Khóa luận Quyền và nghĩa vụ của cổ đông theo quy định của luật doanh nghiệp năm 2014

pdf 64 trang thiennha21 16/04/2022 6901
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Quyền và nghĩa vụ của cổ đông theo quy định của luật doanh nghiệp năm 2014", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_quyen_va_nghia_vu_cua_co_dong_theo_quy_dinh_cua_lu.pdf

Nội dung text: Khóa luận Quyền và nghĩa vụ của cổ đông theo quy định của luật doanh nghiệp năm 2014

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐINH THỊ DIỆU KHÁNH QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CỔ ĐÔNG THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH LUẬT KINH DOANH Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2014-L Hà Nội, (2018) 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐINH THỊ DIỆU KHÁNH QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CỔ ĐÔNG THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH LUẬT KINH DOANH Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2014-L 2
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Khóa luận là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Khóa luận chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Khóa luận đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Khóa luận. Tôi xin chân thành cảm ơn! Người cam kết Đinh Thị Diệu Khánh 3
  4. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN 3 MỤC LỤC 4 PHẦN MỞ ĐẦU 6 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 6 2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 6 3. Mục đích nghiên cứu 7 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8 5. Phương pháp nghiên cứu 8 6. Kết cấu của khóa luận 9 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CỔ ĐÔNG TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN 10 1.1. Khái quát về công ty cổ phần 10 1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển công ty cổ phần 10 1.1.2. Khái niệm công ty cổ phần 11 1.1.3. Đặc điểm của công ty cổ phần 12 1.2. Khái quát về cổ phần 14 1.2.1. Khái niệm cổ phần 14 1.2.2. Các loại cổ phần 14 1.2.3. So sánh cổ phần và cổ phiếu 15 1.3. Khái quát về cổ đông trong công ty cổ phần 16 1.3.1. Khái niệm cổ đông, quyền cổ đông 16 1.3.2. Phân loại cổ đông trong công ty cổ phần 17 1.4. Khái quát về pháp luật điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của cổ đông 18 1.4.1. Pháp luật Việt Nam điều chỉnh về quyền và nghĩa vụ của cổ đông 18 4
  5. 1.4.2. Pháp luật của một số quốc gia trên thế giới điều chỉnh về quyền và nghĩa vụ của cổ đông 21 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CỔ ĐÔNG THEO LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014 25 2.1. Những quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty cổ phần 25 2.1.1. Quyền của cổ đông 25 2.1.1.1. Quyền cơ bản của cổ đông 26 2.1.1.2. Quyền của cổ đông ưu đãi 37 2.1.2. Nghĩa vụ của cổ đông 39 2.2. Thực trạng áp dụng quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty cổ phần 41 2.2.1. Thực tiễn áp dụng quy định về quyền và nghĩa vụ của cổ đông 41 2.2.2. Việc xử lý vi phạm quyền và nghĩa vụ của cổ đông 48 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CỔ ĐÔNG 52 3.1. Phương hướng hoàn thiện quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cổ đông 53 3.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đông 54 KẾT LUẬN 61 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 62 5
  6. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trải qua hơn 20 năm hình thành và phát triển, bắt đầu từ Luật Công ty năm 1990, cho đến Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005 và hiện nay là Luật Doanh nghiệp năm 2014, mô hình công ty cổ phần ở Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ, với một trong những nguyên tắc pháp lý quan trọng là hướng đến và duy trì việc bảo vệ quyền lợi của cổ đông. Bởi lẽ, khi quyền lợi của các cổ đông trong công ty cổ phần được bảo đảm, thì các nhà đầu tư sẽ yên tâm trong hoạt động đầu tư, kinh doanh của mình. Qua đó, góp phần làm lành mạnh môi trường kinh doanh và nâng cao hiệu quả của việc huy động vốn cho nền kinh tế. Mặc dù, Luật Doanh nghiệp năm 2014 có rất nhiều các quy định về quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty cổ phần, cũng như việc bảo vệ quyền lợi của các cổ đông nhưng hiện nay việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty cổ phần chưa thực sự tốt. Dường như, cổ đông chưa thực sự thực hiện được quyền của mình mà pháp luật trao cho, đặc biệt là cổ đông nhỏ đối với những quyết định quan trọng của công ty, dẫn đến việc sụp đổ của hàng loạt các công ty cổ phần, đặc biệt là các ngân hàng thương mại cổ phần. Như vậy, muốn nâng cao hoạt động quản trị công ty, chúng ta cần phải hoàn thiện các quy định về công ty, đặc biệt là công ty cổ phần trong đó chú trọng hoàn thiện quy định về quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty cổ phần, cũng như đưa ra các cơ chế để cổ đông thực sự thực hiện được quyền của mình trong công ty, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cổ đông, đặc biệt là cổ đông nhỏ. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Quyền và nghĩa vụ của cổ đông theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014” làm khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 6
  7. Về mặt lý luận, khóa luận là công trình nghiên cứu góp phần xây dựng các luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật, nhằm nâng cao tính minh bạch, khả thi của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty cổ phần, tạo hành lang pháp lý thuận lợi góp phần bảo đảm quyền và lợi ích của cổ đông, nâng cao hoạt động quản lý nhà nước, hoàn thiện cơ chế và thiết chế bảo vệ quyền và lợi ích của cổ đông, đặc biệt là cổ đông nhỏ trong công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay. Về mặt thực tiễn, Khóa luận sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị cho các hoạt động nghiên cứu, học tập về những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014. 3. Mục đích nghiên cứu Khóa luận đặt ra mục đích nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng quy định về quyền và nghĩa vụ của cổ đông theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014, từ đó kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty cổ phần. Để đạt được mục đích nghiên cứu khóa luận đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu như sau: - Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận pháp luật liên quan đến công ty cổ phần, cổ đông, quyền và nghĩa vụ của cổ đông; đồng thời khóa luận cũng nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty cổ phần; - Phân tích, làm rõ và đánh giá thực trạng các quy định về quyền và nghĩa vụ của cổ đông theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014, cũng như việc thực thi các quy định đó ở Việt Nam hiện nay; chỉ ra ưu điểm và những hạn chế cần khắc phục; 7
  8. - Kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cổ đông ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của khóa luận: những vấn đề lý luận, những quy định về quyền và nghĩa vụ của cổ đông theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 và việc thực thi các quy định đó trong thực tế. Phạm vi nghiên cứu của khóa luận: Trong khóa luận tốt nghiệp, tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu, phân tích các quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty cổ phần với tư cách là người sở hữu các loại cổ phiếu khác nhau trong công ty; nghiên cứu quan hệ giữa các cổ đông với nhau và giữa họ với công ty. Tuy chỉ tập trung nghiên cứu các quy định về quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong Luật Doanh nghiệp năm 2014, nhưng khóa luận cũng nghiên cứu tham khảo các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của cổ đông. Khóa luận không đề cập tới cổ đông với tư cách là người nắm giữ các loại chứng khoán khác của công ty như trái phiếu, chứng chỉ quỹ. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, những quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, Khóa luận cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau: - Phương pháp phân tích, bình luận, diễn giải, so sánh và phương pháp lịch sử được sử dụng để làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền và nghĩa vụ của cổ đông; - Phương pháp so sánh luật học, phân tích, tổng hợp, thống kê, đánh giá được sử dụng, đánh giá thực trạng quy định pháp luật và thực thi pháp luật về 8
  9. quyền và nghĩa vụ của cổ đông nhằm chỉ ra ưu điểm và hạn chế của pháp luật trong lĩnh vực này; - Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng khi xem xét, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cổ đông ở Việt Nam. 6. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Khóa luận được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty cổ phần Chương 2: Thực trạng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cổ đông theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cổ đông 9
  10. CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CỔ ĐÔNG TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN 1.1. Khái quát về công ty cổ phần 1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển công ty cổ phần Như bất kỳ một hiện tượng kinh tế nào, công ty ra đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện lịch sử nhất định. Sự ra đời của công ty phát sinh từ nhu cầu tất yếu khách quan của đời sống xã hội. Cụ thể là: Thứ nhất, sản xuất hàng hoá phát triển, xuất hiện nhu cầu mở mang kinh doanh, nhu cầu vốn và buộc các nhà kinh doanh phải liên kết với nhau theo những hình thức nhất định - các công ty. Thứ hai, nền sản xuất hàng hóa phát triển, thì sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường cũng là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của công ty do các nhà kinh doanh phải liên kết với nhau thông qua hình thức góp vốn để thành lập công ty. Thứ ba, trong kinh doanh thường gặp nhiều rủi ro, do vậy, để phân tán rủi ro nhà kinh doanh thường liên kết với nhau để cùng nhau chia sẻ rủi ro. Sự ra đời của loại hình công ty cổ phần với tư cách là một công ty đối vốn cũng không nằm ngoài những lý do nêu trên. Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức kinh doanh ra đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Sự hình thành và phát triển của công ty cổ phần gắn liền với sự hình thành của thị trường vốn và thị trường tiền tệ. “Công ty cồ phần là một loại hình kinh doanh phổ biến hiện nay, được xem là phương thức phát triển cao nhất cho đến nay của loài người để huy động vốn cho kinh doanh và qua đó làm cho nền kinh tế của mỗi quốc gia phát triển” [16, 18]. Quá trình công nghiệp hoá ở các nước châu Âu và Bắc Mỹ từ thế kỷ 18, 19 cùng với nhu cầu tích tụ vốn để đầu tư của các nhà tư bản đã làm xuất hiện 10
  11. loại hình công ty cổ phần. Sự phát triển mạnh mẽ của Chủ nghĩa Tư bản đòi hỏi sản xuất kinh doanh phải có quy mô ngày càng to lớn, cạnh tranh và độc quyền có mức độ ngày càng gay gắt. Công ty cổ phần là hình thức kinh doanh thoả mãn được những nhu cầu này, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút và tập trung tư bản, như nhận định của Các Mác “Qua các công ty cổ phần, sự tập trung đã thực hiện được việc đó trong nháy mắt”. Công ty cổ phần xuất hiện đầu tiên trên thế giới là công ty Đông Ấn của Anh, nó được thành lập ngày 31/10/1860 bởi một nhóm có 218 người. Sau đó hình thức công ty cổ phần xuất hiện tại một số quốc gia khác như Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Điển, Đức, Ở Mỹ, công ty cổ phần phát triển rất mạnh, năm 1989, số lượng các công ty cổ phần chiếm 31,7% trong tổng số các xí nghiệp công nghiệp và chiếm 92,6% giá trị tổng sản phẩm công nghiệp [6]. Tóm lại, trải qua quá trình phát triển lâu dài, công ty cổ phần đã từ phạm vi ở một nước, một khu vực nhất định đã phát triển thành những công ty đa quốc gia, hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đúng như nhận định: “Công ty cổ phần đã phát triển ở hầu hết các nước từ đơn giản đến phức tạp, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ một ngành đến đa ngành, từ một quốc gia đến nhiều quốc gia thông qua các công ty siêu quốc gia” [12, 35]. 1.1.2. Khái niệm công ty cổ phần Theo quy định tại Điều 110 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là 03 và không hạn chế số lượng tối đa; Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 và khoản 1 Điều 126 của Luật này. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Công ty cổ phần có quyền phát hành cổ phần các loại để huy động vốn [19, Điều 110]. 11
  12. 1.1.3. Đặc điểm của công ty cổ phần Thứ nhất, vốn điều lệ: được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Công ty cổ phần có cổ phần phổ thông và có thể có cổ phần ưu đãi. Cổ phần ưu đãi gồm các loại như: cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại. Tùy vào từng loại cổ phần cổ đông sở hữu mà cổ đông có các quyền và nghĩa vụ khác nhau; Thứ hai, số lượng cổ đông: Số lượng cổ đông của công ty cổ phần tối thiểu là ba và không giới hạn số lượng tối đa. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; Thứ ba, cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Luật cho phép những người góp vốn vào công ty cổ phần hưởng chế độ trách nhiệm hữu hạn tức là cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ của công ty cho phạm vi vốn đã góp. Họ không phải lấy tài sản không đem vào kinh doanh để trả nợ. Đó là cách pháp luật khuyến khích người dân tham gia vào kinh doanh để phát triển kinh tế. Thứ tư, cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác. Đây là một đặc trưng riêng của công ty cổ phần. Tư cách cổ đông của công ty được xác định dựa trên căn cứ quyền sở hữu cổ phần. Các cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần trừ một số trường hợp bị pháp luật cấm chuyển nhượng hoặc hạn chế chuyển nhượng. Mức độ tự do chuyển nhượng cổ phần phụ thuộc vào tính chất của từng loại cổ phần. Với tính tự do chuyển nhượng cổ phần, cơ cấu cổ đông của công ty có thể thay đổi linh hoạt mà không ảnh hưởng đến sự tồn tại cũng như bản chất của công ty. Đối với cổ phần ưu đãi biểu quyết, trong thời hạn ba năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho cổ đông sáng lập khác nhưng chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người 12
  13. không phải là cổ phần sáng lập nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông; sau 3 năm mọi hạn chế đối với cổ đông sáng lập bị bãi bỏ; Thứ năm, công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn. Công ty có thể phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ hoặc phát hành trái phiếu để tăng vốn vay (vốn tín dụng) theo quy định của pháp luật; Thứ sáu, công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đây là loại hình công ty có tính tổ chức cao, hoàn thiện về vốn, hoạt động mang tính xã hội hóa cao. Công ty cổ phần có tên riêng, có quyền sở hữu tài sản, độc lập tham gia vào các giao dịch, có quyền khởi kiện, có thể bị kiện và một số quyền khác. Tư cách pháp nhân còn thể hiện ở khả năng tồn tại liên tục của công ty không phụ thuộc vào sự chuyển nhượng vốn của cổ đông. Ưu điểm của công ty cổ phần: - Chế độ trách nhiệm của cổ đông trong công ty cổ phần là trách nhiệm hữu hạn, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi vốn góp nên mức độ rủi ro của các cổ đông không cao; - Khả năng hoạt động của Công ty cổ phần rất rộng, trong hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề. Thực tế hiện nay thì ưu điểm này không phải là tuyệt đối vì các loại hình công ty đều có quyền kinh doanh ngành nghề, lĩnh vực gần như nhau. - Cơ cấu vốn của Công ty cổ phần hết sức linh hoạt tạo điều kiện nhiều người cùng góp vốn vào công ty; - Khả năng huy động vốn của Công ty cổ phần rất cao thông qua việc phát hành cổ phiếu ra công chúng, đây là đặc điểm riêng có của công ty cổ phần; - Việc chuyển nhượng vốn trong Công ty cổ phần là tương đối dễ dàng, do vậy phạm vi đối tượng được tham gia công ty cổ phần là rất rộng, ngay cả các 13
  14. cán bộ công chức cũng có quyền mua cổ phiếu của Công ty cổ phần (đối với công ty đại chúng, công ty niêm yết trên Sàn chứng khoán thì chỉ có công ty cổ phần mới có quyền này). Nhược điểm của công ty cổ phần: Bên cạnh những lợi thế nêu trên, loại hình công ty cổ phần cũng có những hạn chế nhất định như: - Việc quản lý và điều hành Công ty cổ phần rất phức tạp do số lượng các cổ đông có thể rất lớn, có nhiều người không hề quen biết nhau và thậm chí có thể có sự phân hóa thành các nhóm cổ động đối kháng nhau về lợi ích; - Việc thành lập và quản lý Công ty cổ phần cũng phức tạp hơn các loại hình công ty khác do bị ràng buộc chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật, đặc biệt về chế độ tài chính, kế toán. 1.2. Khái quát về cổ phần 1.2.1. Khái niệm cổ phần Cổ phần là phần vốn nhỏ nhất của công ty cổ phần. Vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành các phần bằng nhau được gọi là cổ phần. Người sở hữu cổ phần được gọi là cổ đông của công ty. Điểm a Khoản 1 Điều 110 Luật Doanh nghiệp năm 2014 cũng quy định: “ Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần”, trong đó vốn điều lệ của công ty cổ phần được hiểu là “tổng giá trị mệnh giá cổ phần đã bán hoặc đã được đăng ký mua khi thành lập doanh nghiệp” [19, Điều 4]. 1.2.2. Các loại cổ phần Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì công ty cổ phần có thể tồn tại hai loại cổ phần là cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi. Cổ phần phổ thông là loại cổ phần mà cổ đông chỉ hưởng lãi hoặc chịu lỗ dựa trên kết quả 14
  15. hoạt động của công ty. Cổ phần phổ thông không thể chuyển đổi thành cổ phần ưu đãi. Cổ phần ưu đãi là loại cổ phần mà cổ đông khi sở hữu nó sẽ được hưởng một số đặc quyền khác so với cổ đông phổ thông. Cổ phần ưu đãi có thể chuyển đổi thành cổ phần phổ thông theo nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông. Cổ phần ưu đãi được chia thành các loại sau: - Cổ phần ưu đãi biểu quyết: là cổ phần có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông. Số phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi biểu quyết do Điều lệ công ty quy định. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì chỉ có tổ chức được Chính phủ ủy quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết [19, Điều 116]. - Cổ phần ưu đãi cổ tức: là cổ phần được trả cổ tức với mức cao hơn so với mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hằng năm. Cổ tức được chia hằng năm bao gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng. Cổ tức cố định không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty. Mức cổ tức cố định cụ thể và phương thức xác định cổ tức thưởng được ghi trên cổ phiếu của cổ phần ưu đãi cổ tức [19, Điều 117]. - Cổ phần ưu đãi hoàn lại: lại là cổ phần được công ty hoàn lại vốn góp theo yêu cầu của người sở hữu hoặc theo các điều kiện được ghi tại cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại [19, Điều 118]. 1.2.3. So sánh cổ phần và cổ phiếu Thứ nhất, về khái niệm: Điểm a Khoản 1 Điều 110 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: “ Vốn điều lệ trong công ty cổ phần được chia thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần” [19, Điều 110]. Như vậy, cổ phần là phần chia nhỏ nhất vốn điều lệ của công ty, được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Khoản 1 Điều120 Luật Doanh nghiệp quy định: “Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử xác nhận 15
  16. quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó”. Khoản 2 Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2010 định nghĩa về cổ phiếu như sau: “Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của công ty do tổ chức phát hành” [18, Điều 6]. Như vậy, có thể hiểu cổ phiếu là một loại chứng khoán do công ty cổ phần phát hành xác nhận quyền và lợi ích của người sở hữu đối với công ty. Thứ hai, về mệnh giá: Mệnh giá cổ phần do công ty quyết định và ghi vào cổ phiếu. Mệnh giá cổ phần có thể khác với giá chào bán cổ phần. Hội đồng quản trị của công ty cổ phần quyết định giá chào bán cổ phần nhưng không được thấp hơn giá thị trường tại thời điểm chào bán, trừ trường hợp cổ phần chào bán lần đầu tiên cho những người không phải là cổ đông sáng lập; cổ phần chào bán cho tất cả cổ đông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của công ty; cổ phần chào bán cho người môi giới hoặc người bảo lãnh. Thứ ba, về giá trị pháp lý của cổ phiếu và cổ phần: Cổ phần là căn cứ pháp lý chứng minh tư cách là cổ đông của công ty cổ phần. Cổ phần thuộc mỗi loại tạo cho người sở hữu các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Cổ phiếu là giấy tờ chứng minh tư cách chủ sở hữu cổ phần của cổ đông công ty cổ phần. Nếu là bút toán ghi sổ thì những thông tin về cổ phiếu được ghi nhận trong sổ đăng ký cổ đông của công ty. 1.3. Khái quát về cổ đông trong công ty cổ phần 1.3.1. Khái niệm cổ đông, quyền cổ đông Cổ đông là người góp vốn vào công ty bằng cách mua cổ phần của công ty. Khi đã đưa tài sản vào công ty, quyền tài sản của cổ đông được chuyển sang 16
  17. cho công ty. Đổi lại, họ trở thành các đồng chủ sở hữu của công ty. Cổ đông có quyền lợi đối với công ty tương ứng với phần vốn góp của mình. Khoản 2 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: “Cổ đông là cá nhân, tổ chức sở hữu ít nhất một cổ phần của công ty cổ phần” [19, Điều 110]. Về bản chất, cổ đông là thực thể đồng sở hữu công ty cổ phần, chứ không phải là chủ nợ của công ty đó. Do vậy, quyền và lợi ích của cổ đông gắn liền với hoạt động của doanh nghiệp và các loại cổ phần mà họ sở hữu. Hiện nay, có rất nhiều các học thuyết khác nhau bàn về quyền của cổ đông trong công ty cổ phần. Thuyết cổ điển cho rằng, quyền của cổ đông có cội nguồn từ khế ước. Một thuyết khác coi công ty cổ phần là một quốc gia thu nhỏ, do đó quyền của cổ đông có thể đem so với những quyền cơ bản của công dân mà Nhà nước đảm bảo. Các quyền cơ bản bao gồm quyền mang tính “chính trị” (quyền quyết định những vấn đề quan trọng của công ty) và quyền mang tính tài sản [13, 11]. 1.3.2. Phân loại cổ đông trong công ty cổ phần Thứ nhất, căn cứ vào quyền và nghĩa vụ gắn liền với loại cổ phiếu mà họ sở hữu, cổ đông được phân loại thành: - Cổ đông phổ thông: là cổ đông nắm giữ cổ phần phổ thông. Tất cả các tổ chức, cá nhân nhận được quyền góp vốn vào doanh nghiệp đều có thể trở thành cổ đông của công ty cổ phần. - Cổ đông sáng lập: là “cổ đông sở hữu ít nhất một cổ phần phổ thông và ký tên trong danh sách cổ đông sáng lập công ty cổ phần” [19, Điều 4]. - Cổ đông ưu đãi: là những cổ đông được ưu tiên một quyền nào đó như được trả cổ tức cao hơn hay quyền hưởng một tỷ lệ cổ tức cố định trước khi lợi nhuận được phân phối cho các cổ đông khác, quyền nhận lại giá trị của cổ phần khi có yêu cầu. Đi kèm với quyền ưu tiên, cổ đông ưu đãi thường bị hạn 17
  18. chế các quyền khác như không có quyền biểu quyết, dự họp Đại hội đồng cổ đông, đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát . Thứ hai, căn cứ tỷ lệ cổ phần mà cổ đông nắm giữ, cổ đông được phân loại thành cổ đông lớn và cổ đông nhỏ. Tỷ lệ để có thể coi là cổ đông lớn thường do điều lệ Công ty cổ phần quy định trên cơ sở tuân thủ luật pháp. Theo Khoản 9 Điều 6 Luật Chứng khoán năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2010 thì “Cổ đông sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành được coi là cổ đông lớn” [18, Điều 6]. Thứ ba, căn cứ vào chủ thể sở hữu cổ phần của công ty cổ phần thì cổ đông của công ty cổ phần gồm cổ đông tổ chức và cổ đông cá nhân. Cổ đông là tổ chức thường là ngân hàng, các công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán. Khác với cổ đông cổ đông cá nhân có xu hướng bán cổ phiếu ngay khi lên giá, việc chuyển nhượng cổ phần của cổ đông tổ chức thường ít xảy ra hơn. 1.4. Khái quát về pháp luật điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của cổ đông 1.4.1. Pháp luật Việt Nam điều chỉnh về quyền và nghĩa vụ của cổ đông Ở Việt Nam, Luật lệ về công ty lần đầu tiên được quy định là trong “Bộ Dân luật thi hành tại các toà án Nam Bắc Kỳ”, trong đó tiết thứ 5 (Chương IX) nói về hội buôn được chia thành hai loại là hội người và hội vốn. Trong đó hội vốn được chia thành hai loại là hội vô danh và hội hợp cổ. Nhìn chung, quy định của Pháp luật thời kỳ này về công ty cổ phần còn rất sơ khai [6]. Dưới thời Pháp thuộc, các quy định của Bộ luật Thương mại Pháp năm 1807, trong đó có quy định về hình thức công ty cổ phần được áp dụng ở cả ba kỳ tại Việt Nam. Đến năm 1944, chính quyền Bảo Đại ban hành Bộ luật thương mại Trung phần có hiệu lực áp dụng tại Trung Kỳ, trong đó có quy định về công ty cổ phần (gọi là công ty vô danh) từ Điều 102 đến Điều 142 và từ Điều 159 đến Điều 171. 18
  19. Năm 1972, chính quyền Việt Nam Cộng hoà ban hành Bộ luật Thương mại, trong đó công ty cổ phần được gọi là hội nặc danh với đặc điểm “gồm có các hội viên mệnh danh cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm trong giới hạn phần hùn của mình dưới hình thức cổ phần” (Điều 236) và “chỉ được thành lập nếu có số hội viên từ 7 người trở lên” (Điều 295). Các vấn đề pháp lý liên quan đến hình thức hội nặc danh như thành lập, góp vốn, cơ cấu quản lý đã được quy định rất chi tiết trong Bộ luật này từ Điều 236 đến Điều 278 cũng như từ Điều 295 đến Điều 314. Ở miền Bắc, sau năm 1954 cho đến khi thống nhất đất nước vào năm 1975 và trên phạm vi cả nước từ sau năm 1975 đến những năm 80 của thế kỷ 20, với chính sách kinh tế kế hoạch hoá tập trung, các hình thức công ty nói chung và công ty cổ phần nói riêng hầu như không được pháp luật thừa nhận. Khái niệm “công ty” trong giai đoạn này không được hiểu đúng bản chất pháp lý mà chỉ được hiểu theo hình thức kinh doanh. Các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh trong giai đoạn này chủ yếu bao gồm các nhà máy, xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã (đối với thành phần kinh tế tập thể) và công tư hợp danh (hình thành từ quá trình cải tạo công thương nghiệp xã hội chủ nghĩa). Trong giai đoạn này, mặc dù Điều lệ về đầu tư của nước ngoài ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (ban hành kèm theo Nghị định 115/CP của Chính phủ ngày 18/4/1977) có đề cập đến hình thức công ty cổ phần khi quy định “xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp” có thể thành lập theo hình thức “công ty vô danh” (một tên gọi khác của công ty cổ phần) nhưng lại không có văn bản pháp luật nào quy định về tổ chức và hoạt động của hình thức công ty cổ phần này. Và trên thực tế, cũng không có xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp nào được thành lập theo hình thức “công ty vô danh” theo quy định của Điều lệ về đầu tư của nước ngoài năm 1977 kể trên [6]. 19
  20. Cho đến khi Luật công ty được ban hành ngày 21/12/1990, hình thức công ty cổ phần mới chính thức được quy định cụ thể. Theo Luật Công ty 1990, công ty cổ phần được xác định với các đặc điểm sau: – Số thành viên gọi là cổ đông mà công ty phải có trong suốt thời gian hoạt động ít nhất là 7. – Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu. Mỗi cổ đông có thể mua 1 hoặc nhiều cổ phiếu. – Cổ phiếu được phát hành có thể ghi tên hoặc không ghi tên. Cổ phiếu của sáng lập viên, của thành viên Hội đồng quản trị phải là những cổ phiếu có ghi tên. – Cổ phiếu không ghi tên được tự do chuyển nhượng. Cổ phiếu ghi tên chỉ được chuyển nhượng nếu được sự đồng ý của Hội đồng quản trị, trừ trường hợp quy định tại Điều 39 của Luật này. Sau khi Luật Công ty ra đời, nhiều văn bản pháp luật khác nhau đã được ban hành nhằm điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau nhưng được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần. Hoạt động của các doanh nghiệp này một mặt phải tuân thủ các quy định của Luật Công ty, mặt khác, do đặc thù riêng của các ngành nghề kinh doanh, hoạt động của các doanh nghiệp này còn phải tuân thủ theo quy định của các luật chuyên ngành. Chẳng hạn như trong Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày 01/10/1998 tại Điều 12 quy định về các loại hình tổ chức tín dụng có hình thức tổ chức tín dụng cổ phần của Nhà nước và nhân dân, hay nói cách khác các Ngân hàng thương mại cổ phần chính là các công ty cổ phần hoạt động trong lĩnh vực tài chính – tiền tệ [6]. Trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán, tại Điều 2.1 Quy chế về tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 20
  21. 04/1998/QĐ-UBCK ngày 13/10/1998 quy định “Công ty chứng khoán là công ty cổ phần thành lập hợp pháp tại Việt Nam, được uỷ ban chứng khoán nhà nước cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán”. Sau gần 10 năm thực hiện, Luật Công ty đã phát huy được tích cực vai trò của mình, góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, thực tiễn các quan hệ kinh doanh ở nước ta trong thời kỳ này liên tục biến đổi, Luật công ty đã bộc lộ rất nhiều bất cập, nhất là trong vấn đề thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh. Nhiều quy định của luật này tỏ ra lạc hậu với cách thức tổ chức một công ty theo cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế. Việc sửa đổi, thay thế luật này được đặt ra như là một sự tất yếu khách quan. Ngày 12/6/1999, Quốc hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp để thay thế cho Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân. Sau hơn 5 năm đi vào hoạt động, Luật Doanh nghiệp năm 1999 đã được thay đổi bằng Luật Doanh nghiệp 2005. Trong các văn bản này, công ty cổ phần vẫn tiếp tục được ghi nhận và được quy định theo hướng tiếp cận dần đến các chuẩn mực quốc tế về quản trị công ty cổ phần. Sau đó, Luật Doanh nghiệp năm 2005 tiếp tục được thay thế bởi Luật Doanh nghiệp năm 2014. Có thể nói, Luật Doanh nghiệp năm 2014 được đánh giá đã tiếp cận được với các chuẩn mực quốc tế về các loại hình công ty tiêu biểu như Bộ nguyên tắc quản trị công ty của OECD. 1.4.2. Pháp luật của một số quốc gia trên thế giới điều chỉnh về quyền và nghĩa vụ của cổ đông Chính từ nhu cầu khách quan phát triển kinh tế – xã hội cần có sự liên kết hùn vốn, đồng thời về mặt chủ quan, các nhà đầu tư muốn chia sẻ những gánh nặng rủi ro trong kinh doanh và tìm kiếm lợi nhuận cao hơn đã dẫn đến sự ra đời của Công ty cổ phần. Sự ra đời và phát triển của Công ty cổ phần đòi hỏi cần phải có sự điều chỉnh của pháp luật. 21
  22. Ở Anh, Luật về Công ty cổ phần được ban hành năm 1844. Theo đó, dù các công ty muốn được thành lập không phải xin phép mà chỉ cần đăng ký. Tuy nhiên, luật này không cho công ty được hưởng chế độ trách nhiệm hữu hạn. Sự hạn chế này phản ánh sự nghi ngờ của dư luận về Công ty cổ phần lúc đó. Tuy nhiên, vào những năm 1850 có hơn 40 công ty Anh sang Pháp để thành lập dù chi phí thành lập công ty ở Pháp rất cao. Chính phủ Anh sợ mất doanh nghiệp nên vào năm 1855 ban hành luật về tính trách nhiệm hữu hạn dành cho các công ty đã được thành lập theo luật về Công ty cổ phần. Cuối cùng cả hai luật kia được sáp nhập thành một năm 1862 lấy tên là Luật về công ty [6]. Vào lúc ấy, nước Anh là đế quốc thống trị về hàng hải và là một cường quốc công nghiệp hàng đầu thế giới. Chính vì vây, Luật công ty của Mỹ được ban hành năm 1881 ở NewYork chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ Luật Công ty của Anh do nguồn gốc hình thành nước Mỹ. Các nước trong khối Thịnh Vượng Chung ngày nay có luật công ty giống của Anh. Theo pháp luật công ty của Mỹ, công ty cổ phần là một pháp nhân được thành lập và thừa nhận theo pháp luật của bang. Ở Hoa Kỳ, mỗi bang đều có Luật riêng điều chỉnh về công ty cổ phần, trong đó chia làm hai nhánh chính. Nhánh thứ nhất gồm các bang áp dụng theo luật mẫu về công ty cổ phần kinh doanh như Georgia, North Carolina, South Carolina, Washington, và nhánh thứ hai là các bang còn lại tự ban hành luật công ty riêng, trong đó luật chung về công ty cổ phần của Delaware có ảnh hưởng lớn nhất. Bang Delaware có các quy định thông thoáng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý công ty nên nhiều công ty được thành lập tại bang này [26, 131]. Riêng Pháp và Đức đi theo con đường khác do những khác biệt về văn hoá và lịch sử. Ở Đức, luật Công ty cổ phần được ban hành năm 1870. Công ty cổ phần của Đức bị luật quy định chặt chẽ và không uyển chuyển như công ty của Anh và Mỹ. Ở Pháp, bộ luật Napoleon năm 1807 đã thiết lập một nền tảng cho công ty bằng cách cho lập hội hợp tư cổ phần. 22
  23. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Sự ra đời của loại hình công ty cổ phần gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế. Đối với mỗi quốc gia, trong những giai đoạn phát triển nhất định có xây dựng những quy tắc khác nhau áp dụng cho những dấu hiệu đặc thù của mỗi nền kinh tế, với từng mô hình kinh doanh cụ thể. Mô hình công ty cổ phần được xem là có nhiều ưu điểm nhất cho sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu hiện nay. Công ty cổ phần được hình thành nhằm thu hút, kêu gọi vốn từ các nhà đầu tư, cùng nhau kinh doanh, chia sẻ rủi ro và lợi nhuận. Trong công ty cổ phần có các cổ đông là những nhà đầu tư và hệ thống cơ quan quản lý, hệ thống này do các cổ đông bầu ra để dùng tiền của các cổ đông vào hoạt động sản xuất, kinh doanh và kiểm soát đồng vốn đó sao cho có lợi nhất cho các cổ đông là những người sở hữu công ty. Khi tham gia đầu tư vào công ty cổ đông sẽ được hưởng những quyền lợi nhất định, đồng thời cũng phải gánh vác các nghĩa vụ đối với công ty. Luật pháp của các quốc gia khác nhau quy định về quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty cổ phần cũng khác nhau, tùy thuộc vào từng mức độ phát triển của nền kinh tế, thói quen kinh doanh. Các khía cạnh như trình độ dân trí, văn hóa xã hội cũng có tác động rất lớn đối với việc ban hành và áp dụng pháp luật. Lĩnh vực kinh doanh đa dạng, lại liên quan trực tiếp đến quyền lợi của từng chủ đầu tư. Các quốc gia khi xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư sao cho có lợi nhất để ổn định và phát triển nền kinh tế của mình. Nước ta đang trên đà phát triển, chính vì vậy hệ thống pháp luật nước ta còn nhiều điểm chưa hoàn thiện. Do vậy, chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm từ các nước đã và đang phát triển trên thế giới theo cách thức chọn lọc để áp dụng vào nền kinh tế nước mình một cách phù hợp nhất. Để tìm hiểu về vấn đề này, chúng ta cần xem xét những quy định về quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty cổ phần theo những quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014, để hiểu rõ những điểm tích cực, những 23
  24. điểm hạn chế của các quy định pháp luật và việc áp dụng những quy định này trong các công ty ở Việt Nam hiện nay. 24
  25. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CỔ ĐÔNG THEO LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014 2.1. Những quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty cổ phần Luật Doanh nghiệp năm 2014 tại Khoản 5 Điều 113 có quy định: “Mỗi cổ phần của cùng một loại đều tạo cho người sở hữu nó các quyền, nghĩa vụ và lợi ích ngang nhau”. Như vậy, quy định này trên thực tế đã chỉ ra một cách khái quát nhất những quyền và nghĩa vụ mà bất kỳ một cổ đông nào trong công ty cũng có tùy thuộc vào loại cổ phần mà cổ đông đó nắm giữ. Cổ đông phổ thông có các quyền và lợi ích cơ bản, tối thiểu khi đầu tư vào công ty và nghĩa vụ phải thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Điều lệ công ty. Cổ đông ưu đãi sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết, ưu đãi hoàn lại, ưu đãi cổ tức, ưu đãi khác cũng được hưởng những quyền và lợi ích khi họ đầu tư vào công ty. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, các cổ đông ưu đãi này được hưởng một quyền hoặc một số quyền khác so với cổ đông phổ thông nhưng họ cũng phải từ bỏ hay không có một số quyền khác mà cổ đông phổ thông có được. 2.1.1. Quyền của cổ đông Sự đa dạng về loại cổ phần với các quyền và mức độ khác nhau được Luật Doanh nghiệp quy định đã cho phép công ty thiết lập được một cơ cấu tài chính linh hoạt đáp ứng nhu cầu huy động vốn của công ty và cho phép các cổ đông sử dụng nó như công cụ bảo vệ lợi ích của mình khi đầu tư vào công ty. Mặc dù, tất cả các cổ đông được quyền bình đẳng về những quyền tương tự nhau, phần lớn các quyền này nhằm mục tiêu hoặc có lợi ích đặc biệt trong việc giúp đỡ những cổ đông không có quyền hành hoặc cổ đông nhỏ bảo vệ lợi ích của mình khỏi sự chèn ép của các thành viên Hội đồng quản trị và các cổ đông lớn. 25
  26. 2.1.1.1. Quyền cơ bản của cổ đông Với tư cách là chủ sở hữu công ty cổ phần, các cổ đông đều có những quyền hạn chung, trong một số trường hợp có thể thay đổi tùy thuộc vào loại cổ phần mà cổ đông đó sở hữu hoặc tỷ lệ cổ phần phổ thông mà cổ đông, nhóm cổ đông nắm giữ. Theo quy định tại Điều 114 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì quyền của cổ đông phổ thông có thể phân chia vào các nhóm sau: các quyền liên quan đến sở hữu, các quyền liên quan đến hoạt động quản lý công ty, các quyền liên quan đến việc tiếp nhận thông tin và quyền khởi kiện. a, Nhóm quyền liên quan đến sở hữu Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014, vốn điều lệ của công ty được chia thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần [19, Điều 110]. Với tư cách là cổ đông của công ty cổ phần thì quyền cơ bản của cổ đông là quyền sở hữu đối với công ty tương ứng với tỷ lệ cổ phần mà họ nắm giữ. Khi sở hữu cổ phần, cổ đông được hưởng những quyền sau đây: Thứ nhất, Quyền chuyển nhượng cổ phần: Điểm d Khoản 1 Điều 114 Luật Doanh nghiệp quy định cổ đông phổ thông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác trừ trường hợp cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết hoặc cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập. Hạn chế việc chuyển nhượng cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập chỉ hạn chế trong ba năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Tuy nhiên, cổ đông sáng lập chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông. Trường hợp này, cổ đông dự định chuyển nhượng cổ phần không có quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng các cổ phần đó. Việc chuyển nhượng cổ phần được thực hiện bằng hợp đồng theo cách thông thường hoặc thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán. Người 26
  27. nhận được cổ phần bằng việc mua bán, thừa kế hay tặng cho chỉ trở thành cổ đông của công ty từ thời điểm thông tin của họ được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký cổ đông [19, Điều 126]. Như vậy, công ty chỉ có vai trò chứng nhận việc chuyển nhượng cổ phần và ghi vào Sổ đăng ký cổ đông chứ không phải là phê chuẩn giao dịch chuyển nhượng. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp, hiệu lực pháp lý của việc chuyển nhượng phụ thuộc vào việc đăng ký các thông tin vào Sổ đăng ký cổ đông chứ dường như chưa phát sinh tại thời điểm các bên hoàn thành việc chuyển giao quyền sở hữu cổ phần một cách hợp pháp. Quy định về quyền chuyển nhượng cổ phần của cổ đông cho phép cổ đông có thể rút vốn đầu tư khỏi công ty để đảm bảo quyền lợi của mình mà không gây ảnh hưởng đến cơ cấu vốn cũng như các hoạt động kinh doanh khác của công ty. Thứ hai, Quyền nhận cổ tức: Như chúng ta đã biết, một người đầu tư vào công ty đều nhằm hai mục đích: một là, được nhận cổ tức; hai là, được lợi nhờ giá cổ phiếu tăng lên. Nhận cổ tức là một trong những quyền cơ bản mà cổ đông được hưởng khi đầu tư vào công ty. Theo Điểm b Khoản 1 Điều 114 Luật Doanh nghiệp năm 2014, thì cổ đông được nhận cổ tức với mức theo quy định của Đại hội đồng cổ đông. Cổ tức ở đây chính là “khoản lợi nhuận ròng được trả cho mỗi cổ đông bằng tiền mặt hoặc tài sản khác từ nguồn lợi nhuận còn lại của công ty cổ phần sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài chính” [19, Điều 4]. Như vậy, công ty cổ phần chỉ được trả cổ tức của cổ phần phổ thông khi có đủ các điều kiện sau đây: - Công ty đã hoàn thành nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật; - Đã trích lập các quỹ công ty và bù đắp lỗ trước đó theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty; 27
  28. - Ngay sau khi trả hết số cổ tức đã định, công ty vẫn bảo đảm thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản đến hạn khác. Với cổ đông ưu đãi cổ tức thì họ sẽ được trả cổ tức cao hơn so với mức cổ tức cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hằng năm. Cổ tức được chia hàng năm gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng, cổ tức cố định không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty. Mức cổ tức cố định cụ thể và phương thức xác định cổ tức thưởng được ghi trên cổ phiếu của cổ phần ưu đãi cổ tức. Quy định này nhằm hạn chế số lợi nhuận có thể sử dụng để chia cho cổ đông, bảo đảm sau khi chia cổ tức, sự tồn tại và phát triển của công ty cũng như lợi ích của các chủ nợ vẫn được đảm bảo, duy trì ở mức cần thiết, đồng thời bảo vệ được lợi ích lâu dài cho các cổ đông khi đầu tư vào công ty. Thứ ba, Quyền nhận lại tài sản khi công ty giải thể hoặc phá sản: Theo Điểm g Khoản 1 Điều 114 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì khi công ty giải thể hoặc phá sản, cổ đông được nhận một phần tài sản còn lại tương ứng với tỷ lệ cổ phần sở hữu tại công ty. Quy định này cho thấy, với cổ đông nói chung thì khi sở hữu cổ phần bên cạnh những quyền có được cùng với sự tồn tại của công ty trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh, họ cũng được hưởng quyền thanh lý với phần tài sản còn lại của công ty khi công ty giải thể hoặc phá sản. Theo Luật phá sản năm 2014, một doanh nghiệp mất khả năng thanh toán là “khi doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn” [20, Điều 4]. Còn doanh nghiệp phá sản là “doanh nghiệp bị mất khả năng thanh toán và bị tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản” [20, Điều 4]. Luật phá sản năm 2014 cũng quy định về thứ tự phân chia tài sản khi công ty phá sản, theo đó cổ đông của công ty cổ phần chỉ nhận lại tài sản khi công ty đã chi trả chi phí phá sản, chi trả lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản nhằm phục hồi hoạt động kinh doanh, nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước, khoản nợ không có bảo đảm phải 28
  29. trả cho chủ nợ trong danh sách chủ nợ, khoản nợ có bảo đảm chưa được thanh toán do giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán nợ [20, Điều 54]. Thứ tư, Quyền ưu tiên đối với cổ phiếu mới phát hành: Cổ đông của công ty cổ phần được ưu tiên mua cổ phần mới chào bán tương ứng với tỷ lệ cổ phần phổ thông của từng cổ đông trong công ty. Đây là một trong những quyền quan trọng mà cổ đông có được khi công ty bán cổ phần huy động thêm vốn, tức là bán đi một phần quyền sở hữu của công ty cho người khác mà kết quả sẽ làm thay đổi vị thế từng có của cổ đông hiện hữu trong công ty. Do đó, quyền được ưu tiên mua cổ phần mới chào bán sẽ góp phần bảo vệ quyền lợi của cổ đông hiện hữu của công ty, những người đã gắn bó với công ty, khi công ty hoạt động hiệu quả thì họ nên là những người đầu tiên được hưởng lợi từ hoạt động kinh doanh. Vì công ty chỉ phát hành thêm cổ phần khi công ty kinh doanh có lợi, phát hành thêm cổ phần mới để huy động thêm vốn. Về nguyên tắc, Hội đồng quản trị quyết định thời điểm, phương thức và giá chào bán cổ phần. Giá bán cổ phần không được thấp hơn giá thị trường tại thời điểm chào bán hoặc giá trị được ghi trong sổ sách của cổ phần tại thời điểm gần nhất, trừ những trường hợp được quy định tại Điều 125 Luật Doanh nghiệp năm 2014, trong đó có trường hợp cổ phần chào bán cho tất cả cổ đông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ ở công ty [19, Điều 125]. Như vậy, khi cổ đông mua cổ phần do công ty phát hành, họ sẽ được ưu tiên giá và ưu tiên về thứ tự mua so với những nhà đầu tư khác. Theo đó, cổ đông hiện hữu sẽ được mua cổ phiếu với giá thấp hơn so với giá thị trường và số cổ phiếu mới chào bán sẽ bán cho cổ đông hiện hữu trước, sau đó phần còn lại công ty mới bắt đầu chào bán ra công chúng. Thứ năm, Quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông: 29
  30. Theo Điều 129 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì “cổ đông biểu quyết phản đối nghị quyết về việc tổ chức lại công ty hoặc thay đổi quyền, nghĩa vụ của cổ đông quy định tại Điều lệ công ty có quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần của mình. Công ty phải mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông với giá thị trường hoặc giá được tính theo nguyên tắc quy định tại Điều lệ công ty trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Trường hợp không thỏa thuận được về giá thì các bên có thể yêu cầu một tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá. Công ty giới thiệu ít nhất 03 tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp để cổ đông lựa chọn và lựa chọn đó là quyết định cuối cùng”. Đây là một trong những quyền quan trọng mà cổ đông sử dụng để bảo vệ quyền lợi của mình. Cổ đông có thể rút vốn đầu tư ra khỏi công ty bằng việc yêu cầu công ty mua lại cổ phần của mình mà không ảnh hưởng đến lợi ích của các cổ đông khác khi cổ đông không đồng ý với việc tổ chức lại công ty hay thay đổi quyền, nghĩa vụ của cổ đông. b, Nhóm quyền liên quan đến hoạt động quản lý công ty Với tư cách là người sở hữu công ty, cổ đông có quyền tham gia vào hoạt động quản lý của công ty để giám sát và bảo vệ quyền lợi của mình. Khi tham gia quản lý công ty cổ đông có các quyền sau: Thứ nhất, Quyền tham dự và phát biểu trong Đại hội đồng cổ đông: Theo quy định của Luật Doanh nghiệp, trừ các cổ đông ưu đãi cổ tức và cổ đông ưu đãi hoàn lại và các cổ đông khác, tất cả các cổ đông của công ty có thể trực tiếp hoặc ủy quyền bằng văn bản cho người khác tham dự họp Đại hội đồng cổ đông. Quyền tham dự họp Đại hội đồng cổ đông là một trong những quyền cơ bản, tối thiểu của các cổ đông chứng tỏ sự hiện diện và xác nhận tư cách thành viên của các cổ đông trong công ty cổ phần. Thứ hai, quyền biểu quyết tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông: 30
  31. Điều 114 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định “Cổ đông có quyền tham dự và phát biểu trong các Đại hội đồng cổ đông và thực hiện quyền biểu quyết trực tiếp hoặc thông qua đại diện theo ủy quyền hoặc theo hình thức khác do pháp luật, điều lệ công ty quy định. Mỗi cổ phần phổ thông có một phiếu biểu quyết”. Các nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông được thông qua bằng hình thức biểu quyết tại cuộc họp hoặc lấy ý kiến bằng văn bản. Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông được thông qua tại cuộc họp khi được số cổ đông đại diện ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp tán thành, tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định đối với các nội dung được quy định tại Khoản 1 Điều 144. Các nội dung khác được thông qua khi số cổ đông đại diện cho ít nhất 51% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp tán thành. Đối với việc thông qua nghị quyết bằng hình thức lấy ý kiến bằng văn bản thì nghị quyết Đại hội đồng cổ đông được thông qua nếu được số cổ đông đại diện ít nhất 51% tổng số phiếu biểu quyết tán thành [19, Điều 114]. Quy định mới về tỷ lệ biểu quyết và hình thức họp đại hội đồng cổ đông tạo điều kiện cho các cổ đông nhỏ phát huy vai trò trong đại hội. Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã giảm yêu cầu về tỷ lệ biểu quyết thông qua nghị quyết Đại hội đồng cổ đông xuống 51% đối với nghị quyết thông thường và 65% đối với nghị quyết “đặc biệt”. Trước kia, tỷ lệ tương ứng theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 là 65% và 75%. Quy định về quyền biểu quyết của cổ đông tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông chính là công cụ, là chỗ dựa cho các cổ đông nhỏ giám sát, thực hiện và bảo vệ quyền lợi của mình. Mặt khác, với cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết, theo quy định khi biểu quyết vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông, cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết sẽ có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông. Số phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi biểu quyết do Điều lệ công ty quy định. Thứ ba, quyền triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông: 31
  32. “Đại hội đồng cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất của công ty cổ phần, gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết” [19, Điều 135]. Đại hội đồng cổ đông họp thường niên mỗi năm một lần. Ngoài cuộc họp thường niên, Đại hội đồng cổ đông có thể họp bất thường. Hội đồng quản trị, ban kiểm soát, cổ đông hoặc nhóm cổ đông có thể triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông. Có thể thấy, triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông là một trong những quyền của cổ đông. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014, cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty có quyền triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông khi thuộc một trong những trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều 114. Quy định này là quy định tùy nghi, theo đó cho phép cổ đông có thể thỏa thuận định ra một tỷ lệ phù hợp với điều kiện của công ty nhằm bảo vệ các cổ đông thiểu số, đồng thời tạp ra những hấp dẫn cho đầu tư và huy động vốn vào công ty. Điều kiện để tiến hành Đại hội đồng cổ đông là khi có số cổ đông dự họp đại diện ít nhất 51% tổng số phiếu biểu quyết, tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định. Trường hợp cuộc họp lần thứ nhất không đủ điều kiện tiến hành, cuộc họp đại hội đồng cổ đông triệu tập lần thứ hai được tiến hành khi có số cổ đông đại diện ít nhất 33% tổng số phiếu biểu quyết; trường hợp cuộc họp triệu tập lần thứ hai không đủ điều kiện tiến hành, cuộc họp của Đại hội đồng cổ đông được tiến hành không phụ thuộc vào tổng số phiếu biểu quyết của các cổ đông dự họp. Chỉ có Đại hội đồng cổ đông mới có quyền thay đổi chương trình họp. Thể thức tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông, hình thức biểu quyết do Điều lệ công ty quy định. Thứ tư, quyền hạn của cổ đông đối với chương trình, nội dung và nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông: Luật Doanh nghiệp cho phép cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng hoặc 32
  33. một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty có quyền kiến nghị vấn đề đưa vào chương trình họp Đại hội đồng cổ đông. Trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày nhận được biên bản họp Đại hội đồng cổ đông hoặc biên bản kết quả kiểm phiếu lấy ý kiến Đại hội đồng cổ đông, cổ đông, nhóm cổ đông trên có quyền yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét, hủy bỏ nghị quyết hoặc một phần nội dung nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2, 3 Điều 148. Thứ năm, quyền đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát: “Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông” [19, Điều149]. Ban kiểm soát là cơ quan thực hiện các thủ tục kiểm soát nội bộ hằng ngày trong công ty. Ban kiểm soát thực hiện việc giám sát và kiểm soát nội bộ, trực tiếp giám sát Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc. Ban kiểm soát có vai trò ngang bằng Hội đồng quản trị, cùng chịu trách nhiệm trước cổ đông trong việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ chính của mình. Luật Doanh nghiệp quy định cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty có quyền đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát. Quy định trên đã góp phần bảo vệ quyền lợi của cổ đông trong công ty cổ phần khi họ có thể đề cử những người theo họ là tốt tham gia vào hoạt động quản lý công ty, qua đó nâng cao tính minh bạch trong hoạt động quản trị công ty. Ngoài các quyền liên quan đến việc triệu tập, tham dự, phát biểu, biểu quyết tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông, quyền đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát thì cổ đông còn có những quyền khác liên quan đến hoạt động quản lý như xem xét, tra cứu, trích lục các thông tin trong danh sách cổ đông có quyền biểu quyết và yêu cầu sửa đổi khi không chính xác; 33
  34. xem xét, tra cứu, trích lục hoặc sao chụp Điều lệ công ty, biên bản họp Đại hội đồng cổ đông và các nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông. c, Quyền được cung cấp thông tin Quyền được nắm bắt những thông tin về công ty một cách đầy đủ là cơ sở để cổ đông thực hiện các quyền cơ bản khác như quyền biểu quyết tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông, quyền bầu và miễn nhiệm thành viên Hội đồng quản trị và cả quyền chuyển nhượng cổ phần. Chính vì vậy, đây là một trong những quyền quan trọng nhằm giúp cổ đông đặc biệt là cổ đông nhỏ bảo vệ lợi ích của mình thông qua việc nhận được những thông tin cơ bản về tài chính, quản lý và hoạt động kinh doanh của công ty. Theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì cổ đông có quyền: - Xem xét, tra cứu và trích lục các thông tin trong Danh sách cổ đông có quyền biểu quyết và yêu cầu sửa đổi các thông tin không chính xác; - Xem xét, tra cứu, trích lục hoặc sao chụp Điều lệ công ty, biên bản họp Đại hội đồng cổ đông và các nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông; Cổ đông hoặc nhóm cổ sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty có quyền: - Xem xét và trích lục sổ biên bản và các nghị quyết của Hội đồng quản trị, báo cáo tài chính giữa và hàng năm theo mẫu của hệ thống kế toán Việt Nam và các báo cáo Ban kiểm soát; Ngoài ra, cổ đông còn có quyền kiểm tra, tra cứu, trích lục và sao danh sách cổ đông có quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông. Người quản lý công ty phải cung cấp kịp thời thông tin sổ đăng ký cổ đông, sửa đổi, bổ sung thông tin sai lệch theo yêu cầu của cổ đông, đồng thời chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh do không cung cấp hoặc cung cấp không kịp thời, không 34
  35. chính xác thông tin sổ đăng ký cổ đông theo yêu cầu. Người triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông phải chuẩn bị chương trình, nội dung cuộc họp. Người triệu tập họp phải gửi thông báo mời họp đến tất cả các cổ đông có trong danh sách cổ đông có quyền dự họp chậm nhất 10 ngày trước ngày khai mạc nếu Điều lệ công không quy định dài hơn. Thông báo mời họp phải gửi kèm các tài liệu sau: Chương trình họp, các tài liệu sử dụng trong cuộc họp và dự thảo nghị quyết đối với từng vấn đề trong chương trình họp. Đây là một quyền quan trọng đối với cổ đông nhỏ lẻ, nhưng thường không được cổ đông áp dụng. Theo cuốn Cẩm nang quản trị công ty do Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) thực hiện, “quyền xem xét, tra cứu danh sách cổ đông cho phép cổ đông cơ hội liên hệ với các cổ đông khác và kết hợp quyền biểu quyết cho các vấn đề cần có hành động tập thể”. Như vậy, quyền này cho phép các cổ đông có danh sách cổ đông của toàn công ty, để từ đó cổ đông nhỏ lẻ có thể tập hợp lại, trao đổi thông tin và gom cổ phiếu để cùng hành động. d, Quyền khởi kiện của cổ đông Một số vi phạm liên quan đến quyền cổ đông được xem là những tranh chấp kinh doanh thương mại thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Theo đó, Bộ luật Tố tụng dân sự đã nêu: “Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty” [22, Điều 30] sẽ do toà án giải quyết. Quy định này chủ yếu thể hiện dưới dạng quyền của các chủ thể, bằng cách các chủ thể có thể khởi kiện yêu cầu toà án bảo vệ quyền của mình. 35
  36. Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã có cải tiến phù hợp các thông lệ quốc tế, sửa đổi theo hướng đơn giản hóa và tạo thuận lợi hơn cho các cổ đông giám sát, khi phát hiện vi phạm sẽ tự quyết định việc khởi kiện người quản lý. Quy định chi tiết hơn về bổn phận người quản lý công ty; luật hóa và đơn giản hóa trình tự, thủ tục khởi kiện người quản lý nhằm tạo thuận lợi hơn cho cổ đông theo dõi, giám sát và khởi kiện người quản lý khi cần thiết. Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 1% số cổ phần phổ thông liên tục trong thời hạn 06 tháng có quyền tự mình hoặc nhân danh công ty khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc khi thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 161. So với Luật Doanh nghiệp năm 2005, trình tự khởi kiện người quản lý của cổ đông đã được đơn giản hóa và tạo thuận lợi hơn cho các cổ đông. Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, thủ tục khởi kiện phức tạp và không hiệu quả vì quy định đặt ra điều kiện cổ đông, nhóm cổ đông chỉ được khởi kiện người quản lý, Giám đốc/Tổng giám đốc nếu Ban kiểm soát không khởi kiện theo yêu cầu của cổ đông/nhóm cổ đông. Tức là, cổ đông không trực tiếp khởi kiện người quản lý mà phải thông qua Ban kiểm soát, sau đó nếu Ban kiểm soát không đáp ứng được yêu cầu của cổ đông thì mới thực hiện khởi kiện. Đây được xem là rào cản, gây chậm trễ cho cổ đông trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Với quy định hiện hành, cổ đông có quyền tự mình hoặc nhân danh công ty khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc mà không cần phải qua Ban kiểm soát của công ty nữa. Chi phí khởi kiện trong trường hợp cổ đông, nhóm cổ đông khởi kiện nhân danh công ty sẽ tính vào chi phí của công ty. Ngoài ra, theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Đại hội đồng cổ đông cũng có quyền “xem xét và xử lý các vi phạm của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát gây thiệt hại cho công ty và cổ đông công ty”. Đại hội đồng cổ 36
  37. đông không có quyền áp dụng pháp luật nhưng họ có quyền xem xét và xử lý nếu Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát làm thiệt hại đến quyền, lợi ích của các cổ đông. Nếu việc xử lý không thể dẫn đến một kết quả tốt, khôi phục các thiệt hại về quyền, lợi ích của các cổ đông, các cổ đông có thể thực hiện quyền khởi kiện ở toà án với tư cách là tranh chấp kinh tế giữa công ty với thành viên công ty theo Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. 2.1.1.2. Quyền của cổ đông ưu đãi Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì có các loại cổ phần ưu đãi là cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi hoàn lại, cổ phần ưu đãi cổ tức và cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định. Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi sẽ trở thành cổ đông ưu đãi của công ty. Như vậy, có bao nhiêu loại cổ phần ưu đãi thì sẽ tương ứng có bấy nhiêu loại cổ đông ưu đãi. Khi sở hữu cổ phần ưu đãi, bên cạnh một số quyền như cổ đông phổ thông, cổ đông ưu đãi sẽ được pháp luật trao cho một số quyền khác, đồng thời cũng hạn chế một số quyền của họ như quyền biểu quyết, quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông. Tùy vào việc sở hữu loại cổ phần ưu đãi nào mà cổ đông có các quyền, lợi ích khác nhau. - Cổ đông ưu đãi biểu quyết: Chỉ có tổ chức được Chính phủ ủy quyền và cổ đông sáng lập mới được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết. Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết có các quyền biểu quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông với số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông. Tuy nhiên, cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác trong thời hạn 03 năm kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh [19, Điều 116]. - Cổ đông ưu đãi hoàn lại: Là cổ đông sở hữu cổ phần ưu đâi hoàn lại, theo đó cổ đông ưu đãi hoàn lại có quyền yêu cầu công ty hoàn lại vốn góp, nếu công ty phá sản hoặc giải thể thì có quyền nhận lại phần vốn góp trước các 37
  38. loại cổ đông khác trong công ty. Tuy nhiên, cổ đông ưu đãi hoàn lại không có quyền tham dự họp Đại hội đồng cổ đông, không có quyền biểu quyết, đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát [19, Điều 117]. - Cổ đông ưu đãi cổ tức: Là cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp, cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức sẽ được nhận mức cổ tức cao hơn so với mức cổ tức của cổ đông phổ thông hoặc mức ổn định hằng năm. Cổ tức được chia hàng năm gồm cổ tức thưởng và cổ tức cố định, cổ tức cố định không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty. Ngoài ra, cổ đông ưu đãi cổ tức còn có quyền nhận phần tài sản còn lại tương ứng với tỷ lệ sở hữu cổ phần tại công ty, sau khi công ty đã thanh toán hết các khoản nợ, cổ phần ưu đãi hoàn lại khi công ty giải thể hoặc phá sản. Do có nhiều quyền ưu tiên được hưởng nên cổ đông ưu đãi cổ tức cũng bị hạn chế một số quyền như không có quyền biểu quyết, dự họp Đại hội đồng cổ đông, đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát [19, Điều 118]. Do khi sở hữu cổ phần ưu đãi cổ đông sẽ được hưởng những quyền lợi cao hơn so với cổ đông phổ thông nên để đảm bảo hoạt động kinh doanh công ty hiệu quả, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông, tránh các giao dịch tư lợi mà Luật Doanh nghiệp đã hạn chế một số quyền của cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi. Cổ đông ưu đãi cổ tức hay cổ đông ưu đãi hoàn lại họ bị hạn chế một số quyền liên quan đến hoạt động quản lý công ty. Bởi dù, công ty hoạt động kinh doanh có lãi hay thua lỗ thì họ vẫn nhận được cổ tức (cổ đông ưu đãi cổ tức) hay có thể rút vốn ra khỏi công ty khi đưa ra yêu cầu hay theo các điều kiện được ghi tạo cổ phiếu ưu đãi (cổ đông ưu đãi hoàn lại) nên những cổ đông này có thể đề cử những người chưa thực sự có năng lực vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát, hay biểu quyết thông qua những quyết định chưa thực sự hiệu quả cho công ty, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty, quyền lợi của các cổ đông khác. 38
  39. 2.1.2. Nghĩa vụ của cổ đông Luật Doanh nghiệp có quy định “mỗi cổ phần của cùng một loại đều tạo cho người sở hữu nó các quyền, nghĩa vụ và lợi ích ngang nhau”[19, Điều 113]. Như vậy, ngoài các quyền được hưởng, họ cũng có những nghĩa vụ nhất định đối với công ty. Trước hết là nghĩa vụ góp đủ, đúng số lượng vốn cam kết góp vào công ty. Khi góp vốn vào công ty, cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tà sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp. Ngoài nghĩa vụ đóng góp, Điều 115 Luật Doanh nghiệp năm 2014 còn quy định các nghĩa vụ khác của cổ đông, cụ thể như sau: - Thanh toán đủ và đúng thời hạn số cổ phần cam kết mua. - Tuân thủ Điều lệ và quy chế quản lý nội bộ của công ty. - Chấp hành nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị. - Thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty. Những nghĩa vụ trên không chỉ áp dụng với cổ đông phổ thông mà được áp dụng đối với tất cả các cổ đông sở hữu các loại cổ phần khác nhau trong công ty cổ phần. Trong các nghĩa vụ nêu trên, việc cổ đông phải có nghĩa vụ “Thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty” là một quy định mở. Theo đó: - Với cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết, ưu đãi hoàn lại và cổ phần ưu đãi khác do điều lệ công ty quy định ngoài quyền được hưởng từ loại cổ phần mà họ nắm giữ ra thì cồ đông đó không có quyền biểu quyết, không có quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông, không có quyền đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát; - Với cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác. Với cổ đông sáng lập thì hạn chế trên là 39
  40. 03 năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trong thời hạn đó, cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ đông sáng lập khác và chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông. Trường hợp này, cổ đông dự định chuyển nhượng cổ phần không có quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng các cổ phần đó. Sau thời hạn 03 năm, cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập được chuyển thành cổ phần phổ thông và họ có quyền tự do chuyển nhượng cho người khác; - Với cổ đông sáng lập nắm giữ cổ phần phổ thông thì trong 03 năm đầu kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán tại thời điểm đăng ký kinh doanh; - Trường hợp việc thanh toán cổ phần mua lại trái với quy định tại khoản 1 Điều 131 hoặc trả cổ tức trái với quy định tại Điều 132 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì các cổ đông phải hoàn trả cho công ty số tiền, tài sản khác đã nhận; trường hợp cổ đông không hoàn trả được cho công ty thì tất cả thành viên Hội đồng quản trị phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi giá trị số tiền, tài sản đã trả cho cổ đông mà chưa được hoàn lại. Ngoài các nghĩa vụ trên, nếu Điều lệ công ty quy định các nghĩa vụ khác của cổ đông không trái với đạo đức và quy định pháp luật như: nghĩa vụ trung thành với chiến lược kinh doanh của công ty, phải giữ bí mật kinh doanh, không được phép thành lập doanh nghiệp để cạnh tranh với chính ngành nghề kinh doanh của công ty, thì cổ đông có nghĩa vụ tuân thủ nghiêm túc các quy định này. 40
  41. 2.2. Thực trạng áp dụng quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty cổ phần 2.2.1. Thực tiễn áp dụng quy định về quyền và nghĩa vụ của cổ đông Thứ nhất, Quyền tham dự và biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông: Luật Doanh nghiệp quy định rất rõ ràng tất cả các cổ đông phổ thông có quyền tham dự và biểu quyết mọi vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. Mỗi một cổ phần phổ thông có một phiếu biểu quyết. Như vậy, về nguyên tắc đã là cổ đông nắm giữ cổ phần của công ty dù ít hay nhiều đều có quyền ngang nhau về việc tham dự và biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông. Trên thực tế, hầu hết các công ty cổ phần đều không thực hiện triệt để nguyên tắc này. Lý do mà các công ty đưa ra đều không dựa trên cơ sở pháp lý cụ thể mà chỉ dựa trên ý chí của từng công ty để biện minh cho sự vi phạm của mình như do địa điểm tổ chức chật hẹp, không đủ diện tích cho tất cả các cổ đông của công ty tham gia dự họp. Trong thông báo về nội dung họp Hội đồng cổ đông năm 2007, công ty cổ phần Momota viện dẫn căn cứ theo Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông năm 2006 quy định: cổ đông sở hữu số cổ phần chiếm tỷ lệ từ 0,1% vốn điều lệ tương đương 12.000 cổ phần phổ thông được tham dự trực tiếp các kỳ họp Đại hội đồng cổ đông. Cổ đông sở hữu ít hơn 0,1% vốn điều lệ có thể tập hợp thành nhóm cổ đông nắm giữ bằng hoặc ít hơn 0,1% vốn điều lệ để cử người đi dự họp theo mẫu giấy ủy quyền. Tương tự, tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủy sản Hà Nội, cổ đông sở hữu 0,3% vốn điều lệ trở lên ( vốn điều lệ của công ty là 100 tỷ) tính đến thời điểm chốt danh sách cổ đông thì mới được tham dự Đại hội đồng cổ đông. Cổ đông sở hữu ít hơn 0,3% vốn điều lệ có thể ủy quyền bằng văn bản cho cổ đông hoặc người khác có đủ năng lực pháp lý và hành vi để đủ vốn sở hữu theo điều lệ công ty để tham dự Đại hội đồng cổ 41
  42. đông. Những trường hợp trên đã xâm phạm đến quyền tham dự, phát biểu và biểu quyết của cổ đông tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông [13, 42]. Thứ hai, Quyền thông tin của cổ đông: Phần lớn các cổ đông không được tiếp cận với các thông tin quan trọng của công ty hoặc được tiếp cận nhưng thông tin không đầy đủ, thiếu chính xác, trung thực. Các cổ đông nhỏ hầu như không được nhận thông tin về các nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông, tóm tắt báo cáo tài chính, thông báo về việc trả cổ tức mặc dù pháp luật quy định họ được quyền tiếp cận những thông tin đó. Cổ đông chỉ được tiếp cận thông tin ở mức độ rất khiêm tốn, không được xem sổ sách kế toán của công ty mà chỉ có thể nhận được báo cáo tài chính hằng năm với nội dung không rõ ràng, chưa phản ánh được trung thực tình trạng tài chính của công ty. Một loại tài liệu khác mà cổ đông có quyền được xem xét là các nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông, tuy nhiên quyết định đó cũng chỉ được thông báo cho cổ đông có quyền dự họp. Việc nắm bắt được đầy đủ, chính xác các thông tin liên quan đến tài chính, hoạt động quản lý của công ty sẽ tạo điều kiện cho các cổ đông nhỏ liên kết với nhau để phản đối các quyết định chưa đúng của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị khi những quyết định đó ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các cổ đông, cũng như ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty . Trường hợp Everpia năm 2014, nhờ nắm được danh sách cổ đông, mà cổ đông Red River Holding đã gửi thư cho tất cả cổ đông khác của Everpia để vận động bỏ phiếu phản đối tỷ lệ chia cổ tức thấp tại Công ty. Một trường hợp khác, trước Đại hội đồng cổ đông Vinamilk năm 2015, có một cuộc vận động ngầm trong giới cổ đông của Vinamilk để phản đối đề xuất của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước. Kết quả, 2 đề xuất của Tổng công ty 42
  43. Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước tại Đại hội đồng cổ đông Vinamilk năm đó đã không được thông qua. Trước đó, tại Đại hội đồng cổ đông năm 2014, nhiều cổ đông nhỏ đã gom phiếu đủ tỷ lệ 10% theo điều lệ công ty để đề cử bà Lê Thị Băng Tâm là thành viên Hội đồng quản trị độc lập của Vinamilk, đối trọng với 2 thành viên Hội đồng quản trị độc lập do Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước đề cử. Ngoài việc gom phiếu để đề cử, các cổ đông này còn vận động nhiều cổ đông khác bỏ phiếu cho bà Lê Thị Băng Tâm [3]. Tuy nhiên, như đã nói ở trên các thông tin mà cổ đông nhận được thường không đầy đủ, chính xác, trung thực ví dụ như trường hợp của cổ đông Công ty cổ phần Nhựa y tế (Mediplast). Ngày 5/5/2017, Mediplast bất ngờ tổ chức Đại hội đồng cổ đông bất thường để thông qua việc sáp nhập công ty vào Vinamed. Tuy nhiên, các lãnh đạo của Mediplast không công bố phương án sáp nhập cho cổ đông biết, chỉ công bố hợp đồng sáp nhập, thiếu công khai minh bạch, [5] Những điều này đã xâm phạm tới quyền và lợi ích của cổ đông trong công ty. Thứ ba, quyền ưu tiên đối với cổ phiếu mới phát hành Quyền ưu tiên mua đối với cổ phiếu mới phát hành bị vi phạm hoặc lạm dụng; và nó thường biểu hiện dưới một số hình thức sau đây. Một là, cổ đông đa số với vị thế chi phối của mình tại Đại hội đồng cổ đông đã bỏ phiếu ra nghị quyết phát hành thêm cổ phần mới theo phương thức phát hành nội bộ và dành cho mình quyền mua nhiều hơn so với các cổ đông khác. Hai là, phát hành dưới hình thức “ưu tiên cho người lao động”. Trong các Công ty cổ phần được chuyển đổi từ Doanh nghiệp nhà nước, thì phần lớn, thậm chí tất cả cổ đông đều là người lao động. Đại hội đồng cổ đông biểu quyết ưu tiên cho người lao động mua cổ phần cũng chính là ưu tiên cho mình, nhưng với tỷ lệ khác so với tỷ lệ sở hữu. Lúc này, những cổ đông đã làm việc lâu năm và thường là thành viên Hội đồng quản trị và những người quản lý khác được 43
  44. hưởng lợi nhiều hơn so với các cổ đông – người lao động khác. Ba là, hình thức lạm dụng cổ đông chiến lược. Cụ thể là, các cổ đông lớn trong công ty tự coi mình là cổ đông chiến lược và cố tình vận động các cổ đông khác coi mình là cổ đông chiến lược. Với vị thế lớn cổ đông lớn và với danh nghĩa là cổ động chiến lược, cổ đông này đã hợp pháp hóa nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông dành quyền ưu tiên mua cổ phần mới phát hành của công ty với tỷ lệ cao hơn và với mức giá thấp hơn nhiều so với các cổ đông bình thường khác. Những hiện tượng nói trên đã vi phạm nguyên tắc đối xử bình đẳng giữa các cổ đông cùng loại; là hành vi tước đoạt một phần giá trị tài sản của các cổ đông nhỏ; và đó cũng có thể coi là một hình thức tham ô giá trị tài sản của công ty. Thứ tư, quyền chuyển nhượng cổ phần Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần cho người khác trừ một số trường hợp quy định Khoản 3 Điều 119 và Khoản 1 Điều 126. Việc chỉ ghi nhận quyền chuyển nhượng cổ phần nhưng không đặt ra nghĩa vụ của công ty phải đăng ký kịp thời đã tạo ra rủi ro cho các bên giao dịch chuyển nhượng cổ phần, đặc biệt là bên nhận chuyển nhượng bởi quyền sở hữu của người này không được công ty bảo đảm. Hậu quả sâu xa hơn là các nhà đầu tư khó có thể biết chính xác là ai đang nắm giữ cổ phần. Đối với cổ đông nhỏ sẽ gặp phải khó khăn để biết được ai đang là người nắm giữ liên tục trong thời hạn ít nhất 6 tháng để cùng tập hợp lại thành những nhóm cổ đông nắm giữ trên 10% vốn điều lệ của công ty với mong muốn có được những kiến nghị trong cuộc họp Đại hội đồng cổ đông, triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông hay đề cử người vào Ban kiểm soát, Hội đồng quản trị để bảo vệ quyền lợi cho mình. Thứ năm, sự lạm quyền của cổ đông lớn: 44
  45. Cổ đông lớn (nhất là cổ đông nhà nước) đã lạm dụng quyền và thực thi quyền của mình chưa đúng với quy định của pháp luật như trực tiếp bổ nhiệm đại diện của mình làm thành viên Hội đồng quản trị, trực tiếp quyết định tăng vốn điều lệ hoặc điều chuyển, sử dụng tài sản của công ty phục vụ cho lợi ích riêng của mình hoặc cho công ty con khác; hoặc đã sử dụng vị thế là cổ đông lớn biểu quyết dành cho mình quyền mua nhiều hơn với giá ưu đãi khi công ty phát hành thêm cổ phần mới Cổ đông lớn trong Công ty Cổ phần Dịch vụ Sài Gòn - Savico (SCV) đã lạm dụng quyền hành của mình để mua cổ phiếu của công ty với giá ưu đãi. Công ty Cổ phần Dịch vụ Sài Gòn Savico đã cho lãnh đạo mua cổ phiếu ưu đãi với giá 30.000 đồng, trong khi đó giá thị trường là 118.000 đồng. Trong sự việc này, bên mua là lãnh đạo SCV đã hưởng lợi nhuận rất lớn, đồng thời phía chịu thiệt chính là những cổ đông nhỏ. Dù những cổ đông nhỏ đã phản đối, nhưng với ưu thế cổ đông nhà nước và cổ đông là nhân viên công ty chiếm đa số vốn điều lệ nên việc này vẫn được đa số thông qua. Tương tự như vậy, trong phương án tăng vốn điều lệ, Công ty Cổ phần vận tải xăng dầu cho phép cổ đông lớn mua với giá 15.000 đồng/cổ phiếu, còn cổ đông nhỏ lại phải mua với giá 40.000 đồng/cổ phiếu [1]. Thứ sáu, cổ đông sáng lập không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình Cổ đông sáng lập không góp đủ và đúng số cổ phần đăng ký mua là khá phổ biến. Có sự nhầm lẫn phổ biến giữa vốn điều lệ, số cổ phần tạo thành vốn điều lệ và số cổ phần được quyền phát hành. Vốn điều lệ là “tổng giá trị mệnh giá cổ phần đã bán hoặc đã được đăng ký mua khi thành lập doanh nghiệp đối với công ty cổ phần” [19, Điều 4]. Tuy vậy, trên thực tế ở một số lớn Công ty cổ phần ở nước ta, vốn điều lệ khai báo và đăng ký là giá trị danh nghĩa của cả số cổ phần đã bán và số cổ phần được quyền chào bán (nhưng chưa bán hay chưa phát hành). Thậm chí ở một số công ty số cổ phần đã phát hành chỉ 45
  46. chiếm một số rất nhỏ (khoảng 1/20) tổng số cổ phần đăng ký thành vốn điều lệ của công ty [13, 46]. Ngoài ra, còn có một số biểu hiện khác trong việc thực hiện chưa đúng các quy định về quyền của cổ đông như: (i) bỏ phiếu tại cuộc họp của Đại hội đồng cổ đông theo đầu người, chứ không theo sổ cổ phần sở hữu; (ii) Điều lệ của một số công ty đã quy định chỉ có những cổ đông với một mức sở hữu cổ phần nhất định mới được quyền trực tiếp tham dự họp và biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông, hay quy định hạn chế quyền tự do chuyển nhượng sổ chứng nhận sở hữu cổ phần; (iii) một số không nhỏ Công ty cổ phần không lập Sổ đăng ký cổ đông và không cấp cổ phiếu cho cổ đông Vi phạm nói trên đã tạo ra một số hệ quả không tốt đối với công ty, cổ đông của công ty và cả các bên có liên quan [2]. Thứ nhất, nó tạo ra một sự nhầm lẫn về sở hữu và cơ cấu sở hữu công ty; có thể có sự chênh lệch lớn giữa cơ cấu sở hữu theo cổ phần đã góp và cơ cấu sở hữu theo số cổ phần đăng ký góp. Và đó là nguyên nhân của không ít các tranh chấp, mâu thuẫn trong nội bộ cổ đông của công ty. Thứ hai, về bản chất, có thể coi số cổ phần đã đăng ký và chưa góp đó là số cổ phần mà cổ đông đã mua chịu của công ty. Bằng cách đó, công ty đã mất đi cơ hội huy động vốn cổ phần để phát triển. Điều này làm hại đến phát triển lâu dài của công ty và cả lợi ích âu dài của cổ đông. Thứ ba, gây nhầm lẫn có thể dẫn đến việc lừa dối làm hại đến lợi ích của bên thứ ba ít nhất trên 2 điểm. Điểm thứ nhất là, vốn điều lệ thực tế, đúng nghĩa và hợp pháp có thể thấp hơn nhiều so với vốn điều lệ đăng ký; điều này có thể gây nhầm lẫn đối với chủ nợ và các bên có quan tâm tìm hiểu về công ty; qua đó, có thể thiết lập giao dịch với công ty dựa trên thông tin không chính xác. Điểm thứ hai là, cổ đông hiện hữu chuyển nhượng “cổ phần” của mình cho người khác có thể chỉ là chuyển nhượng “quyền mua” cổ phần. Hay 46
  47. nói cách khác, người nhận chuyển nhượng cổ phần có thể hiểu nhầm, coi “quyền mua” cổ phần là cổ phần và đã trả giá chuyển nhượng cho quyền mua ngang bằng với thị giá của cổ phần. Tất cả những điều nói trên là vi phạm quy định của Luật Doanh nghiệp về việc yêu cầu cổ đông phải thanh toán đủ số cổ phần đăng ký mua và chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài chính khác của công ty trong phạm vi giá trị số cổ phần đã thanh toán. - Các cổ đông trong các công ty, kể cả một số công ty niêm yết có xu hướng thiên về lợi ích ngắn hạn của riêng mình mà không chú ý đúng mức đến lợi ích phát triển lâu dài của công ty và của chính họ. Xu hướng nói trên thể hiện trong một số hình thức sau đây. Một là, chia cổ tức bằng cổ phiếu, tính theo mệnh giá, chứ không phải là thị giá của cổ phiếu khi giá cổ phiếu của công ty đang tăng lên. Bằng cách này, trên thực tế, các cổ đông đã lấy đi một phần thặng dư vốn của công ty, một nguồn vốn hết sức cần thiết để phát triển. Ngoài ra, cách làm nói trên còn có thể làm giảm giá trị cổ phần của công ty theo hai cách: (i) “pha loãng” cổ phiếu công ty, tức là tăng cung về cổ phiếu công ty, và (i) làm suy giảm tiềm năng phát triển của công ty trong tương lai. Hai là, “cổ phần hóa” thặng dư vốn và phân phối số cổ phần đó cho cổ đông. Cách làm này về thực chất là công ty chia cổ phần cho các cổ đông; và thay vì phát hành cổ phần để huy động vốn, thì các cổ đông đã chia cổ phần đó cho nhau để chuyển nhượng cho người khác không chi thu lại vốn đã đầu tư mà cả phần thăng dư vốn đáng ra là thuộc sở hữu của công ty. Ba là, phát hành nội bộ theo mệnh giá, khi thị giá cổ phần của công ty cao hơn, thậm chí cao hơn nhiều so với mệnh giá của nó. Hệ quả của cách làm này tương tự như cách làm thứ nhất nói trên. Tóm lại, cổ đông của không ít các cổ phần đang có xu hướng chạy theo lợi ích ngắn hạn, đầu cơ trước mắt, hơn là chú ý tăng cường tiềm năng phát triển lâu dài của công ty để đảm báo lợi ích lâu dài và bền vừng của chính họ. 47
  48. 2.2.2. Việc xử lý vi phạm quyền và nghĩa vụ của cổ đông Trước hết, chúng ta nhận thấy nhiều cổ đông chưa nhận biết được quyền của mình nên ngay bản thân cổ đông không biết mình có bị vi phạm hay không các quyền của mình và như thế, càng không thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền can thiệp và áp dụng các biện pháp chế tài xử lý vi phạm được. Cũng có trường hợp cổ đông biết quyền bị vi phạm nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau để cổ đông không yêu cầu bảo vệ như ngại kiện tụng, ngại tốn kém thời gian, tiền bạc để yêu cầu bảo vệ quyền của mình. Thậm chí, cũng có trường hợp các cổ đông thực sự không am hiểu quyền cổ đông của mình và có những hành xử vi phạm pháp luật. Từ một góc nhìn khác, chúng ta lại thấy rằng, các Công ty cổ phần (thông qua những người quản trị công ty) lại không muốn thực hiện các nghĩa vụ nhằm đảm bảo quyền cổ đông, và đôi khi xâm hại đến các quyền đó. Song song đó, việc quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng chưa được sát sao, thủ tục để các cổ đông thực hiện các quyền yêu cầu đối với những vi phạm quyền cổ đông chưa đáp ứng với điều kiện kinh tế thị trường. Hiện nay, các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm các quyền cổ đông chủ yếu là Toà án, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền, Sở Kế hoạch và Đầu tư (Thanh tra kế hoạch và đầu tư, Thanh tra chuyên ngành), Uỷ ban chứng khoán nhà nước, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế và một số cơ quan có thẩm quyền khác. Với thẩm quyền của mình, các cơ quan có thẩm thực hiện thủ tục theo quy định của pháp luật và áp dụng các chế tài hành chính, chế tài dân sự, chế tài hình sự. Các tranh chấp liên quan đến các công ty chứng khoán có xử lý nhiều hơn, như trong năm 2011, Ủy ban chứng khoán nhà nước đã ban hành 164 quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các tổ chức và cá nhân với tổng số tiền thu nộp về ngân sách gần 11 tỷ đồng, cụ thể: Ủy ban chứng khoán nhà 48
  49. nước đã xử lý 63 trường hợp vi phạm các quy định về chào bán chứng khoán ra công chúng, chế độ báo cáo và công bố thông tin; xử lý 9 cá nhân có hành vi giao dịch giả tạo, thao túng thị trường. Ngoài ra, Ủy ban chứng khoán nhà nước cũng đã xử lý 47 trường hợp có hành vi thực hiện giao dịch chứng khoán không báo cáo của các cổ đông nội bộ công ty niêm yết; 11 trường hợp vi phạm quy định về chế độ báo cáo và công bố thông tin của công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ; kiên quyết làm rõ sai phạm và xử lý nghiêm đối với các Công ty niêm yết có hành vi vi phạm quy định về chế độ báo. Đặc biệt, là quy trách nhiệm pháp lý cụ thể tới từng cá nhân tại các công ty có vi phạm [24]. Việc xử lý vi phạm quyền cổ đông phổ thông ít được thực hiện có thể do một số nguyên nhân sau: Thứ nhất, thủ tục tố tụng theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại thường phức tạp, kéo dài. Nếu tính tương quan giữa thời gian, công sức bỏ ra theo đuổi vụ kiện và lợi ích từ kết quả của các vụ kiện là không nhiều, nhất là thiệt hại xâm hại đến quyền cổ đông không lớn. Thứ hai, xử lý các vi phạm liên quan đến quyền cổ đông phổ thông theo Nghị định 50/2016/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư còn chưa được quan tâm. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ít kiểm tra, thanh tra và tiến hành xử lý các vi phạm quyền cổ đông trong công ty cổ phần. Một mặt, họ không có đủ nhân lực cho việc thực hiện kiểm tra, xử lý vi phạm; mặc khác, cũng có yếu tố nể nang, cả nể trong việc xử lý và bản thân cổ đông không nhận thức được các quyền của mình có vi phạm hay không. Thứ ba, trường hợp Đại hội đồng cổ đông xem xét xử lý các vi phạm quyền cổ đông là khó xảy ra. Các vi phạm chủ yếu là do những cơ quan, 49
  50. người quản trị doanh nghiệp thực hiện. Họ lại là những người trực tiếp thực hiện những công việc liên quan đến nội dung, chương trình họp Đại hội cổ đông nên khả năng đưa vào chương trình cuộc họp là khó khả thi. Vì không ai muốn đưa ra cuộc họp nội dung công việc xử lý mà họ đã vi phạm. Thứ tư, còn một yếu tố rất quan trọng là sự thờ ơ của cổ đông đối với những quyền của mình bị vi phạm. KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Những quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty cổ phần nhìn chung đã có nhiều quy phạm tiến bộ, bước đầu đã có sự tương thích với thông lệ quốc tế và nguyên tắc về quản trị công ty của OECD; có sự bổ sung các quy định nhằm định hình cơ chế bảo vệ các quyền của cổ đông, trong đó có cổ đông thiểu số. Luật Doanh nghiệp năm 2014 cũng đã đổi mới phương thức tăng cường tạo thuận lợi cho cổ đông thực hiện quyền khởi kiện đối với người quản lý công ty khi cần thiết; trình tự, thủ tục khởi kiện đã rút gọn đơn giản hơn, khắc phục bất cập về chi phí cho các cổ đông công ty. Thực tiễn cho thấy việc quy định quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty cổ phần của Luật Doanh nghiệp năm 2014 vẫn chưa được thực thi và áp dụng một cách triệt để và hiệu quả trên thực tế. Cơ chế thực thi, giám sát chưa nghiêm và một phần cũng do chính các cổ đông không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Nền kinh tế nước ta đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, so với các nền kinh tế khác, nền kinh tế nước ta còn khá non trẻ. Từ khía cạnh lập pháp đến vận dụng và áp dụng pháp luật từ phía cơ quan nhà nước đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chính các doanh nghiệp và nhà đầu tư còn gặp nhiều lúng túng. Hệ thống cơ quan giám sát, tòa án cũng chưa có kinh nghiệm và chưa được trang bị các công cụ pháp lý một cách đầy đủ để giải quyết các 50
  51. tranh chấp, xung đột về quyền và nghĩa vụ của các bên một cách tốt nhất. Thói quen làm việc hay quản lý kinh doanh ở nước ta cũng còn dựa nhiều vào mối quan hệ quen biết, theo sự chỉ đạo. Pháp luật chưa được áp dụng một cách triệt để vào mọi hoạt động của nền kinh tế. Để có một nền kinh tế phát triển, một hệ thống quản trị vững mạnh, thu hút được sự quan tâm và tham gia của các nhà đầu tư đòi hỏi chúng ta phải thực hiện từng bước từ việc ban hành pháp luật, cơ chế áp dụng, giám sát và các thiết chế thực thi nhằm bảo vệ pháp luật, bảo vệ nhà đầu tư một cách hiệu quả nhất. Xây dựng hành lang pháp lý xuất phát từ quyền lợi thiết thực và chính đáng của các nhà đầu tư, khi ta bảo vệ được quyền lợi của họ, xây dựng một cơ chế kiểm soát, đảm bảo sự an toàn và có hiệu quả cho đồng vốn mà họ bỏ ra đầu tư thì họ sẽ yên tâm đầu tư. Khi doanh nghiệp phát triển thì nền kinh tế sẽ tăng trưởng và bền vững. Vì vậy, trong chương 3 tôi xin đưa ra một số giải pháp để góp phần hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty cổ phần, để cổ đông khi đầu tư vào công ty sẽ thực sự được hưởng những quyền lợi nhất định và có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ đối với công ty. Để làm được điều này không chỉ phải quy định chi tiết, cụ thể các quy định về quyền và nghĩa vụ mà còn phải nâng cao cơ chế kiểm tra, giám sát và có các biện pháp xử lý đối với những hành vi xâm phạm quyền của các cổ đông, hành vi trốn tránh trách nhiệm đối với công ty. 51
  52. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CỔ ĐÔNG Theo các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành, thì quyền và lợi ích hợp pháp của các cổ đông và nhóm các cổ đông nhỏ nói riêng trong công ty cổ phần chưa thực sự được bảo vệ. Cổ đông và nhóm cổ đông nhỏ gần như bị áp đảo hoàn toàn bởi các cổ đông lớn trong công ty cổ phần, khi có mâu thuẫn về lợi ích hay tranh chấp phát sinh thì các cổ đông nhỏ luôn chịu những bất lợi. Còn đối với cổ đông nói chung và cổ đông nhỏ nói riêng khi phát hiện những sai sót, gian lận trong quá trình điều hành của các cấp quản lý công ty đều có quyền khởi kiện. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật hiện hành chưa tạo những điều kiện thuận lợi nhất để cổ đông thực hiện quyền khởi kiện này của mình, trình tự thủ tục khởi kiện còn nhiều phức tạp, tốn kém rất nhiều về thời gian và tiền bạc của các cổ đông. Các quy định pháp luật về quyền của cổ đông trong công ty cổ phần chưa được thực hiện một cách đầy đủ và nghiêm túc. Nhiều công ty cổ phần tiến hành đại hội đồng cổ đông ở những nơi xa xôi, điều kiện đi lại khó khăn, thủ tục ủy quyền phức tạo nhằm hạn chế sự tham gia của các cổ đông, đặc biệt là cổ đông nhỏ. Qua đó có thể thấy, cổ đông nói chung và cổ đông nhỏ nói riêng đang bị hạn chế quyền của mình. Đối với nhiều trường hợp, cổ đông thậm chí còn hoàn toàn bất lực trong việc quản trị công ty cổ phần và phải tuân theo mọi quyết định của các cổ đông lớn và các nhà quản lý công ty cổ phần. Chính vì vậy, để cổ đông thực sự thực hiện được các quyền của mình, tôi xin đưa ra một số giải pháp góp phần hoàn thiện hơn quy định về quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty cổ phần cả về mặt pháp lý cho các cơ quan chức năng cũng như cho chính bản thân các công ty cổ phần ghi vào điều lệ công ty trong quá trình hoạt động kinh doanh nhằm giúp cho môi trường pháp lý kinh doanh thêm hiệu quả hơn. 52
  53. 3.1. Phương hướng hoàn thiện quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cổ đông Thứ nhất, thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, đúng đắn quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, đồng thời phải phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội nói chung và quản lý doanh nghiệp nói riêng, đảm bảo việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty cổ phần, nâng cao trách nhiệm quản lý, giám sát và xử phạt các hành vi vi phạm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thứ hai, xây dựng hành lang pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích của cổ đông Hệ thống pháp luật được xây dựng một cách đồng bộ, đầy đủ và hoàn thiện là cơ sở cho các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và nhà đầu tư nghiên cứu, áp dụng có hiệu quả. Hệ thống pháp luật được xây dựng trên nền kinh tế nội tại và sự rút kinh nghiệm từ các nền kinh tế trên thế giới. Tạo môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, phù hợp với nguyên tắc của WTO và các cam kết quốc tế khác. Tiếp cận, học hỏi các quy định trong Bộ nguyên tắc quản trị công ty của OECD, đảm bảo bình đẳng về quyền lợi giữa cổ đông là cá nhân với cổ đông là tổ chức, giữa cổ đông trong nước với cổ đông nước ngoài, giữa cổ đông lớn và cổ đông nhỏ. Qua đó, thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư tại Việt Nam, góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập, phát triển kinh tế quốc tế Thứ ba, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty cổ phần, chú trọng các vấn đề sau: - Đảm bảo các quyền cơ bản của cổ đông như quyền tiếp cận thông tin, chuyển nhượng cổ phần, thiết lập cơ chế để cổ đông thực thi quyền một cách có hiệu quả. 53
  54. - Định rõ các thể thức tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông, thủ tục ủy quyền biểu quyết, thủ tục lấy ý kiến cổ đông bằng văn bản để thông qua nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông. - Quy định các biện pháp nhằm giám sát giao dịch tư lợi, yêu cầu người quản lý công khai hóa các lợi ích nhằm chống các xung đột về quyền lợi. - Tăng thêm quy định yêu cầu công khai, minh bạch đối công ty cổ phần, tăng cường trách nhiệm của Ban kiểm soát. - Xây dựng cơ chế chuyển nhượng cổ phần thông thoáng hơn, bảo đảm quyền lợi của các cổ đông trong quá trình chuyển nhượng. 3.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đông Luật Doanh nghiệp năm 2014 là một trong những đạo luật đánh dấu sự quyết tâm cải cách pháp luật đối với doanh nghiệp của nhà nước ta, những thay đổi mang tính đột phá của luật là thể chế hóa đầy đủ quyền tự do kinh doanh theo Hiến pháp năm 2013. Tuy nhiên, vẫn còn những vấn đề còn tồn tại đang gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là việc thực hiện quyền của cổ đông trong công ty, cũng như bảo vệ lợi ích của cổ đông nhỏ trong công ty. Vì vây, tôi xin đưa ra một số giải pháp nhằm tháo gỡ, hoàn thiện và nâng cao cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty cổ phần. Thứ nhất, Khoản 1 Điều 126 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định về chuyển nhượng cổ phần, như sau: “Cổ phần được tự do chuyển nhượng, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 của Luật này và Điều lệ công ty có quy định hạn chế chuyển nhượng cổ phần. Trường hợp Điều lệ công ty có quy định hạn chế về chuyển nhượng cổ phần thì các quy định này chỉ có hiệu lực khi được nêu rõ trong cổ phiếu của cổ phần tương ứng.” 54
  55. Trong khi đó, tại khoản 1 Điều 120 về cổ phiếu của Luật này, quy định: “Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó”. Vì vậy, quy định hạn chế về chuyển nhượng cổ phần được nêu rõ trong cổ phiếu của cổ phần tương ứng thì chỉ phù hợp với trường hợp cổ phiếu là chứng chỉ, không phù hợp với trường hợp là bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử. Do vậy, quy định này có thể dẫn đến việc gây rủi ro lớn cho người nhận chuyển nhượng, vì không thể biết được cổ phần có bị hạn chế chuyển nhượng hay không. Do cổ phần được tự do chuyển nhượng, nên sau khi giao dịch xong, khi tiến hành làm thủ tục đăng ký vào sổ cổ đông thì mới biết bị hạn chế chuyển nhượng. Để chặt chẽ hơn, quy định này có thể viết lại theo hướng sau: Trường hợp chỉ ghi việc hạn chế việc chuyển nhượng trên cổ phiếu bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử thì không có giá trị pháp lý. Thứ hai, các quy định hiện hành đối với triệu tập Đại hội đồng cổ đông bất thường cũng cần phải sửa đổi. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Đại hội đồng cổ đông bất thường được triệu tập để giải quyết các công việc mang tính chất cấp bách không thể đợi đến Đại hội đồng cổ đông thường niên. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp quy định thẩm quyền triệu tập đại hội, điều kiện tiến hành họp, thể thức tiến hành họp, biểu quyết, thông qua quyết định của Đại hội của Đại hội đồng cổ đông bất thường cũng được quy định chung như Đại hội đồng cổ đông thường niên. Do vậy, khi thực hiện đã nảy sinh những điểm chưa hợp lý như: nhóm cổ đông thực hiện triệu tập Đại hội đồng cổ đông phải mất rất nhiều thời gian, chưa kể các lần Đại hội đồng cổ đông không hợp lệ do không đủ tỷ lệ cổ đông có quyền dự họp, v.v trong việc tiếp cận danh sách cổ đông để thực hiện việc triệu tập Đại hội. Tình trạng cổ đông không được tiếp cận đầy đủ các tài liệu họp là phổ biến. Thậm chí, thông báo mời họp chỉ bao gồm các chỉ dẫn về địa điểm, thời gian mà không đính kèm các tài liệu khác như Báo cáo thường niên, trình tự, thủ tục triệu tập và biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông Trường hợp các tài liệu có được 55
  56. đăng trên trang web của công ty thì nhiều khi cũng không dễ dàng tải về được và hầu hết không có phiên bản tiếng Anh, điều này đặc biệt gây khó khăn cho các cổ đông là người nước ngoài. Vì vậy, Luật Doanh nghiệp cần cụ thể hóa các quy định liên quan đến quy trình triệu tập Đại hội đồng cổ đông bất thường theo hướng đơn giản hơn so với Đại hội đồng cổ đông thường niên. Đồng thời, pháp luật phải tăng cường các chế tài đủ mạnh để ngăn chặn tình trạng bất hợp tác hay che giấu thông tin cổ đông của các công ty đang diễn ra khá phổ biến hiện nay. Thứ ba, quy tắc bầu dồn phiếu quy định tại khoản 3 Điều 144 Luật Doanh nghiệp năm 2014 với mục đích là bảo đảm cổ đông nhỏ cũng có thể có cử người của mình tham gia hội đồng quản trị nhằm làm cho quản trị điều hành được minh bạch là chưa hiệu quả. Lúc này, cổ đông hay nhóm cổ đông nhỏ phải dồn tất cả phiếu biểu quyết của mình mới cử được một người vào làm thành viên hội đồng quản trị nhưng ngay lập tức có thể bị nhóm cổ đông lớn bãi miễn, kể cả khi nhóm cổ đông nhỏ phản đối việc bãi miễn này. Cần sửa đổi theo hướng bảo vệ cổ đông nhỏ, việc bãi miễn thành viên hội đồng quản trị phải có cơ sở, điều kiện và lý do rõ ràng chứ không cho phép thành viên hội đồng quản trị có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào theo nghị quyết của đại hội đồng cổ đông được để tránh tình trạng bãi miễn tùy tiện. Các quy định của pháp luật hiện hành còn chưa bảo vệ được những cổ đông nhỏ, những cổ đông mà luôn chịu sự chèn ép của những nhà quản lý và những cổ đông lớn trong công ty cổ phần. Điều này sẽ gây ra cho các cổ đông nhỏ một sự thiệt thòi về mặt lợi ích, những cổ đông này gần như tất cả phải phụ thuộc vào ban lãnh đạo và những cổ đông lớn trong công ty cổ phần, hoàn toàn không thể quyết định được các vấn đề trong chính công ty mà mình đồng sở hữu. Đây cũng là vấn đề cấp thiết đặt ra trong quá trình tiếp tục hoàn thiện Luật Doanh nghiệp với những quy định chặt chẽ hơn nữa theo định hướng nâng cao quyền của cổ đông, đảm bảo cổ đông nhỏ không bị lấn át trong tổ chức công ty cổ phần. 56
  57. Thứ ba, để quy định của Luật Doanh nghiệp về quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty cổ phần được thực hiện đồng bộ và thống nhất thì đòi hỏi môi trường pháp luật kinh tế, pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán, pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, pháp luật về phá sản, pháp luật về tài chính, cần phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, ban hành một cách đồng bộ, thống nhất với Luật Doanh nghiệp năm 2014 nhằm tạo môi trường kinh doanh trở nên thông thoáng hơn, thu hút nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, đồng thời tạo cơ sở pháp lý giúp nhà đầu tư là cổ đông bảo vệ được quyền và lợi ích của mình khi đầu tư vốn vào công ty cổ phần nói chung và vào nền kinh tế Việt Nam nói chung. Thứ tư, Luật Doanh nghiệp cần phải quy định rõ số vốn tối thiểu để công ty bắt đầu hoạt động nhằm bảo đảm quyền lợi cho các cổ đông, để cổ đông có thể yên tâm khi đầu tư vào công ty. Nghị định 58/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán thì số vốn tối thiểu đối để công ty cổ phần đại chúng được niêm yết trên sàn HNX ít nhất là 30 tỷ đồng, còn sàn HOSE ít nhất là 120 tỷ đồng. Theo đó, cần quy định rõ ràng số vốn tối thiểu để công ty bắt đầu hoạt động được ghi vào điều lệ công ty. Điều này sẽ góp phần giải thích được sự khác nhau giữa việc công ty muốn huy động vốn thì đó bổ sung cho đủ vốn điều lệ đã đăng ký hay là tăng vốn điều lệ. Thứ năm, xây dựng hệ thống chế tài phù hợp, mức chế tài phải hợp sức run đe, bên cạnh đó, chủ thể vi phạm quyền cổ đông còn phải chịu chế tài hành chính hoặc chế tài hình sự. Đại đa số các doanh nghiệp đều vi phạm các quy định về quản trị công ty, trong nhiều trường hợp, những sai phạm này chỉ sai về hình thức do chưa làm chuẩn theo trình tự hướng dẫn của thủ tục pháp lý, nhưng cũng có không ít trường hợp là những sai phạm do cố ý. Thế nhưng chế tài để xử lý sai phạm trong lĩnh vực này dường như chưa đủ mạnh. Theo quy định tại Nghị định 145/2016/NĐ-CP ngày 1/11/2016 sửa đổi, bổ sung 57
  58. một số điều của Nghị định số 108/2013/NĐ-CP ngày 23/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, mức phạt với các hành vi vi phạm về quản trị công ty đại chúng tối đa là 100 triệu đồng với các lỗi về quyền của cổ đông, bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, triệu tập, họp và thông qua Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông, quyết định của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát. Các lỗi về cung cấp thông tin cho cổ đông, Ban kiểm soát có mức phạt từ 30 - 50 triệu đồng [10]. Với mức phạt này, tính răn đe đối với doanh nghiệp, các cá nhân vi phạm là không lớn. Trong khi đó những hậu quả xảy ra, bao gồm ảnh hưởng đến quyền lợi nhà đầu tư do tiếp cận thông tin không đầy đủ lại không hề nhỏ, thậm chí còn ảnh hưởng đến uy tín của công ty. Thứ sáu, nâng cao ý thức pháp luật của các cổ đông. Hiện nay, nhiều cổ đồng nhỏ đã tự hạn chế những quyền lợi của chính họ. Tại không ít công ty cổ phần đại chúng, phần lớn các cổ đông nhỏ không có điều kiện thực hiện đầy đủ các quyền cổ đông, thậm chí không bao giờ nghiên cứu Điều lệ công ty mà mình nắm giữ cổ phần. Họ không tham dự Đại hội đồng cổ đông vì cho rằng ý kiến của mình không giải quyết được điều gì, không nắm được thông tin cần thiết nên không có khả năng tham gia quản lý, quyết định các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp. Chính vì vậy, cần phải tuyên truyền, phổ biến nâng cao ý thức pháp luật của cổ đông. Tuy nhiên việc thực hiện vận động, tuyên truyền nâng cao ý thức về các quyền của cổ đông phải được thực hiện dựa trên nguyên tắc xuất phát từ mong muốn của các cổ đông. Cho nên, việc vận động tuyên truyền quyền cổ đông được thực hiện ở những địa chỉ nhất định, hình thức phù hợp làm sao có thể đáp ứng được những cổ đông quan tâm, làm cơ sở để những cổ đông khi cần có thể tìm hiểu quyền của mình. Cổ đông có thể thực hiện quyền cổ đông thông qua việc tham dự hội nghị Đại hội đồng cổ đông, đề xuất chương trình hành động tại hội nghị cổ đông, bầu ban lãnh đạo, thực hiện các hành vi pháp lý như nộp hồ sơ kiện dân sự. Cổ đông cần nghiên 58
  59. cứu quyền và nghĩa vụ của mình trước khi tham gia vào công ty. Trong công ty cổ phần quyền và nghĩa vụ của các cổ đông, quyền và nghĩa vụ của các cơ quan quản lý, giám sát công ty đều được quy định cụ thể trong Điều lệ công ty và các bản thoả thuận nội bộ. Các cổ đông nhỏ muốn bảo vệ mình trước hết phải biết được khi mình tham gia vào công ty này hay công ty khác thì mình phải thực hiện những nghĩa vụ gì và được những quyền lợi gì, nếu vi phạm các nghĩa vụ của cổ đông do công ty nếu ra thì mình bị thiệt hại như thế nào, ngược lại nếu công ty vi phạm những quyền lợi của mình thì mình có thể kiện ai, ai có thẩm quyền giải quyết quyền lợi cho mình và giải quyết như thế nào. Nếu nắm rõ được các vấn đề này thì các cổ đông nhỏ sẽ có đủ cơ sở xác định xem liệu mình có nên bỏ vốn đầu tư vào công ty hay không [13, 82-83]. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Luật Doanh nghiệp năm 2014 ra đời tạo khuôn khổ pháp lý đảm bảo quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty cổ phần. Tuy nhiên, các quy định của Luật Doanh nghiệp vẫn còn một số điểm hạn chế cần phải được khắc phục. Bên cạnh đó, việc áp dụng các quy định này vào thực tiễn cũng còn nhiều khó khăn. Chính vì vây, tôi xin đưa ra một số giải pháp để góp phần hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty cổ phần nói riêng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam nói chung. Việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ cổ đông trong công ty cổ phần cần đặt trong tổng thể hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam, phù hợp với hệ thống pháp luật chuyên ngành. Hệ thống pháp luật được xây dựng một cách đồng bộ, đầy đủ và hoàn thiện chính là cơ sở cho các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và nhà đầu tư nghiên cứu, áp dụng có hiệu quả. Hệ thống pháp luật được xây dựng dựa trên nền kinh tế nội tại và sự rút kinh nghiệm từ các nền kinh tế trên thế giới. Các giải pháp mà tôi đưa ra chủ yếu tập trung giải quyết các vấn đề liên quan đến việc chuyển nhượng cổ phần, triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông, về số vốn tối 59