I. CÁC LOẠI TRANH CHẤP PHỔ BIẾN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 1. Tranh chấp phát sinh do một bên vi phạm nghĩa vụ giao hàng hoặc thực hiện lao vụ: Trong thực tế kinh doanh tranh chấp phát sinh do một bên vi phạm nghĩa vụ giao hàng hoặc thực hiện lao vụ thường sảy ra rất phổ biến do tập quán và đặc thù khinh doanh ở nước ta. Những tranh chấp này thường do các bên thực hiện không đầy đủ các điều khoản của hợp đồng, không thực hiện nghĩa vụ giao hàng, thậm chí không thực hiện hợp đồng. Dưới đây là một ví dụ điển hình của loại tranh chấp này: Quan hệ kinh tế giữa công ty P và doanh nghiệp tư nhân T (DNTN) hình thành từ các hợp đồng mua bán gạo, Ngày 03/02/1994 hai bên đã ký hợp đồng số 20. Futher, theo đó DNTN T bán cho công ty P 500 tấn gạo 5% tấm với đơn giá là 2150đ/kg với tổng trị giá là 1.075.000.000 đồng. Công ty P ứng trước cho DNTN T 1.000.000.000 đồng sau đó DNTN T đã giao cho công ty P 399 tấn gạo 5% tấm, trị giá 857.850.000 đồng. Hết thời hạn hợp đồng DNTN T vẫn không giao đủ hàng và còn nợ lại công ty P là
  29. 142.150.000 đồng, Hai bên đã tiến hành thanh lý hợp đồng 20.Futher và cùng thống nhất chuyển số tiền 142.150.000 đồng từ hợp đồng 20.Futher sang hợp đồng 21B.Futher ký ngày 16/4/1994, theo hợp đồng số 21B.Futher, DNTN T bán cho công ty P 317,8 tấn gạo 5% tấm, đơn giá 2150đ/kg với tổng trị giá hợp đồng là 799.370.000 đồng, Hai bên đã thoả thuận chuyển số tiền 142.150.000 đồng từ hợp đồng số 20. Futher sang hợp đồng 21B. Futher đồng thời công ty P ứng trước cho DNTN T 912.650.250 đồng để thực hiện hợp đồng 21B. Futher DNTN T đã giao hàng cho công ty P 317,8 tấn gạo trị giá 799.370.000 đồng. Hết hạn hợp đồng DNTN T vẫn không giao đủ số gạo theo hợp đồng và còn nợ công ty P 255.430.250 đồng. Hai bên đã tiến hành thanh lý hợp đồng và cũng thống nhất chuyển số nợ này sang hợp đồng số 71.Futher, Hợp đồng số 71. Futher được ký ngày 7/5/1994, theo đó DNTN T bán cho công ty P 500 tấn gạo 5% tấm với đơn giá 2080 đồng/kg và trị giá hợp đồng là 1.040.000.000 đồng, trong hợp đồng số 71.Futher hai bên còn thoả thuận chuyển số nợ là 255.430.250 đồng từ hợp đồng số 21B. Futher sang hợp đồng 71. Futher và công ty P ứng trước cho DNTN T 930.000.000 đồng. Thực hiện hợp đồng này DNTN T đã giao hàng cho công ty P 200 tấn gạo trị giá 420.000.000 đồng và hoàn trả lại bằng tiền mặt cho công ty P 240.000.000 đồng. Hết hạn hợp đồng này DNTN T giao hàng thiếu và còn nợ công ty P số hàng tương ứng với số tiền là 525.430.250 đồng và 6.432.000 đồng bao bì. Ngày 11/7/1994 hai bên ký phụ lục số 01/PK điều chỉnh lại đơn giá từ 2080đồng/ Kg lên 2100 đồng/ Kg. Thực hiện hợp đồng này DNTN T giao cho công ty P 200 tấn gạo trị giá 420.000.000 đồng và hoàn trả lại bằng tiền mặt cho công ty P 240.000.000 đồng. Hết hạn hợp đồng DNTN T vẫn chưa giao đủ hàng cho công ty P và còn nợ công ty P số hàng tương ứng với 525.430.250 đồng và 6.432.000 đồng tiền bao bì. Ngày 14/7/1994 hai bên tiền hành thanh lý hợp đồng số 71.Futher và thống nhất chuyển số nợ là 531.862.250 đồng sang hợp đồng số 112.Futher. Cùng ngày 14/7/1994 hai bên đã ký hợp đồng số 112.Futher theo đó DNTN T bán cho công ty P 500 tấn gạo với đơn giá 1690 đồng/ Kg và trị giá hợp đồng là 845.000.000 đồng. Hai bên còn thoả thuận chuyển số tiền 531.862.250 đồng từ hợp đồng 71.Futher sang hợp đồng 112.Futher. Trong hợp đồng số 112.Futher công ty P không ứng tiền cho DNTN T. DNTN T không thực hiện hợp đồng 112. Futher. Hai bên cũng không tiến hành làm biên bản thanh lý hợp đồng, mà DNTN T làm bản cam kết trả lại số tiền 531.862.250 đồng cho công ty P và nếu chậm trả thì phải chịu lãi suất 2,1% theo lãi ngân hàng, DNTN T đã thực hiện cam kết và đã trả được 470.640.000 đồng. Tính đến ngày 5/10/1996 DNTN T còn nợ công ty P là 61.222.250 đồng. Công ty P đã nhiều lần gửi công văn đòi nợ DNTN T nhưng vẫn không lấy lại được tiền. Giám đốc hai bên đã gặp nhau để giải
  30. quyết nhưng vẫn không đi đến thoả thuận cuối cùng. Ngày 5/10/1996 Công ty P gửi đơn kiện đến Toà kinh tế Toà án Nhân dân Tỉnh Long An yêu cầu giải quyết vụ tranh chấp. Tại phiên toà ngày 15/10/1996 Công ty P yêu cầu DNTN T trả 61.222.250 đồng nợ gốc và 50.353.136 đồng tiền lãi theo mức lãi suất 2,1% tháng từ 7/5/1994 đến 5/10/1996. Ông Hà, chủ DNTN T thừa nhận là có quan hệ buôn bán với công ty P qua các hợp đồng số 20 Futher, 21B.Futher, 71.Futher, 112. Futher và đã không thực hiện hợp đồng số 112. Futher đã cam kết trả dần số tiền 531.862.250 đồng và đã trả được 470.640.000 đồng còn nợ gố là 61.222.250 đồng Ông Hà xin Toà không trả tiền lãi. Sau khi đọc hồ sơ và nghe các bên trình bày, Toà án Nhân dân Tỉnh Long An tuyên rằng các HĐKT số 20.Futher, 21B.Futher, 71.Futher, 112.Futher được ký giữa công ty P và DNTN T là hoàn toàn phù hợp với ngành nghề kinh doanh và tư cách chủ thể. Hợp đồng được tiến hành trên cơ sở tự do thoả thuận, thống nhất và bình đẳng giữa các bên, phù hợp với quy định của pháp luật. Các điều khoản được thoả thuận trong Các hợp đồng số 20.Futher, 21B.Futher, 71.Futher (trừ hợp đồng số 112. Futher), sau khi ký kết hai bên tiến hành thực hiện các điều khoản trong hợp đồng, hết hạn hợp đồng, hai bên tiến hành làm bản thanh lý, mặc dù các hợp đồng này DNTN T không giao đủ hàng nhưng hai bên thống nhất chuyển số nợ sang hợp đồng tiếp theo, hoàn toàn phù hợp với luật định. Riêng hợp đồng số 112. Futher, hai bên thoả thuận ký kết nhưng phía DNTN T không thực hiện hợp đồng và sau khi hết hạn hợp đồng hai bên không tiến hành thanh lý. Tuy nhiên, hai bên đã gặp nhau thoả thuận về việc trả số tiền còn lại bằng tiền mặt, được tiến hành bằng văn bản cam kết có chữ ký của cả hai bên. Bị đơn đã công nhận nợ trước công ty P là 61.222.250 đồng. Riêng phần lãi nhận thấy đây là số nợ phát sinh từ hoạt động kinh doanh giữa hai đơn vị kinh tế việc chịu lãi suất, bồi thường thiệt hại hay bị phạt vi phạm từ hành vi vi phạm của mình là lẽ đương nhiên. Do vậy, yêu cầu không tính lãi của ông Hà không được chấp nhận, Về phía Nguyên đơn yêu cầu thanh toán khoản nợ gốc 61.22.250 đồng là hoàn toàn hợp lý. Còn phần lãi là 50.353.136đồng tính theo lãi suất 2,1% tháng từ 7/5/1994 đến 5/10/1996 là chưa phù hợp, Theo biên bản thanh lý hợp đồng số 71.Futher ngày 14/7/1994 thì hai bên chuyển số nợ 531.862.250 đồng sang hợp đồng số 112.Futher và cùng ngày hợp đồng số 112.Futher đã được ký. Từ ngày ký hợp đồng cho đến khi hết hạn DNTN T không thực hiện hợp đồng và cả hai bên không ký kết phụ lục gì thêm nên việc tính lãi suất chỉ được tính từ ngày ký hợp đồng số 112.Futher đến ngày 5/10/1996. Có nghĩa là DNTN T phải trả 61.222.250 đồng nợ gốc và 47.002.404 đồng tiền lãi tính theo lãi suất 2,1%/Tháng từ ngày 14/7/1994 đến 5/10/1996. Toà án còn tuyên xử buộc DNTN T phải trả toàn bộ án phí
  31. cho Nguyên đơn. Cách giải quyết của Toà án Tỉnh Long An là thoả đáng được hai bên chấp nhận và cam kết thực hiện. 2. Tranh chấp phát sinh do một bên vi phạm nghĩa vụ thanh toán và tiếp nhận hàng hoá công việc: Trong hoạt động kinh doanh việc một bên vi phạm nghĩa vụ thanh toán hoặc tiếo nhận hàng hoá công việc thường xuyên sảy ra, bởi nó liên quan đến tiền hàng, nhiều khi các bên chưa có tiền, chưa giao kịp hàng thậm chí có rồi nhưng vì một lý do tế nhị nào đó mà các bên không thực hiện nghĩa vụ thanh toán và tiếp nhận hàng hoá công việc dẫn đến tranh chấp sảy ra. Sau đây là 02 ví dụ về vấn đề này: Vụ tranh chấp thứ nhất: Nguyên đơn là một doanh nghiệp Việt Nam, Bị đơn là một công ty Hoa Kỳ các vấn đề cần được giải quyết là nghĩa vụ trả tiền hàng của Bị đơn, tính tiền lãi suất. Tóm tắt sự việc: Nguyên đơn và Bị đơn đã ký 02 hợp đồng mua bán số 24 -X2 ngày 08/7/1999 và số 29- X2 ngày 29/7/1999 theo đó Nguyên đơn bán cho Bị đơn 44MT hạt tiêu đen theo điều kiện FOB Cảng Thành phố Hồ Chí MInh thanh toán bằng D/P, các chứng từ được yêu cầu gồm: vận đơn hoàn hảo đã xếp hàng lên tàu (Clean on board B/L), hoá đơn thương mại, giấy chứng nhận số lượng và phẩm chất, giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật, phiếu đóng gói. Thực hiện hợp đồng số 24-X2, Nguyên đơn đã giao 14 MT hạt tiêu đen, lấy vận đơn hoàn hảo đã xếp hàng lên tàu ký ngày 24/7/1999, Nguyên đơn lập bộ chứng từ nhờ ngân hàng A ở Tiền Giang thu hộ 61.230 USD, ngân hàng A đã đồng ý thu hộ. Ngân hàng A đã gửi bộ chứng từ tới ngân hàng North Banc (Hoa kỳ) nhờ ngân hàng này thu tiền theo D/P. Sau đó ngân hàng A và Nguyên đơn đã nhiều lần gửi Fax đòi tiền từ ngân hàng North Banc và Bị đơn nhưng vẫn không được trả. Thực hiện hợp đồng số 29-X2 Nguyên đơn đã giao cho Bị đơn 30 MT hạt tiêu đen, lấy vận đơn hoàn hảo đã xếp hàng lên tàu ký ngày 20/8/1999, Nguyên đơn lập bộ chứng từ nhờ ngân hàng Việt nam B ở Hậu Giang thu hộ 124.150 USD theo D/P, ngân hàng Việt Nam B đã đồng ý và đã gửi bộ chứng từ cho ngân hàng North Banc (Hoa kỳ) nhờ ngân hàng này thu tiền theo D/P. Tiếp theo ngân hàng Việt Nam B cùng và Nguyên đơn đã nhiều lần gửi Telex, Fax, thư đòi tiền từ ngân hàng NorthBanc và Bị đơn nhưng vẫn chưa được trả tiền. Mặc dù, chưa thanh toán tiền hàng nhưng theo thông báo của hãng tàu, Bị đơn đã nhận cả hai lô hàng bằng vận đơn gốc do hãng tàu ký phát, chuyến cuối cùng nhận ngày 10/9/1999.
  32. Sau ngày 10/9/1999 Nguyên đơn tiếp tục gửi nhiều điện, fax đòi Bị đơn trả tiền hàng nhưng Bị đơn vẫn chưa trả. Ngân hàng A và Ngân hàng Việt Nam B đã gửi thư, điện, fax đòi ngân hàng Nothr Banc gửi trả tiền hoặc trả lại bộ chứng từ nhưng ngân hàng Nothr Banc không trả lời. Ngày 14/12/1999 Bị đơn gửi Fax cho Nguyên đơn yêu cầu Nguyên đơn kéo dài thêm một thời gian nữa cho việc thanh toán 61.230 USD và 13.150 USD tiền hàng và Bị đơn sẵn sàng trả lãi suất theo mức 9%/năm. Ngày 15/12/1999 Nguyên đơn đã gửi fax cho Bị đơn không chấp nhận đề nghị trong bản fax ngày 14/12/1999 của Bị đơn. Đồng thời Nguyên đơn tuyên bố nếu đến ngày 20/12/1999 mà Bị đơn không trả tiền hàng thì Nguyên đơn sẽ kiện Bị đơn theo quy định của Hợp đồng. Hết ngày 30/12/1999 vẫn không nhận được tiền hàng, Nguyên đơn đã khởi kiện Bị đơn ra trọng tài đòi bị đơn trả 195.380USD tiền hàng và lãi suất 9%/năm, tính từ ngày nhận hàng 10/9/1999 đến ngày trọng tài xét xử. Phân tích và quyết định của Trọng tài: - Về nghĩa vụ trả tiền hàng của Bị đơn: Đã ký hợp đồng mua hàng, Bị đơn có nghĩa vụ trả tiền hàng cho Nguyên đơn theo phương thức thanh toán D/P, Bị đơn phải trả tiền hàng cho Nguyên đơn thì mới nhận được bộ chứng từ từ ngân hàng, trong đó có vận đơn để nhận hàng. Trên thực tế, Bị đơn chưa trả tiền hàng nhưng đã nhận được hàng và đã bán lô hàng đó cho người khác. Điều này được chứng minh bởi thông báo của hãng tàu BCL Word Link International Ltd cho Cảng Sài Gòn và bản Fax ngày 14/12/1999 của Bị đơn gửi cho Nguyên đơn đã nhận được hàng thì Bị đơn có nghĩa vụ trả tiền hàng cho Nguyên đơn. Đồng thời trong bản fax ngày 24/12/1999 Bị đơn đề nghị kéo dài thêm một thời gian nữa cho việc thanh toán 195.380USD. Như vậy, rõ ràng Bị đơn đã thừa nhận là Bị đơn có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng là 195.380USD cho Nguyên đơn. Đến ngày trọng tài xét xử vụ kiện (8/7/2000) Bị đơn vẫn chưa trả tiền hàng cho Nguyên đơn, rõ ràng Bị đơn đã cố tình vi phạm nghĩa vụ trả tiền hàng. Vì vậy trọng tài quyết định buộc Bị đơn phải trả cho Nguyên đơn 195.380USD tiền hàng. - Về tiền lãi suất: Ngày 10/9/1999 là ngày Bị đơn nhận xong hàng, do đó nếu Bị đơn làm thủ tục trả tiền hàng ngay thì tiền hàng cũng phải qua hệ thống ngân hàng rồi mới tới tay Nguyên đơn. Vì thế, trọng tài xác định mốc thời gian hợp lý để tính lãi suất sẽ là từ ngày 20/9/1999. Mức lãi suất 9%/năm do Nguyên đơn tính toán là quá cao và không phù hợp với mức lãi suất tiền vay do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố. Từ đó, trọng tài chấp nhận đối với thời gian chậm trả tiền hàng từ ngày 20/9/1999 đến ngày 8/7/2000 (ngày trọng tài xét xử) Nguyên đơn chỉ được hưởng lãi suất theo mức lãi suất tiền vay trung bình do ngân hàng Nhà nước Việt nam công bố vào thời gian này là
  33. 5%/năm. (Nguồn số liệu trích từ sách Tranh chấp từ hợp đồng XNK án lệ trọng tài và kinh nghiệm của PGS.TS Hoàng Ngọc Thiết) Vụ tranh chấp thứ 2: Là vụ tranh chấp giữa Xí nghiệp muối Phương Cự và Xí nghiệp muối trộn Iốt số 2 sau đây phát sinh cũng do nguyên nhân không thanh toán sòng phẳng và dứt điểm tiền hàng cho bên kia: Ngày 29/5/1993, Xí nghiệp muối Phương Cự (bên A) ký hợp đồng số 41/HĐ với xí nghiệp trộn muối Iốt số 2 (Bên B), theo đó bên A bán cho bên B 2000 tấn muối hạt với đơn giá 70.000 đồng/tấn thành tiền là 140.000.000 đồng. Hợp đồng quy định bên B phải giao tiền cho bên A ngay sau khi ký hợp đồng và hàng sẽ được giao tại kho T1, T2, T3 của Bên A vào tháng 11 và 12 năm 1993 nếu trong tháng 12/1993 bên B không nhận hết hàng thì phải chịu chi phí lưu kho 500đ/tấn/tháng theo số lượng còn lại. Thực hiện hợp đồng này, bên B tiến hành vay tiền của ngân hàng và đến ngày 3/12/1993 thì cắt séc chuyển tiền cho bên A. Do khó khăn về nguồn tiêu thụ, bên B đã đặt vấn đề với bên A ngày 27/11/1993 hai bên đã gặp nhau và thống nhất kéo dài thời hạn giao hàng sang năm 1994. Sau đó bên B vẫn không chịu nhận hàng với lý do là chưa tìm được nguồn tiêu thụ. Với thiện chí thực hiện hợp đồng và muốn tạo điều kiện thuận lợi cho bên B, bên A lại cho phép bên B thoả thuận lại. Ngày 26/4/1994 Giám đốc của hai bên đã thống nhất phương hướng giải quyết như sau: Cho bên B tiến hành khảo sát tìm thị trường tiêu thụ và thông báo cho bên A biết để thống nhất và tiến hành thực hiện hợp đồng từ tháng 5 đến tháng 12/1994 và sẽ không bắt bên B trả tiền lưu kho trong khoảng thời gian trên. Nếu quá 31/12/1994 bên B không nhận hàng thì hai bên sẽ tiến hành thanh lý hợp đồng và bên B phải bồi thường cho bên A kể cả những thiệt hại do thiên tai, bão lụt gây ra sau ngày 31/12/1994 với điều kiện bên A phải cung cấp đủ bằng chứng hợp lý. Sau khi thoả thuận như vậy bên B vẫn chưa thoả mãn và vẫn tiếp tục đưa ra yêu sách, xin bên A gia hạn thêm với quyết tâm thực hiện hợp đồng, một lần nữa bên A đã chấp nhận yêu cầu của bên B, Ngày 30/4/1994 hai bên lại hẹn gặp nhau để ký phụ lục số 19/HĐ bổ xung và điều chỉnh hợp đồng số 41 HĐ với tinh thần cụ thể hoá những thoả thuận hai bên đã đạt được trong ngày 26/4/1994 và bên A tiếp tục gia hạn thực hiện hợp đồng đối với bên B. Nội dung của phụ lục là: Bên A gia hạn thực hiện hợp đồng số 41/HĐ đến hết ngày 31/5/1995; Bên B không phải chịu chi phí lưu kho từ ngày ký phụ lục số 19/HĐ cho đến ngày 31/5/1995; Khi nhận hàng bên B phải thông báo trước 5 ngày để bên A tổ chức thực hiện; Phụ lục hợp đồng này có hiệu lực từ ngày 1/5/1994 đến 31/5/1995.
  34. Tuy đã được gia hạn nhiều lần nhưng bên B vẫn không chịu nhận hàng. Ngày 10/5/1994 bên B có công văn số 53/XN gửi bên A đề nghị huỷ bỏ hợp đồng số 41/HĐ và phụ lục kèm theo. Nhận được công văn đòi huỷ hợp đồng số 41/HĐ và phụ lục 19/HĐ ngày 3/6/1994 bên A có văn bản số 26/XNM không chấp nhận huỷ bỏ HĐKT số 41/HĐ và phụ lục số 19/HĐ theo đề nghị của bên B, văn bản này còn nói rõ rằng nếu bên B huỷ hợp đồng thì phải bồi thường những thiệt hại do việc huỷ hợp đồng gây ra. Ngày 9/7/1994 bên B có đơn số 61/XN gửi Toà án Nhân dân Tỉnh Ninh Thuận đề nghị Toà án xử lý huỷ hợp đồng số 41/HĐ và phụ lục số 19/HĐ, bên B đưa ra lý do là bên A đã tự ý bán hàng và khi bên B đưa khách hàng đến kho của bên A để nhận hàng thì bên A không còn hàng tốt để giao, bên B yêu cầu bên A hoàn lại số tiền đã nhận là 140.000.000 đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại (khoản lãi phát sinh trong quá trình bên A giữ tiền). Nhận được đơn kiện của bên B, Toà án nhân dân Tỉnh Ninh Thuận đã tổ chức hoà giải giữa hai bên. Ngày 18/7/1994 Giám đốc xí nghiệp muối trộn Iốt số 2 uỷ quyền cho Ông L với nội dung thay mặt Giám đốc, Ông L đòi huỷ hợp đồng số 41/HĐ và phụ lục 19/HĐ và yêu cầu bên A bồi thường thiệt hại cho bên B. Tại giấy uỷ quyền số 42/UQ ngày 13/7/1993, Giám đốc xí nghiệp muối Phương Cự uỷ quyền cho Ông T tham gia hoà giải trên tinh thần hiệp thương đã thống nhất trong hội đồng xí nghiệp, văn bản uỷ quyền này không nêu rõ lý do nội dung cụ thể trong văn bản uỷ quyền của Giám đốc xí nghiệp muối trộn Iốt số 2. Khi đại diện hai bên đến hoà giải, Toà án nhân dân Tỉnh Ninh Thuận không yêu cầu hai bên xuất trình bất kỳ bằng chứng gì về việc uỷ quyền mà chỉ tiến hành hoà giải giữa hai bên. Sau nhiều lần hoà giải không thành, ngày 12/8/1994 hai bên đã đi đến thoả thuận. Huỷ hợp đồng số 41/HĐ ký ngày 29/5/1993 và phụ lục hợp đồng số 19/HĐ ký ngày 30/4/1994; Xí nghiệp muối Phương Cự có nghĩa vụ trả lại số tiền 140.000.000 đồng cho Xí nghiệp muốn trộn Iốt 2. Xí nghiệp muối trộn Iốt số 2 có nghĩa vụ trả cho xí nghiệp muối Phương Cự 4.000.000 đồng phí lưu kho của 2000 tấn muối từ 30/4/1994 đến 12/8/1994 và 2.000.000 đồng các thiệt hại khác. Ngày 13/8/1994 Toà án Nhân dân Tỉnh Ninh Thuận đã ra quyết định số 01/QĐCNSTT công nhận sự thoả thuận của hai bên với nội dung như trong biên bản hoà giải thành mà hai bên đã ký ngày 12/8/1994. Sau khi quyết định trên đã có hiệu lực ngày 22/8/1994, Giám đốc Xí nghiệp muối trộn Iốt số 2 có đơn kháng cáo gửi đến Toà án nhân dân tối cao đề nghị xét xử lại
  35. theo hướng huỷ hợp đồng 41/HĐ và phụ lục 19/HĐ, buộc xí nghiệp muối Phương Cự bồi thường thiệt hại. Kháng cáo cũng nêu rằng việc Ông L ký vào biên bản hoà giải thành có nội dung như đã nêu trên là vượt quá phạm vi uỷ quyền. Nhận được đơn kháng cáo của Xí nghiệp muối trộn Iốt số 2 và sau khi xem xét vụ việc ngày 31/12/1994 Phó Chánh toà án nhân dân tối cao có kháng nghị số 02/KT kháng nghị phần quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự số 01/QĐCNSTT ngày 13/8/1994 của Toà án Nhân dân Tỉnh Ninh Thuận buộc xí nghiệp muối trộn Iốt số 2 bồi thường cho xí nghiệp muối Phương Cự 4.000.000 đồng phí lưu kho và 2.000.000 đồng chi phí thiệt hại khác do vượt quá phạm vi uỷ quyền, đề nghị Toà án kinh tế Toà án nhân dân tối cao xét xử theo trình tự Giám đốc thẩm, huỷ bỏ phần quyết định nói trên để giải quyết lại theo thủ tục chung phần yêu cầu bồi thường thiệt hại của xí nghiệp muối trộn Iốt số 2. Tại phiên toà Giám đốc thẩm ngày 2/3/1995 sau khi nghiên cứu hồ sơ, nghe các bên trình bày, nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đã chấp nhận kháng nghị của Phó chánh án Toà án nhân dân tối cao huỷ phần quyết định công nhận sự thoả thuận vượt quá phạm vi ủy quyền nhưng không chấp nhận đơn kháng cáo số 07 ngày 22/8/1994 của Xí nghiệp muối trộn Iốt số 2. Trong vụ việc này bên A đã luôn thực hiện đúng những thoả thuận giữa hai bên, những điều bên B đã trình bày như: Bên A đã tự ý bán hàng khi bên B đưa khách hàng đến để nhận hàng thì bên A không có hàng để giao đều không được chấp nhận vì không có bất kỳ một bằng chứng nào để chứng minh, Bên B đã đơn phương đình chỉ hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên A theo đúng quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử Giám đốc thẩm Toà án nhân dân tối cao giao vụ việc cho Toà án nhân dân Tỉnh Ninh Thuận xét xử lại từ giai đoạn Sơ thẩm. Theo định hướng này, Toà án Nhân dân Tỉnh Ninh Thuận đã xét xử tranh chấp như sau: Huỷ hợp đồng số 41/HĐ và phụ lục số 19/HĐ; Bên A trả lại cho bên B 140.000.000 đồng; Bên B trả cho Bên A những chi phí phát sinh do việc huỷ hợp đồng số 41/HĐ và phụ lục 19/HĐ. Cụ thể là 4.000.000 đồng phí lưu kho của 2.000 tấn muối từ 30/4/1994 đến 8/1994 theo mức phạt hai bên đã thoả thuận là 500 đồng/tấn/tháng và 2.000.000 đồng các chi phí khác. Về thực chất bản án này có nội dung giống quyết định số 01/QĐCNSTT Một vài nhận xét từ vụ tranh chấp trên: Trong vụ tranh chấp trên mục đích của bên B là huỷ hợp đồng, bên B xin gia hạn thực hiện không phải để tạo điều kiện cho việc thực hiện hợp đồng mà để tìm cớ để huỷ hợp đồng. Phụ lục số 19/HĐ mới có hiệu lực được 10 ngày, bên B đã gửi đơn đòi huỷ hợp đồng và phụ lục đó, không những đã đơn
  36. phương huỷ hợp đồng mà bên B còn yêu cầu bên A bồi thường thiệt hại. Bên A rất có thiện chí với khách hàng của mình, vừa gia hạn hợp đồng nhiều lần vừa không tính phí lưu kho đến hết ngày 31/5/1995 nhằm giảm bớt khó khăn, tạo điều kiện cho bên B thực hiện cam kết của mình nhưng bên A đã gặp phải một khách hàng không biết điều. Lẽ ra sau nhiều lần bên B vi phạm cam kết giữa hai bên, bên A có quyền huỷ hợp đồng và yêu cầu bên B bồi thường thiệt hại, làm như vậy, quyền lợi của bên A chắc chắn sẽ được pháp luật bảo đảm. Một điểm nữa cũng cần phải đề cập đến qua vụ tranh chấp này, là thiết sót của Toà án nhân dân Tỉnh Ninh Thuận. Khi tổ chức hoà giải, đại diện của Toà án đã không yêu cầu đại diện các bên xuất trình các giấy uỷ quyền và xen xét đầy đủ nội dung uỷ quyền cũng như các chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình, do đó đã ra quyết định công nhận sự thoả thuận vượt quá phạm vi uỷ quyền, trái với quy định của pháp luật (vi phạm Điều 9 Pháp lệnh HĐKT và Điều 22 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế). Tuy nhiên, bản án cuối cùng do Toà án nhân dân Tỉnh Ninh Thuận tuyên xử có nội dung giống như nội dung của quyết định số 01/QĐ CNSTT mà quyết định 01/QĐCNSTT lại bị huỷ bỏ điều này thật giản đơn là vì yêu cầu của bên B được ghi trong giấy uỷ quyền không có lý do bên B không có bất kỳ một bằng chứng nào chứng minh được rằng bên A đã vi phạm hợp đồng và phải bồi thường cho bên B, giá như khi tổ chức hoà giải Toà án nhân dân Tỉnh Ninh Thuận xét xử kỹ lưỡng nội dung uỷ quyền và các chứng cứ kèm theo thì vụ tranh chấp đã có thể được giải quyết một cách nhanh chóng. 3. Tranh chấp liên quan đến hợp đồng kinh tế vô hiệu: Hợp đồng kinh tế vô hiệu là kết quả của việc ký kết HĐKT trái pháp luật. Về mặt lý thuyết, khi một hợp đồng kinh tế vô hiệu thì các bên không được phép thực hiện nhưng trong thực tế nhiều HĐKT vô hiệu vẫn được thực hiện và chỉ bị phát hiện và xử lý khi giữa các bên phát sinh tranh chấp và đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại Toà án kinh tế. HĐKT vô hiệu dưới đây cũng chỉ được phát hiện và xử lý khi có tranh chấp xảy ra. Ngân hàng thương mại cổ phần Sài gòn Thương Tín (Ngân hàng SGTT) cùng với Công ty chuối và rau qủa xuất khẩu Pan Việt (Công ty Pan Việt) đã ký với nhau 2 bản HĐKT có nội dung cơ bản giống nhau, cùng mang số 133/HĐMB - SGTT nhưng một hợp đồng đề ngày 4/4/1995, một hợp đồng đề ngày 12/4/1995. Theo hai bản hợp đồng này, Ngân hàng SGTT mua của công ty Pan Việt 6 bộ khung kho có bao che và các phụ tùng kèm theo, với tổng diện tích là 28.140 m2 đơn giá USD/m2 và tổng trị giá hợp đồng là 1.125.600 USD. Hai hợp đồng trên còn quy định: trong thời hạn 6 tháng (kể từ ngày 12/4/1995 đến 12/10/1995) công ty Pan Việt phải mua lại toàn bộ 6 bộ khung kho kể trên với giá 42USD/m2, thành tiền là 1.181.880USD, trong trường hợp công
  37. ty Pan Việt không mua lại 6 bộ khung kho thì sẽ phải bồi thường thiệt hại cho ngân hàng SGTT là 5USD/m2. Ngược lại, nếu ngân hàng SGTT không bán lại 6 bộ khung kho cho công ty Pan Việt thì phải trả cho công ty Pan Việt 5 USD/m2. Hợp đồng có hiệu lực không quá 6 tháng, thực chất của giao dịch này là: Công ty Pan Việt là một công ty có vốn đầu tư nước ngoài, ngày 14/9/1992 Phòng giấy phép XNK Bộ Thương mại đã cấp giấy phép số 18 và ngày 23/121992 cấp giấy phép số 21 cho công ty Pan Việt được nhập 6 bộ khung kho cùng phụ kiện để phục vụ dự án đầu tư tại Việt nam, theo Giấy phép đầu tư số 325/CP ngày 17/2/1992 của Uỷ ban nhà nước về hợp tác và đầu tư. Tổng trị giá lô hàng nhập khẩu này là1.157.294,78 USD. Sau khi nhập về, số hàng kể trên được Pan Việt đưa vào gửi tại kho cảng sông I (Tân Thuận) - Thành phố Hồ Chí Minh và cho đến đầu năm 1995 vẫn chưa sử dụng đến. Do cần tiền mà lại không có tài sản thế chấp để vay nên Pan Việt đã ký 02 hợp đồng với ngân hàng SGTT như đã nêu trên, mục đích là để sử dụng vốn ngân hàng SGTT trong khoảng thời gian 6 tháng, khoản chênh lệch giữa 2 mức giá 40 USD/m2 và 42 USD/m2 được coi là khoản tiền lãi Pan Việt phải trả cho ngân hàng SGTT. Thực hiện hợp đồng, ngày 11/4/1994 hai bên đã lập biên bản số 151/BB - SGTT giao nhận hàng hoá theo hợp đồng nhưng hàng vẫn để tại kho sông I - Cảng Tân Thuận. Ngày 13/4/1995, Ngân hàng SGTT đã giao cho Pan Việt số tiền là 1.125.600 USD tương đương 12.432.252.000 đồng (theo tỷ giá 11.045 VND/USD) gồm những khoản sau: - Vào tài khoản của Pan Việt: 200.000 USD - Tiền mặt giao cho Ông Chang Che Pha: 315.500.000 đồng - Vào tài khoản tiết kiệm của Ông Chang Che Pha: 3.000.000.000 đồng - Vào tài khoản của công ty Hải Dương: 6.909.752.000 đồng theo yêu cầu của Pan Việt. Sau đó, Ngân hàng SGTT còn giao tiếp cho Pan Việt 162.000.000 đồng tiền lãi trên 3.000.000.000 đồng tại tài khoản tiền tiết kiệm của Ông Chang Che Pha trong 3 tháng như sau: - Ngày 15/9/1995: 54.000.000 đồng - Ngày 17/6/1995: 54.000.000 đồng - Ngày 15/7/1995: 54.000.000 đồng Như vậy, tổng cộng ngân hàng SGTT đã giao cho Pan Việt 12.594.252.000 đồng trong quá trình thực hiện hợp đồng. Ngày 21/7/1995, Pan Việt gửi văn bản số 159/PV - 95 thông báo và cam kết với Ngân hàng SGTT rằng từ ngày 15/8/1995 đến ngày 20/8/1995 Pan Việt sẽ mua lại hai bộ khung kho và sẽ tiếp tục nhận nốt số khung kho còn lại. Ngày 29/7/1995, Ngân hàng SGTT gửi công văn số 469/CV - SGTT chấp nhận đề nghị của Pan Việt, đồng thời yêu cầu Pan Việt thực hiện hợp đồng
  38. chậm nhất vào ngày 12/10/1995. Nhưng sau đó công ty Pan Việt không thực hiện cam kết trong hợp đồng số 133/HĐMB - SGTT và văn bản số 159/PV - 95 mà Pan Việt gửi cho Ngân hàng SGTT ngày 21/7/1995, vì vậy Ngân hàng SGTT đã khởi kiện công ty Pan Việt ra Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi xem xét hồ sơ vụ án, Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nhận thấy: Pan Việt nhập 6 bộ khung kho kèm theo phụ tùng là để phục vụ dự án đầu tư tại Việt nam, nhưng tại thời điểm Công ty Pan Việt ký hợp đồng để bán lại cho Ngân hàng SGTT, Pan Việt chưa xin phép cơ quan nhà nước có thẩm quyền Pan Việt chỉ được phép dùng 6 bộ khung kho đó để xây dựng cơ sở vật chất, phục vụ dự án đầu tư, không được phép mua đi bán lại. Đồng thời cho tới tháng 6/1996, Pan Việt vẫn chưa kê khai và nộp các loại thuế về lô hàng nhập khẩu 6 bộ khung kho theo quy định của Điều 35 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam và Điều 76 khoản 4 Nghị định 18/CP ngày 16/4/1993 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam. Điều này có nghĩa là 6 bộ khung kho là đối tượng cấm mua bán theo quy định của pháp luật. Các hợp đồng kinh tế số 133/HĐMB - SGTT đề ngày 4/4/1995 và 12/4/1995 là vô hiệu toàn bộ theo quy định của Điều 8 Khoản a Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Với nhận định như vậy, tại bản án Sơ thẩm số 13/KTST ngày 12/6/1996 Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:  Hai bản hợp đồng kinh tế số 133/HĐMB - SGTT đề ngày 4/4/1995 và 12/4/1995 giữa công ty Pan Việt và Ngân hàng SGTT là vô hiệu toàn bộ.  Công ty Pan Việt phải chuyển trả Ngân hàng SGTT số tiền là 1.125.600 USD  Ngân hàng SGTT phải giao hàng trả cho công ty Pan Việt 6 bộ khung kho đúng như tình trạng giao nhận ban đầu giữa hai bên theo biên bản số 151/BB - SGTT ngày 11/4/1995. Côngty Pan Việt không được bán, chuyển nhượng cho nơi khác để đảm bảo thi hành án.  Mọi thiệt hại phát sinh các bên phải tự chịu;  Buộc công ty Pan Việt phải nộp ngân sách nhà nước số tiền là 162.000.000 đồng từ khoản tiết kiệm của Ông Chang Che Pha trong 3 tháng ngày 19/6/1996. Công ty Pan Việt có đơn kháng cáo cho rằng 2 hợp đồng kinh tế đã ký giữa hai bên là hợp pháp, Pan Việt không có khả năng hoàn trả Ngân hàng SGTT số tiền 1.125.600 USD theo quyết định của án Sơ thẩm, đề nghị xét xử cho hợp tình hợp lý. Ngày 22/6/1996, Ngân hàng SGTT có đơn kháng cáo số 576/CV - SGTT đề nghị xét xử lại theo hướng:
  39. - Buộc công ty Pan Việt phải trả ngay tiền thuê kho mỗi tháng 14.000.000 đồng kể từ ngày 12/10/1995. - Ngân hàng SGTT được nhận số tiền lãi 162.000.000 đồng mà Ngân hàng đã chi trả cho công ty Pan Việt trong 3 tháng về khoản tiền gửi tiết kiệm 3.000.000.000 đồng do Ông Chang Che Pha đứng tên, thay vì nộp ngân sách Nhà nước vì Ngân hàng SGTT bị thiệt hại trầm trọng. - Buộc công ty Pan Việt phải chịu chi phí kiểm kê và sắp xếp hàng trong kho với số tiền là 202.000.000 đồng. Nhận được kháng cáo của các bên, Toà phúc thẩm TANDTC cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành xem xét vụ việc, Hội đồng xét xử của Toà kinh tế TANDTC tại Thành phố Hồ Chí Minh hoàn toàn đồng ý với kết luận của Toà án Sơ thẩm Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng hai hợp đồng số 133/HĐMB - SGTT vô hiệu toàn bộ ngay từ thời điểm ký kết, các giấy tờ mà Pan Việt mới xuất trình gần đây: Văn bản số 3755/CQĐĐ - CL ngày 16/8/1996 của Bộ kế hoạch và đầu tư và Văn bản số 9649/TM - XNK ngày 29/8/1996 của Bộ Thương Mại cho phép công ty Pan Việt được bán 6 bộ khung kho nhập khẩu bằng vốn đầu tư chỉ phù hợp với thời điểm hiện tại (Tháng 8/1996), nếu Pan Việt bán cho nơi khác, chứ không thể minh chứng cho hợp đồng không hợp pháp đã ký với Ngân hàng SGTT tại thời điểm tháng 4/1995. Vì vậy, yêu cầu trong đơn kháng cáo của công ty Pan Việt không được chấp nhận. Tuy nhiên, việc xử lý tài sản theo bản án Sơ thẩm là chưa phù hợp. Xét các yêu cầu theo đơn kháng cáo của Ngân hàng SGTT: + Về khoản 162.000.000 đồng tiền lãi mà Ngân hàng SGTT phải nộp vào ngân sách nhà nước theo bản án Sơ thẩm: căn cứ vào mục A, Điều 4, Khoản d, văn bản kết luận của Uỷ ban thẩm phán TANDTC sơ kết một năm công tác giải quyết án kinh tế (1995) thì thu nhập bất hợp pháp trong hợp đồng mua bán hàng hoá là lợi nhuận (chênh lệch giá) thu được của việc mua bán đó. Do các bên đương sự chưa thực hiện việc mua đi bán lại hàng hoá trong hợp đồng, lợi nhuận (chênh lệch giá) chưa phát sinh nên chưa có khoản thu nhập bất hợp pháp. Khoản 162.000.000 đồng tiền lãi tiết kiệm không phải là khoản chênh lệch giá (lợi nhuận) của hoạt động mua bán, mà nó nằm trong tổng số tiền Ngân hàng SGTT đã giao cho Pan Việt khi thực hiện hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ. Do vậy, Pan Việt phải hoàn trả Ngân hàng SGTT toàn bộ số tiền đã nhận từ việc thực hiện hợp đồng kinh tế kể trên với tổng số tiền là 12.594.252.000 đồng. + Về chi phí kiểm kê sắp xếp hàng hoá tại biên bản giao nhận hàng này 11/4/1995 hai bên đã xác định: việc kiểm kê lại cụ thể từng chi tiết, chủng loại, hàng mục và sắp xếp lại lô hàng hai bên có trách nhiệm cũng như tổ chức thực hiện. Cũng tại phiên toà xét xử Phúc thẩm, phía công ty Pan Việt đã chấp nhận chịu 50% chi phí này (tức một nửa của 202.000.000 đồng).
  40. + Về chi phí thuê kho bãi: hợp đồng mua bán khu kho giữa hai bên vô hiệu toàn bộ ngay từ thời điểm ký kết, không được phép thực hiện kể từ thời điểm ký kết. Vì thế, lẽ ra công ty Pan Việt phải chịu toàn bộ tiền thuê kho bãi chứa hàng, nhưng do trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng bị vô hiệu toàn bộ cả hai bên cùng có lỗi, nên tiền thuê kho từ 11/4/1995 đến ngày xét xử sS thẩm mỗi bên phải chịu một nửa. Từ sau ngày xét xử Sơ thẩm trở đi, công ty Pan Việt phải chịu toàn bộ tiền thuê kho bãi chính hàng. Cuối cùng với sự phân tích trên, Toà phúc thẩm TANDTC cao tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định: - Bác đơn kháng cáo của công ty Pan Việt; - Chấp nhận một phần đơn kháng cáo của Ngân hàng SGTT; - Áp dụng Điều 8, Điều 39 Pháp lệnh HĐKT về xử lý HĐKT vô hiệu như sau: + Hai hợp đồng mua bán số 133/HĐMB- SGTT đề ngày 4/4/1995 và ngày 12/4/1995 giữa Ngân hàng SGTT và Công ty Pan Việt là vô hiệu toàn bộ ngay từ thời điểm ký kết. + Các bên liên quan không được phép tiếp tục thực hiện HĐKT nêu trên. + Ngân hàng SGTT có trách nhiệm giao trả Công ty Pan Việt toàn bộ 6 bộ khung kho cùng phụ kiện kèm theo đã nhận của Pan Việt từ việc thực hiện hợp đồng kinh tế nêu trên. + Công ty Pan Việt có trách nhiệm hoàn trả cho Ngân hàng SGTT toàn bộ số tiền ngân hàng đã chi trả liên quan đến việc thực hiện hợp đồng kinh tế nêu trên bao gồm các khoản sau: Khoản tiền nhận theo hợp đồng là 12.594.252.000 đồng 50% chi phí kiểm kê, sắp xếp hàng trong kho; 50% chi phí thuê kho từ 11/4/1995 đến ngày xét xử Sơ thẩm (12/6/1996) và 100% chi phí thuê kho từ 12/6/1996 đến 20/9/1996. Tiền thuê kho từ ngày 20/9/1996 trở đi (Ngân hàng SGTT chưa thanh toán) Công ty Pan Việt phải thanh toán cho cảng sông I Tân Thuận. Ngân hàng SGTT Phải chịu những chi phí sau: 50% chi phí kiểm kê, sắp xếp hàng trong kho; 50% chi phí thuê kho từ 11/4/1995 đến ngày xét xử Sơ thẩm (12/6/1996). Hội đồng xét xử cũng nhắc nhở hai bên về việc ký kết hai hợp đồng kinh tế cùng số (133/HĐMB - SGTT) khác ngày (ngày 4/4/1995 và ngày 12/4/1995) vi phạm quy định về lưu trữ hồ sơ. Một vài nhận xét rút ra từ thực tiễn giải quyết tranh chấp kể trên: Trước hết: Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của các chủ thể hợp đồng kinh tế chưa cao, nhiều thiết sót đáng tiếc đã xảy ra trong khi ký kết cũng như thực hiện hợp đồng. Có khi hợp đồng vừa ký xong đã xin huỷ ngay vì chưa có nguồn tiêu thụ mà nguyên nhân là do bên mua chưa khảo sát kỹ thị
  41. trường trước khi ký kết hợp đồng. Có trường hợp bên bán chưa giao hàng mà bên mua đã giao toàn bộ tiền hàng và đã gặp nhiều khó khăn trong việc đòi lại tiền khi bên bán không thực hiện hợp đồng. Hai là: Hiểu biết về pháp luật của các nhà kinh doanh còn hạn chế, điều này được thể hiện ở một số ví dụ như: các chủ thể HĐKT không nắm rõ năng lực ký kết hợp đồng của đối tác, chế định uỷ quyền và các quy định về đối tượng HĐKT dẫn đến ký kết các HĐKT vô hiệu, mà hậu quả là các bên phải chịu xử lý tài sản theo pháp luật. Ba là: Các tranh chấp nhiều khi không có gì phức tạp vẫn xảy ra do ý thức pháp luật của các chủ thể hợp đồng chưa cao. Một số doanh nghiệp chưa nhận thức được rằng việc thực hiện một cách đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng kinh tế không chỉ đảm bảo quyền lợi cho phía bên kia mà còn vì lợi ích của chính bản thân mình, chỉ khi nào các bên thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết trong hợp đồng, không vi phạm pháp luật, lợi ích của họ từ hợp đồng kinh tế đó mới được đảm bảo, bất kỳ một hành vi lừa bị đối phương hay cố ý vi phạm hợp đồng kinh tế của một bên xuất phát từ lợi ích của riêng mình, sớm muộn sẽ bị phát hiện và xử lý. II. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ BẰNG PHƯƠNG PHÁP TIỀN KHỞI KIỆN 1. Thương lượng: Thương lượng trực tiếp giữa 2 bên: là phương pháp giải quyết tranh chấp thường được áp dụng, thương lượng trực tiếp là việc các bên đương sự cùng nhau trao đổi, đấu tranh, nhân nhượng và thoả thuận giải quyết tranhh chấp, kết quả của việc thương lượng trực tiếp có thể là tranh chấp giữa các bên được giải quyết. Thương lượng trực tiếp có thể tiến hành bằng 2 cách, hai bên gặp nhau để thoả thuận thương lượng hoặc một bên gửi đơn khiếu nại cho bên kia và bên kia trả lời khiếu nại. Thương lượng bằng cách hai bên gặp nhau: Khi tranh chấp phát sinh hai bên gặp nhau để thoả thuận, thương lượng, và có thể bộc lộ ý định của mình một cách thẳng thắn, nêu hết ý kiến của mình, nắm bắt và thấu hiểu được nguyện vọng của bên kia và do đó tranh chấp có thể giải quyết, Tuy nhiên, thương lượng bằng cách gặp nhau thường tốn kém chi phí và thời gian Vì vậy, hai bên thường gặp nhau để thương lượng khi có điều kiện thuận lợi và đối với những tranh chấp phức tạp có giá trị lớn, mặt khác, hai bên cũng có thể gặp nhau để thương lượng sau khi đã thương lượng bằng khiếu nại và trả lời khiếu nại mà chưa đạt kết quả.
  42. Thương lượng trực tiếp bằng khiếu nại và trả lời khiếu nại: thông thường bên vi phạm gửi đơn kiện khiếu nại kèm theo các chứng từ làm bằng chứng cho bên bị vi phạm và bên vi phạm trả lời đơn khiếu nại đó. Việc gửi đơn khiếu nại và trả lời đơn khiếu nại được thực hiện thông qua thư từ, telex, fax kết quả của việc thương lượng sẽ mang lại hậu quả pháp lý là thoả mãn yêu cầu của 2 bên đương sự. Trong thực tế có thể xảy ra trường hợp: các vấn đề định đưa ra tưởng chừng được bên kia chấp nhận nhưng khi đó mới phát hiện ra một kẽ hở chưa tính đến, vì chúng mà có thể ảnh hưởng tới các phần nằm ngoài nội dung tranh chấp được đưa ra thương lượng trên bàn hội nghị. Trong trường hợp ấy cần thiết phải mở rộng toàn bộ vấn đề xem xét, bổ sung thêm những nội dung mới cho kín kẽ, nếu cùng lúc có nhiều giải pháp, nên cần cân nhắc kỹ, đề cập tới mọi khía cạnh của vấn đề để chọn lựa phương án thích hợp nhất cho cả hai bên. Nhiều lúc cuộc thương lượng trở nên bế tắc là do hai bên hiểu nhầm nhau, xuất phát từ một nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan nào đó. Khi ấy, dù có cố gắng trình bày, giải thích bao nhiêu và như thế nào đi chăng nữa thì cũng vô ích vì mỗi bên chỉ cần nghe điều mà họ muốn. Cuộc thảo luận trở nên tản mát, thiếu tính xây dựng vì ai cũng muốn bảo vệ quan điểm riêng của mình, gạt bỏ quan điểm của người khác, cho là thiếu cơ sở và không có tính khả thi. Gặp trường hợp này nên tránh sa đà vào những cuộc cãi vã vô ích mà chủ động hướng các bên vào vấn đề chính của cuộc thương lượng. Trước hết cần phải xác định lại quan điểm của nhau xem mỗi bên có hiểu đúng ý phía kia hay không. Cũng có trường hợp tất cả chỉ tại hai bên không hiểu nhau, bình tĩnh trình bày lại cách đặt vấn đề của bên đối tác xem có đúng như vậy hay đã bị hiểu nhầm và đề nghị phía bên kia cũng làm động tác tương tự, chỗ nào có sự hiểu lầm cần uốn nắn và liên hệ trực tiếp với vấn đề tranh chấp chính. Thông thường trong các cuộc thương lượng giải quyết tranh chấp các bên sẽ theo đuổi lợi ích mà mình quan tâm hơn là vấn đề của người khác. Nhiều khi do chú trọng vào quyền lợi của mình mà các bên tranh chấp đã đi quá xa những tư tưởng chính không thể nhất trí được vấn đề nào, điều quan trọng là phải tìm ra được những điểm tương đồng của cả hai bên đương sự. Trong thực tế trước khi lên đường đi thương lượng các bên thường cắt cử một người chỉ làm nhiệm vụ ngồi nghe để phát hiện những sơ hở của đối phương cũng như các sai sót của phía mình để kịp tời thay đổi chiến thuật đàm phán, người được giao trọng trách này phải có rất nhiều kinh nghiệm và không bao giờ tham gia tranh luận, sự phát hiện của người này nhiều khi quyết định sự thành bại của cả cuộc thương lượng.