Khóa luận Quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường, thực tiễn tại các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội

pdf 83 trang thiennha21 16/04/2022 4060
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường, thực tiễn tại các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_quy_dinh_phap_luat_viet_nam_ve_bao_ve_moi_truong_t.pdf

Nội dung text: Khóa luận Quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường, thực tiễn tại các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT  ĐÀO THỊ QUỲNH QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG, THỰC TIỄN TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH LUẬT KINH DOANH Hệ đào tạo : Chính quy Khóa học : QH-2012-L HÀ NỘI, 2016
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT  ĐÀO THỊ QUỲNH QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG, THỰC TIỄN TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH LUẬT KINH DOANH Hệ đào tạo : Chính quy Khóa học : QH-2012-L NGƯỜI HƯỚNG DẪN : TS. MAI HẢI ĐĂNG HÀ NỘI, 2016
  3. LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp “Quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường, thực tiễn tại các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội” là do em thực hiện dưới sự hướng dẫn của Thầy TS.Mai Hải Đăng. Các số liệu, ví dụ lấy từ các nguồn tài liệu đều được trích dẫn đầy đủ, trung thực và rõ ràng. Tài liệu tham khảo đều nêu rõ xuất xứ và được trích dẫn hợp pháp. Em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên. Hà Nội, ngày 6 tháng 5 năm 2016 Sinh viên Đào Thị Quỳnh
  4. LỜI CẢM ƠN Trải qua 4 năm học và rèn luyện tại Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội, tôi cảm thấy mình rất may mắn và vui vì được học tập tại ngôi trường này. Ngôi trường, nơi cho tôi quen nhiều bạn thân, trang bị cho tôi nhiều kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng cần thiết của một người học luật. Tất cả cũng nhờ rất nhiều vào công lao to lớn của các Thầy, Cô, những người đã và đang làm công tác giảng dạy tại khoa Luật, những người với đầy tâm huyết, với lòng yêu nghề và sự tận tâm giảng dạy, truyền đạt tri thức đến cho học trò. Được sự phân công của Bộ môn Luật Kinh doanh và sự đồng ý hướng dẫn của thầy giáo TS. Mai Hải Đăng, tôi đã thực hiện khóa luận tốt nghiệp của mình với đề tài “Quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường, thực tiễn tại các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội.” Để hoàn thành bài khóa luận, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các Thầy Cô cùng đội ngũ cán bộ công nhân viên chức tại Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo mọi điều kiện cho tôi học tập và nghiên cứu trong suốt quá trình học tập. Xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy TS Mai Hải Đăng, người thầy đã tận tình, chu đáo hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè, những người luôn sát cánh bên tôi, tin tưởng, ủng hộ tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện khóa luận này. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện khóa luận, nhưng do kiến thức, kinh nghiệm và thời gian bị hạn chế vì vậy, khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp của quý Thầy Cô cũng như của các bạn để khóa luận tốt nghiệp có thể hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 6 tháng 5 năm 2016 Sinh viên Đào Thị Quỳnh
  5. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BVMT Bảo vệ môi trường ĐTM Đánh giá tác động môi trường UBND Ủy ban nhân dân KCN Khu công nghiệp
  6. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT LỜI MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Tình hình nghiên cứu. 3 3. Mục đích nghiên cứu 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5 5. Phương pháp nghiên cứu 5 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 6 7. Kết cấu khóa luận 6 PHẦN NỘI DUNG 7 CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 7 1.1. Bảo vệ môi trường và sự cần thiết của pháp luật về bảo vệ môi trường. 7 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản. 7 1.1.2. Sự cần thiết phải điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động bảo vệ môi trường. 9 1.2. Nguồn của pháp luật về bảo vệ môi trường. 11 1.2.1. Điều ước quốc tế 13 1.2.2. Văn bản quy phạm pháp luật. 14 1.2.3. Tập quán quốc tế 15 1.2.4. Phong tục, tập quán Việt Nam. 15 1.2.5. Nguyên tắc chung của pháp luật 17 1.3. Khái quát chung về khu công nghiệp 18 1.3.1. Khái niệm. 18 1.3.2. Đặc điểm khu công nghiệp 19
  7. CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ THỰC TIỄN TẠI KHU CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 21 2.1. Quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường 21 2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường ở khu công nghiệp trong giai đoạn hiện nay 24 2.2.1. Quy định pháp luật về bảo vệ môi trường ở khu công nghiệp 24 2.2.2. Nội dung của pháp luật hiện hành về bảo vệ môi trường ở khu công nghiệp 27 2.3. Thực trạng ô nhiễm môi trường và công tác quản lý môi trường khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội 40 2.3.1. Thực trạng ô nhiễm môi trường khu công nghiệp 40 2.3.2. Công tác quản lý môi trường trên địa bàn thành phố Hà Nội 44 2.4. Đánh giá việc thực thi pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường ở khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay 49 2.4.1. Kết quả đạt được trong việc thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường ở khu công nghiệp 49 2.4.2. Một số tồn tại trong công tác bảo vệ môi trường ở khu công nghiệp 51 2.4.3. Nguyên nhân 54 CHƯƠNG III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 60 3.1. Sự cần thiết hoàn thiện quy định pháp luật về bảo vệ môi trường 60 3.2. Một số đề xuất hoàn thiện 62 3.2.1. Sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật về bảo vệ môi trường 62 3.2.2. Phát triển nguồn nhân lực trong công tác bảo vệ môi trường 67 3.3. Nâng cao hoạt động bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp 69 KẾT LUẬN 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  8. LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với xu hướng phát triển công nghiệp hóa - hiện đại hóa toàn cầu, Việt Nam đã không ngừng cố gắng phát triển về mọi mặt, đặc biệt là phát triển mạnh về kinh tế. Chính sự phát triển này đã tác động không nhỏ đến sự biến đổi của môi trường xung quanh. Những năm gần đây, ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí diễn ra ở nhiều khu vực; suy thoái; cháy rừng; hiệu ứng nhà kính; suy giảm tầng ôzôn; hay sự cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, quá trình biến đổi khí hậu vẫn đang diễn ra và một trong những tác nhân chủ yếu có thể gây ra những tác động đó, chính là hoạt động sản xuất ở các KCN, làng nghề. Bởi Việt Nam đang phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Có lẽ vậy, với tình hình phát triển kinh tế như ngày nay, môi trường càng phải chịu những tác động nặng nề bởi hoạt động ở các KCN. Gây chú ý nhất trong thời điểm này, đó là hiện tượng thực phẩm bẩn, thực phẩm giả tràn lan và hiện tượng cá chết hàng loạt ở sông tại tỉnh Thanh Hóa; ở các vùng biển miền Trung kéo dài từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên Huế, đang là một thách thức lớn đối với môi trường và cuộc sống của người dân. Đặc biệt là tại vùng biển Vũng Áng, tỉnh Hà Tĩnh có tới gần trăm tấn cá chết dạt vào bờ và ảnh hưởng vô cùng lớn đến hoạt động đánh bắt của người dân nơi đây. Tại cuộc họp bất thường của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã chỉ ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên có thể do độc tố có độc lực mạnh như sinh học, hóa học gây ra. Được biết vùng biển này nằm cách khu công nghiệp Formosa 1 km, mà trước đó Formosa vừa tiến hành sục rửa đường ống bằng các loại hóa chất độc hại. Và nhiều ngư dân ở đây cho rằng, việc xả thải ra môi trường của KCN Formosa là mối nghi vấn lớn gây ra hậu quả trên. Đến nay các cơ quan chức năng vẫn đang khắc phục hậu quả đồng thời tìm ra chủ thể xả ra các hóa chất độc hại đó để xử lý kịp thời. Hàng loạt các doanh nghiệp vì chạy theo lợi nhuận mà không quan tâm đến môi trường sống của người dân xung quanh, xả thải ra môi trường không đúng quy định pháp luật biến những dòng sông xanh trở thành những dòng sông 1
  9. chết. Ngay tại thủ đô Hà Nội, nơi tập trung nhiều KCN lớn, ô nhiễm môi trường đang ở mức báo động, từ ô nhiễm rác thải ở sông hồ đến báo động đỏ môi trường không khí và nguồn gây ô nhiễm lớn đó là chất thải từ các KCN. Và điều này ảnh hưởng vô cùng lớn đến đời sống, sức khỏe, tính mạng của người dân nơi đây. Một minh chứng rõ nhất cho những tác động của ô nhiễm môi trường đến quyền được sống trong môi trường trong lành của người dân đó là “làng ung thư” và không chỉ ảnh hưởng đến thế hệ hiện tại mà còn ảnh hưởng lớn đến thế hệ mai sau. Mặc dù theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 quy định được sống trong môi trường trong lành trở thành quyền con người. Ấy vậy mà tình trạng môi trường như ngày nay lại vô cùng ô nhiễm, tác động trực tiếp đến quyền con người. Để đảm bảo được quyền này thì hơn hết việc BVMT phải luôn được coi trọng. Và vấn đề bảo vệ môi trường công nghiệp cũng là một trong những yêu cầu hàng đầu trong thời buổi công nghiệp hóa-hiện đại hóa ngày nay. Vì vậy, một vấn đề tất yếu đặt ra là cần phải phân tích rõ hơn những quy định của pháp luật về BVMT để thấy được việc áp dụng pháp luật của các cá nhân, tổ chức trong giai đoạn hiện nay cũng như nguyên nhân dẫn đến việc môi trường bị ô nhiễm. Đồng thời thấy được các quy định pháp luật về BVMT bảo đảm như thế nào đối quyền con người được sống trong môi trường trong lành theo Hiến pháp năm 2013. Một trong những công cụ quan trọng trong việc BVMT luôn được Đảng và Nhà nước ta coi trọng đó là hệ thống pháp luật về BVMT. Do đó, Nhà nước luôn xây dựng, ban hành rất nhiều quy định pháp luật về BVMT, những quy định này với tính chất là cơ sở pháp lý, xác định rõ các quyền và nghĩa vụ về BVMT của các chủ thể cũng như là trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong việc BVMT. Đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lĩnh vực môi trường ở Việt Nam, đó là việc ban hành Luật BVMT năm 1993 và sau một thời gian thực hiện đã được thay thế bằng Luật BVMT năm 2005 đã xác định việc bảo vệ môi trường là trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân. Đến nay, sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành thì Quốc Hội đã thông qua Luật BVMT năm 2014. Riêng về vấn đề BVMT ở KCN cũng ngày càng được chú ý, hàng loạt các Thông tư, 2
  10. Nghị định về BVMT khu công nghiệp cũng đã được ban hành. Do đó, để hiểu rõ hơn các quy định mới trong lĩnh vực môi trường hiện nay cũng như nguyên nhân dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường thì việc nghiên cứu các quy định pháp luật Việt Nam về BVMT và việc áp dụng các quy định đó tại các KCN là điều cần thiết. Do vậy, tác giả chọn đề tài: “Quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường, thực tiễn tại các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp như một đóng góp nhỏ vào công trình nghiên cứu về vấn đề này. 2. Tình hình nghiên cứu. Vấn đề BVMT là một vấn đề khá rộng và đến ngày nay thì nó trở thành nên vô cùng quan trọng. Từ trước đến nay, có rất nhiều học giả nghiên cứu về vấn đề này với rất nhiều công trình, tiêu biểu như: Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ở Việt Nam (2013), Nguyễn Thị Tố Uyên, Luận văn Tiến sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội. Pháp luật về bảo vệ môi trường ở Việt Nam- Thực trạng và giải pháp (2011), Đinh Phượng Quỳnh, Luận văn thạc sĩ, Luật học, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội. Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường và các quy định về các tội phạm môi trường; công trình nghiên cứu của PGS, TS Đào Trí Úc, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội. Các công trình nghiên cứu đã làm rõ một số vấn đề về môi trường và hoạt động BVMT nói chung ở Việt Nam một cách toàn diện, tổng thể. Cũng có một vài công trình đã đi sâu hơn về các quy định pháp luật cũng như công tác BVMT ở từng lĩnh vực, khía cạnh cụ thể như trong lĩnh vực khai thác khoáng sản, làng nghề. Hầu hết các công trình nghiên cứu đều chỉ ra hiện trạng môi trường, những vấn đề bất cập và từ đó đề xuất một vài giải pháp khắc phục nhằm cải thiện môi trường. Riêng về vấn đề BVMT ở KCN cũng có một vài công trình đi sâu phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam. Cụ thể như: 3
  11. Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại và thực tiễn áp dụng trên địa bàn Hà Nội (2012), Lê Phương Linh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội. Bảo vệ môi trường tại các khu công nghiệp- Pháp luật và thực tiễn (2011), Lê Hoàng Vẹn Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Luật- Trường đại học Cần Thơ. Nghiên cứu đề xuất các biện pháp kiểm soát ô nhiễm môi trường khu công nghiệp Thụy Vân, Việt Trì, Phú Thọ (2012), Lưu Đình nghĩa, Trường đại học Bách Khoa Hà Nội Viết về vấn đề này, các tác giả cũng chỉ ra quy định pháp luật về công tác BVMT ở các KCN nói chung, phân tích các quy định pháp luật về nghĩa vụ của các chủ thể trong KCN. Nhưng ở mỗi công trình nghiên cứu chỉ tập trung nghiên cứu đến một khía cạnh, một mảng cụ thể, ví dụ như quy định về quản lý chất thải, đánh giá tác động môi trường mà chưa có tính khái quát và chưa đưa ra tổng thể các nghĩa vụ cũng như trách nhiệm BVMT ở các KCN, đặc biệt việc áp dụng các quy định đó ở các KCN tại Hà Nội. Hơn nữa, do sự thay đổi của điều kiện kinh tế, thực trạng môi trường, đặc biệt là các văn bản pháp luật mới được ban hành nên một số đề tài không còn phù hợp với tình hình pháp luật hiện hành. Chính vậy tác giả chọn đề tài “Quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường, thực tiễn tại các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội” mang ý nghĩa lý luận cho việc xây dựng và áp dụng pháp luật trong giai đoạn hiện nay. Vẽ ra một bức tranh tổng quát các quy định của pháp luật Việt Nam về BVMT đặc biệt là BVMT ở các KCN, điển hình ở Hà Nội. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích của đề tài nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về BVMT. Nghiên cứu 1 cách có hệ thống nhằm xem xét, phân tích, đánh giá nội dung các quy phạm pháp luật hiện hành về BVMT ở KCN. Khái quát được thực trạng môi trường KCN tại Hà Nội và việc áp dụng các quy định pháp luật về BVMT ở KCN tại Hà Nội. Qua đó chỉ ra được những bất cập, tồn tại trong các quy định pháp luật cũng như trong thực tiến áp dụng. 4
  12. Đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về BVMT ở KCN đồng thời nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường tại các KCN ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Với đề tài: “Quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường, thực tiễn tại các KCN trên địa bàn thành phố Hà Nội” có đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật Việt Nam về BVMT, đặc biệt là các quy định về BVMT ở KCN. Thực trạng áp dụng các quy định đó tại một số KCN ở Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu: Về không gian: Nghiên cứu trong phạm vi pháp luật Việt Nam về BVMT như Luật bảo vệ môi trường và một số các văn bản dưới luật như Thông tư, Nghị định quy định về vấn đề bảo vệ môi trường khu công nghiệp. Về thời gian: Khóa luận nghiên cứu pháp luật Việt Nam về BVMT và thực tiễn áp dụng tại các KCN trên địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. Về nội dung: Do kiến thức và trong khuôn khổ thời gian cho phép nên bài khóa luận tập trung vào nghiên cứu, phân tích một số nội dung cơ bản trong các quy định pháp luật Việt Nam về BVMT ở KCN như vấn đề quản lý chất thải, nước thải, khí thải, công tác đánh giá tác động môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường . Ngoài ra, bài khóa luận cũng hệ thống các quy định pháp luật Việt Nam về BVMT nói chung trong giai đoạn hiện nay và đánh giá thực trạng các quy phạm pháp luật cũng như việc thực thi các quy định đó trên thực tiễn tại các KCN trên địa bàn Hà Nội. Khảo sát kinh nghiệm của một số quốc gia và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về BVMT ở KCN. 5. Phương pháp nghiên cứu Bài khóa luận được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và nhà nước ta về bảo vệ môi trường. Bài viết sử dụng các 5
  13. phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, chứng minh Hay những phương pháp thực tế như phỏng vấn, khảo sát 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn Thứ nhất, khóa luận đã tổng quát được các quy định pháp luật về BVMT đồng thời khái quát được nội dung của các quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường khu công nghiệp. Thứ hai, cung cấp một số liệu cụ thể về tình hình môi trường KCN tại Hà Nội hiện nay và chất lượng môi trường sống của người dân khu vực. Thứ ba, qua việc chỉ ra được thực trạng môi trường cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về BVMT ở KCN tại thành phố Hà Nội, bài khóa luận cũng chỉ ra một vài bất cập trong các quy định pháp luật và đề xuất giải pháp khắc phục cũng như hoàn thiện pháp luật.Với những giải pháp đó, cũng có thể coi như một gợi ý, một ý kiến để xem xét cho những lần sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới; bảo đảm chất lượng môi trường được cải thiện và hòa nhập thế giới. Thứ tư, làm tài liệu tham khảo trong việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, bài tham luận cũng như làm cơ sở cho các bài nghiên cứu tương tự liên quan đến vấn đề BVMT. 7. Kết cấu khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các từ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, để đạt được mục tiêu phần nội dung của khóa luận bao gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lí luận liên quan đến pháp luật về bảo vệ môi trường. Chương 2: Quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường và thực tiễn tại khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội. Chương 3: Một số đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường. 6
  14. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 1.1. Bảo vệ môi trường và sự cần thiết của pháp luật về bảo vệ môi trường. 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản. 1.1.1.1. Môi trường: Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều những nhận định khác nhau về khái niệm môi trường. Các khái niệm về môi trường không hoàn toàn đồng nhất mà được thể hiện dưới nhiều phạm vi, khía cạnh khác nhau. Một số những định nghĩa hay được sử dụng trong các công trình nghiên cứu về môi trường như: “Môi trường là tập hợp các yếu tố vật lý, hóa học, sinh học, kinh tế - xã hội bao quanh và tác động tới đời sống và sự phát triển của một cá thể hoặc một cộng đồng người.” Theo quan điểm của UNEP – Chương trình môi trường của Liên hiệp quốc, 1980 1. “Môi trường là tất cả các hoàn cảnh bên ngoài tác động lên một cơ thể sinh vật hoặc một cơ thể nhất định đang sống, là mọi vật bên ngoài cơ thể nhất định.” – Theo G.Tyler Miler, Environmental Science, USA, 1988 [15, 3]. Hay theo định nghĩa của UNESCO (1981) “Môi trường bao gồm toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra, những cái hữu hình (đô thị, hồ chứa ) và những cái vô hình (tập quán, niềm tin, nghệ thuật ), trong đó con người sống bằng lao động của mình, họ khai thác các tài nguyên thiên nhiên và nhân tạo nhằm thoả mãn những nhu cầu của mình.”2 Có thể thấy môi trường dường như là một thứ vô hình mà không ai có thể xác định cụ thể được nó. Bởi vậy, nó là môt khái niệm khá rộng và đa dạng. Và tùy theo chức năng của môi trường thường có thể bao gồm môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và môi trường nhân tạo. Có thể hiểu: 1TS Lê Thị Thanh Mai, Giáo trình môi trường và con người, NXB Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh, trang 3. 2PGS.TS Nguyễn Thế Chinh, Giáo trình kinh tế và quản lý môi trường, NXB Trường Đại học kinh tế quốc dân, năm 2003, trang 17-18. 7
  15. Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố ở thiên nhiên như vật lý, hóa học, sinh học; là những thứ sẵn có, tồn tại ngoài ý muốn của con người và không phải do con người tạo ra nhưng lại chịu sự tác động của con người. Môi trường này cung cấp không khí, đất, tài nguyên, sinh thái phục vụ đời sống của con người. Môi trường xã hội đó là tổng thể các quan hệ giữa con người với con người, gắn kết với nhau tạo thành một tập thể con người ở các cấp khác nhau như quốc gia, tỉnh, huyện, xã Môi trường xã hội sẽ tạo cho con người một khuôn khổ sống, một nếp sống nhất định và ở đó có sự đoàn kết của tập thể người cho sự tồn tại và phát triển. Đối lập với môi trường tự nhiên là môi trường nhân tạo, nó không tồn tại một cách tự nhiên mà bao gồm các nhân tố do chính con người tạo ra, hình thành nên như những vật dụng phục vụ cho cuộc sống: các phương tiện giao thông, máy móc, nhà cửa Chính sự nhân tạo đó mà giúp cho cuộc sống của con người hoàn thiện, phong phú và phát triển hơn. Và còn rất nhiều sự phân loại về môi trường nhưng tùy theo khía cạnh, chức năng mà mỗi cá nhân lại đưa ra những cách hiểu khác nhau về môi trường. Dường như không có một khái niệm hoàn chỉnh nào bao quát chung các vấn đề trong môi trường, thể hiện hết được vai trò, ý nghĩa của môi trường. Nhưng tựu chung lại có thể thấy khái niệm môi trường được định nghĩa tại khoản 1, điều 3, Luật bảo vệ môi trường năm 2014 đã thể hiện được phần nào điều đó: “Môi trường là hệ thống các yếu tố vật chất, tự nhiên và nhân tạo có tác động đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật.” 1.1.1.2. Hoạt động bảo vệ môi trường. Từ thực tế tồn tại các yếu tố môi trường mà các nhà nghiên cứu đưa ra các định nghĩa khác nhau về môi trường, nhưng nhìn chung đều thể hiện mối liên hệ giữa môi trường và con người, sinh vật. Và để môi trường tồn tại như những gì vốn có của nó, chống lại những tác động do con người gây ra thì trong thời buổi ngày nay công tác bảo vệ môi trường là rất cần thiết. 8
  16. Theo Khoản 3, Điều 3, Luật BVMT năm 2014 quy định “hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ gìn, phòng ngừa, hạn chế các tác động xấu đến môi trường; ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, cải thiện, phục hồi môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên nhằm giữ môi trường trong lành.” Tóm lại, có thể hiểu đơn giản BVMT là những hoạt động nhằm giữ gìn môi trường trong lành, đảm bảo sức khỏe con người; sự đa dạng sinh học đồng thời sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên. Do đó, mà BVMT dần trở thành nghĩa vụ không chỉ của riêng một cá nhân, một tổ chức mà của tất cả mọi người, mọi quốc gia. Nhà nước luôn khuyến khích mọi người những hoạt động BVMT đã được cụ thể hóa trong Luật BVMT năm 2014, Luật quy định riêng một điều cụ thể về các hoạt động BVMT được khuyến khích và bên cạnh đó là các hành vi bị nghiêm cấm. Điều này giúp cho mọi người hiểu rõ hơn khái niệm về hoạt động BVMT, biết được những hành động nào là bảo vệ, là hủy hoại môi trường. 1.1.2. Sự cần thiết phải điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động bảo vệ môi trường. Việc sử dụng công cụ pháp luật để BVMT khu công nghiệp là tất yếu và phù hợp. BVMT có thể thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhưng không thể thiếu biện pháp pháp lý, bởi lẽ đây là công cụ hữu hiệu nhất trong việc điều chỉnh các hành vi của con người tác động vào môi trường. Nếu không có sự điều chỉnh của pháp luật thì công tác BVMT không thể đạt kết quả tốt. Vì vậy cần phải sử dụng pháp luật làm công cụ hàng đầu trong việc BVMT bởi: Thứ nhất, pháp luật là những quy tắc xử sự chung, mang tính bắt buộc. Pháp luật là do nhà nước ban hành và được bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội. Bởi tính đặc trưng của pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự chung, là khuôn mẫu, mô hình xử sự cho tất cả các chủ thể trong xã hội, điều chỉnh mọi hành vi của các chủ thể đó. Các quy định pháp luật là bắt buộc đối với tất cả mọi người, thể hiện ở chỗ: pháp luật quy định cá nhân, tổ chức được làm gì, phải làm gì và cấm những hành vi nào. Trước 9
  17. những quy định đó thì không một chủ thể nào được vi phạm, mọi người phải tuân thủ nghiêm ngặt, nếu vi phạm sẽ bị xử lý theo pháp luật. Vì vậy, khi pháp luật quy định BVMT là nghĩa vụ thì bắt buộc các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp phải thực hiện. Đặc điểm này của pháp luật góp phần làm cho công tác BVMT ở KCN đạt kết quả cao. Do đó, khi các biện pháp khác không thể điều chỉnh hành vi của con người thì pháp luật sẽ là công cụ bắt buộc họ phải tuân theo. Chính bởi tính bắt buộc mà các chính sách nhà nước đề ra trong việc BVMT mới được thực hiện triệt để, mới thúc đẩy sự tham gia của người dân và đồng thời cũng thay đổi được nhận thức của họ về việc bảo môi trường. Cũng bởi có sự điều chỉnh của pháp luật mà trước khi hành động mọi người luôn cân nhắc xem hành động này là những hành vi bị cấm hay không, điều này góp phần hoàn thiện hơn ý thức tuân thủ pháp luật của người dân. Thứ hai, pháp luật được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Pháp luật do nhà nước ban hành và nhà nước cũng là chủ thể đặc biệt của pháp luật. Không chỉ có tính bắt buộc mà pháp luật còn có tính cưỡng chế. Điều này thể hiện khi pháp luật đã có những quy định cụ thể mà bất kỳ ai vi phạm thì đều bị các cơ quan có thẩm quyền xử lí bằng các hình thức xử phạt cụ thể được quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật. Nếu như không chấp hành hình phạt theo quy định thì sẽ bị áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành. Điều này đảm bảo sự công bằng trong việc tuân thủ pháp luật. Và trong vấn đề bảo vệ môi trường cũng vậy, nếu như các chủ thể không tuân thủ đúng các quy định trong Luật bảo vệ môi trường năm 2014 và các văn bản pháp luật có nội dung liên quan đến vấn đề BVMT thì Nhà nước sẽ áp dụng một số biện pháp cưỡng chế để đảm bảo việc thi hành, ví dụ như phạt hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự cụ thể như đình chỉ hoạt động Điều này càng nhấn mạnh tính nghiêm khắc của pháp luật và buộc tất cả mọi người phải tuân thủ nghiêm ngặt, hạn chế và ngăn ngừa các hành vi vi phạm. Thứ ba, pháp luật mới bảo đảm và thúc đẩy quyền con người được sống trong môi trường trong lành. 10
  18. Quyền con người được sống trong môi trường trong lành đã được ghi nhận tại Điều 43, Hiến pháp 2013 quy định: “mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường.” Như vậy, quyền này đã trở thành một quyền độc lập và cơ bản của con người. Vì thế bất kỳ ai cũng phải tôn trọng và bảo đảm việc thực hiện quyền. Cơ sở để đảm bảo quyền đó chính là môi trường trong lành. Để có môi trường trong lành thì vấn đề bảo vệ môi trường là vô cùng quan trọng. Hơn nữa, quyền này đã được cụ thể hóa trong luật BVMT năm 2014, đã được thể hiện thành một nguyên tắc riêng. Ta có thể thấy, sự điều chỉnh của pháp luật về BVMT không những được coi là một biện pháp BVMT mà mục đích sâu xa đó là bảo đảm quyền con người được sống trong môi trường trong lành. Nếu như chỉ quy định quyền này trong Hiến pháp thì rất khó để thực hiện, vì vậy việc cụ thể hóa trong pháp luật về BVMT sẽ làm cơ sở để thực hiện tốt quyền này, mà không một biện pháp BVMT có thể làm tốt hơn. Và khi pháp luật điều chỉnh tốt vấn đề bảo vệ môi trường là gián tiếp bảo đảm, thúc đẩy quyền con người được sống trong môi trường trong lành. Đây chính là một trong những lý do mà cần sự điều chỉnh của pháp luật trong hoạt động BVMT. Trong thời buổi hiện nay, tình hình môi trường ngày càng diễn biến phức tạp: ô nhiễm, suy thoái ngày một nhiều và nghiêm trọng hơn; khắc phục tình trạng đó cũng rất khó khăn không chỉ vậy tranh chấp môi trường cũng ngày một tăng; do vậy, luôn cần sự điều chỉnh thống nhất của hệ thống pháp luật để giải quyết các tình trạng đó. 1.2. Nguồn của pháp luật về bảo vệ môi trường. Pháp luật là một phạm trù vừa mang tính giai cấp vừa thể hiện tính xã hội. Pháp luật là hệ thống những qui tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện. Pháp luật có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Trong lĩnh vực môi trường, pháp luật là cơ sở pháp lý làm chuẩn mực cho các hành vi của con người khi tác động vào môi trường. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp đến môi trường như hoạt động khai thác, quản 11
  19. lý, sử dụng tài nguyên; bảo vệ môi trường .Nó quy định các quy tắc xử sự mà con người phải thực hiện khi tác động vào môi trường. Những việc được làm và phải làm đối với công tác BVMT. Hay nói cách khác đó chính là nghĩa vụ của con người đối với môi trường. Và khi con người có những hành động làm ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái thì chính pháp luật lại là thước đo để xác định mức độ vi phạm, xử lý vi phạm và đồng thời ngăn chặn các hành vi đó. Pháp luật cũng trao quyền cho tổ chức, cá nhân trong việc sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên nhưng cũng quy định việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm nguồn tài nguyên đó. Như vậy, pháp luật về BVMT là hệ thống các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động khai thác, quản lý, sử dụng tài nguyên thiên nhiên cũng như bảo vệ, giữ gìn các thành phần môi trường, bảo đảm quyền con người được sống trong môi trường trong lành và sự phát triển của xã hội, góp phần BVMT toàn cầu. Mặc dù ra đời muộn hơn so với các lĩnh vực pháp luật khác, nhưng đến nay thì hệ thống pháp luật về môi trường cũng khá đồ sộ và phong phú. Nó được hình thành dựa trên các nguồn Luật chung, vừa đảm bảo sự phù hợp với thông lệ quốc tế vừa tạo ra sự hài hòa trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Nguồn của pháp luật là một trong những khái niệm cơ bản của lí luận nhà nước và pháp luật, cũng là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm của nhiều học giả. Do đó có khá nhiều quan điểm khác nhau, nhiều cách hiểu khác nhau về nguồn của pháp luật. Từ các cách hiểu khác nhau, dưới góc độ pháp lý và thực tiễn thì giáo trình lí luận chung nhà nước và pháp luật, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội có đưa ra một khái niệm chung nhất “nguồn pháp luật là những hình thức chính thức thể hiện các quy tắc bắt buộc chung được nhà nước thừa nhận có giá trị pháp lý để áp dụng vào việc giải quyết các sự việc trong thực tiễn pháp lý và là phương thức tồn tại trên thực tế của các quy phạm pháp luật.” Mặc dù hiện nay, vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, nhưng về cơ bản, nguồn của pháp luật về BVMT ở Việt Nam gồm: 12
  20. 1.2.1. Điều ước quốc tế Đây là một trong những nguồn cơ bản, quan trọng của pháp luật Việt Nam. Theo Khoản 1, Điều 2, Công ước Viên 1969 định nghĩa “Điều ước quốc tế là văn bản ghi nhận thỏa thuận của các chủ thể luật quốc tế và được luật quốc tế điều chỉnh, không phụ thuộc vào việc thỏa thuận được ghi nhận trong một văn kiện có quan hệ với nhau, cũng như không phụ thuộc vào tên gọi cụ thể của các văn kiện đó.” Có thể là các điều ước quốc tế song phương, đa phương, điều ước quốc tế có tính chất khu vực hoặc các điều ước quốc tế mang tính toàn cầu. Do đó, mà điều ước quốc tế thường có tên gọi khác nhau phụ thuộc một phần vào chủ thể ký kết ví dụ: các hiệp định, hiệp ước, công ước, nghị định thư Việc tham gia các điều ước quốc tế, Việt Nam đã chuyển hóa nội dung của nó thành các quy định trong các văn bản pháp luật, không chỉ vậy, cách thức giải quyết các vụ việc xảy ra trong thực tế cũng giúp cho Việt Nam có thể học hỏi và rút ra kinh nghiệm để sửa đổi, hoàn thành công tác tư pháp. Ngay tại Điều 759 bộ luật dân sự năm 2005 cũng quy định việc áp dụng điều ước quốc tế như sau: “Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Bộ luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.” Do vậy, có thể thấy đối với pháp luật quốc gia thì điều ước quốc tế ngày càng có vị trí quan trọng và cần thiết trong việc áp dụng trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay. Trong lĩnh vực môi trường, Việt Nam cũng đã tham gia nhiều công ước về bảo vệ môi trường như: Công ước liên quan đến bảo vệ các di sản văn hoá và tự nhiên ; Công ước về buôn bán quốc tế về các giống loài động thực vật có nguy cơ bị đe dọa, 1973; Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu biển (MARPOL 73/78); Công ước Khung của Liên Hợp Quốc về sự biến đổi môi trường, 1992 Việc tham gia các công ước này giúp cho Việt Nam có cái nhìn tổng quát hơn về vấn đề BVMT, hơn nữa cho Việt Nam nhiều phương pháp, cách thức BVMT như việc thu gom, vận chuyển, tái chế các chất thải; giữ gìn và sử 13
  21. dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn đa dạng sinh học và đặc biệt là sự hợp tác với các quốc gia trên thế giới cùng giữ gìn, bảo vệ môi trường toàn cầu. 1.2.2. Văn bản quy phạm pháp luật. Đây là nguồn pháp luật chính thức và quan trọng nhất, bởi lẽ, các cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam khi giải quyết các vụ việc pháp lý thực tế thuộc thẩm quyền của mình đều chủ yếu dựa vào các văn bản quy phạm pháp luật quốc gia. Theo đó, văn bản quy phạm pháp luật là hình thức thể hiện của các quy định pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành dưới một hình thức nhất định và chứa đựng các quy tắc xử sự chung nhằm điều chỉnh một loại quan hệ xã hội, được áp dụng nhiều lần trong thực tiễn đời sống. Việc thực hiện các quy phạm pháp luật trong văn bản đó không làm chấm dứt hiệu lực của nó. Do vậy, văn bản quy phạm pháp luật có ý nghĩa rất lớn trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội tạo thành một trật tự pháp lý thống nhất, hoàn chỉnh và phù hợp. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta gồm nhiều loại có giá trị pháp lý khác nhau, cao nhất là Hiến pháp, đạo luật cốt lõi, làm tư tưởng, nguồn gốc cho ra đời các văn bản pháp luật ở từng lĩnh vực như Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Luật hành chính do Quốc Hội ban hành, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Tiếp đó là hàng loạt các Nghị định của Chính Phủ, Thông tư của từng Bộ, Ngành. Các quy định được trình bày thành văn nên thống nhất, rõ ràng, cụ thể, đảm bảo dễ hiểu đối với tất cả các đối tượng. Nó là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để cơ quan có thẩm quyền áp dụng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Tuy nhiên văn bản pháp luật cũng có nhiều hạn chế, do vậy đây không phải là nguồn pháp luật duy nhất bởi cũng có nhiều khi các quy phạm pháp luật không phù hợp với điều kiện thực tế, nó mang tính khái quát cao nên khó khăn trong việc áp dụng hoặc cũng nhiều trường hợp thực tế xảy ra nhiều tình huống mà quy phạm pháp luật chưa có quy định điều chỉnh nó, cũng có khi lại chính những lỗ hổng, khoảng trống trong các quy định pháp luật. Để xây dựng và thông qua một bộ luật cụ thể cần rất nhiều thời gian và hơn hết nó phải được phổ biến rộng khắp thì mới đảm bảo hiệu lực thực thi. Do vậy, văn bản pháp luật quốc gia sẽ trở thành nguồn quan trọng của hệ thống pháp luật Việt Nam. 14
  22. 1.2.3. Tập quán quốc tế Là hình thức biểu hiện các nguyên tắc xử sự, được hình thành trong thực tiễn quan hệ quốc tế trong một thời gian nhất định và được các chủ thể của luật quốc tế thừa nhận có giá trị pháp lý ràng buộc với mình. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều coi tập quán quốc tế trở thành một nguồn của pháp luật và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Pháp luật Việt Nam hiện nay thừa nhận tập quán quốc tế là nguồn của pháp luật Việt Nam. Ví dụ trong lĩnh vực thương mại, pháp luật Việt Nam cũng thừa nhận và áp dụng các tập quán thương mại quốc tế; về vấn đề BVMT cũng vậy, như trong Tuyên bố Stockhom năm 1972 về các vấn đề môi trường cũng đưa ra các quy tắc và một số vụ việc giải quyết về tranh chấp môi trường hay xử lý vi phạm môi trường, Tòa Án cũng dẫn chiếu như một nguồn luật. Và việc áp dụng tập quán quốc tế cũng được cụ thể hóa trong Bộ luật dân sự năm 2005 có quy định: “Trong trường hợp quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài không được Bộ luật này, các văn bản pháp luật khác của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc hợp đồng dân sự giữa các bên điều chỉnh thì áp dụng tập quán quốc tế, nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.” 1.2.4. Phong tục, tập quán Việt Nam. Việt Nam- một đất nước giàu truyền thống dân tộc. Có những phong tục đã trở thành luật lệ, bắt buộc đối với nhiều nơi. Phong tục có thể hiểu là những hoạt động sống của con người, được hình thành trong suốt chiều dài lịch sử và ổn định thành nề nếp, được mọi thành viên trong cộng đồng thừa nhận và tự giác thực hiện có tính kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác trong cộng đồng nhất định. Còn tập quán được hiểu dựa trên những nét cơ bản là những phương thức ứng xử giữa người với người đã được định hình và được xem như một dấu ấn, một điểm nhấn tạo thành nề nếp, trật tự trong lối sống của cá nhân, trong quan hệ nhiều mặt tại một cộng đồng dân cư nhất định 3. 3 PGS.TS.Phùng Trung Tập, Phong tục, tập quán và áp dụng tập quán trong công tác xét xử án dân sự, Thời sự pháp luật, 15
  23. Phong tục, tập quán vừa có thể là nguồn nội dung, vừa là nguồn hình thức của pháp luật. Hiện nay, rất nhiều những phong tục, tập quán biến thể, lạc hậu nhiều người đã lợi dụng điều đó mà thực hiện những hành vi trái đạo đức. Ví dụ như số ít dân tộc thiểu số vẫn còn chịu ảnh hưởng bởi một vài tập quán lạc hậu như vẫn còn tình trạng chuồng nuôi nhốt gia súc ở dưới gầm nhà của nhiều gia đình vùng cao huyện Mường Khương; các dân tộc Mông, Dao, theo đó nước thải, phân gia súc, gia cầm ngập ngụa tràn ra đường. Chính tập quán chăn nuôi vậy gây ô nhiễm môi trường, nước thải từ chăn nuôi không qua xử lý xả thẳng ra sông suối, rác thải không được thu gom vất trực tiếp bừa bãi ra đường gây ô nhiễm đất, nước. Điều này ảnh hưởng vô cùng lớn đến sức khỏe và môi trường sống của người dân vùng cao. Những phong tục, tập quán trái với ý chí của nhà nước sẽ trở thành tiền đề để hình thành nên những quy phạm pháp luật thay thế chúng nhằm điều chỉnh, xóa bỏ nó ra khỏi đời sống xã hội. Vì vậy, mà có những quy định về quản lý, xử lý nước thải, chất thải đã được ban hành Cũng nhiều những phong tục, tập quán tiến bộ, tốt đẹp được nhà nước thừa nhận sẽ trở thành nguồn của pháp luật. Việc áp dụng phong tục, tập quán là một trong những biện pháp cần thiết để bảo vệ bản sắc văn hóa và chuẩn mực đạo đức truyền thống của Việt Nam. Phong tục, tập quán và pháp luật có sự tác động lẫn nhau, phong tục tập quán được hình thành và tồn tại trước khi có pháp luật và đến khi pháp luật được hình thành thì phong tục, tập quán vẫn tồn tại và nó được coi như “nguyên liệu” tạo ra pháp luật, đồng thời cũng là công cụ bổ sung, hỗ trợ cho pháp luật. Ngoài ra, phong tục, tập quán còn được coi là nguồn hình thức của pháp luật Việt Nam trong trường hợp nó được áp dụng vào việc giải quyết các vụ việc xảy ra trong thực tế. Rất nhiều nơi người dân sử dụng những tập tục riêng của địa phương, của dân tộc họ để giải quyết tranh chấp khi xảy ra thì khi đó, tập quán được xem như là nguồn hình thức của pháp luật. Riêng trong lĩnh vực BVMT, từ xa xưa đã có khá nhiều những phong tục về BVMT và nó làm tiền đề cho sự phát triển của luật BVMT sau này. Có những nơi họ thực hiện và đề cao phong tục hơn cả những quy định của pháp luật. Ví 16
  24. dụ, dân tộc H’Mông, họ có truyền thống gắn bó với rừng và có tục cúng rừng. Người dân H'Mông coi rừng cúng của thôn là rừng thiêng nên bảo vệ rất nghiêm ngặt theo hương ước do thôn đề ra và truyền qua nhiều đời bằng miệng. Hương ước này quy định: “Nghiêm cấm mọi người dân trong thôn kể cả người ngoài không được vào rừng cúng chặt cây, lấy củi, chăn thả gia súc vào rừng , nếu ai vi phạm sẽ bị thôn phạt vạ bằng tiền, ngô hoặc gạo nộp vào quỹ.” 4 Hay tập quán của Người Thái quy định: “đối với rừng phòng hộ ở đầu nguồn nước thì tuyệt đối cấm khai thác; rừng dành cho việc khai thác tre, gỗ để dựng nhà, phục vụ cho các nhu cầu của cuộc sống thì tuyệt đối không được chặt đốt làm nương.”5 Như vậy, phong tục, tập quán được coi là nguồn thứ yếu của pháp luật Việt Nam, các quy định của nó chủ yếu tồn tại dưới dạng bất thành văn, thiếu rõ ràng, cụ thể nên khó đảm bảo sự thống nhất. Nhưng bên cạnh đó, chính phong tục, tập quán lại làm nền tảng góp phần bổ sung những thiếu sót trong các văn bản quy phạm pháp luật. 1.2.5. Nguyên tắc chung của pháp luật Các nguyên tắc chung của pháp luật là những nguyên lý, những tư tưởng cơ bản làm cơ sở cho toàn bộ quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật trong thực tế 6. Những nguyên tắc chung của pháp luật sẽ được chuyển hóa trong các quy định của pháp luật để cụ thể hóa cũng như hiện thức hóa nguyên tắc đó. Ví dụ nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền công dân và quyền con người đã được cụ thể hóa trong tất cả các văn bản quy phạm pháp luật ở bất kỳ ngành luật nào. Ngay trong Luật BVMT năm 2014 cũng đưa ra các nguyên tắc, các quy định về bảo vệ quyền con người. Theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm quyền con người được sống trong môi trường trong lành thì Luật BVMT 4 Cục Kiểm lâm, Phong tục, tập quán mối liên hệ với quản lý tài nguyên rừng, 6/View/So- 3/Phong_tuc_tap_quan_moi_lien_he_voi_quan_ly_tai_nguyen_rung/?print=433010760, truy cập 8:40’ ngày 12/3/2016. 5 TS.Phạm Quang Tiến, PGS.TS.Nguyễn Thị Hồi (2010), Tập quán và luật tục bảo vệ môi trường của một số dân tộc ít người ở Việt Nam, Tạp chí Luật học, (6), trang 53. 6 TS.Nguyễn Thị Hồi (2008), Các loại nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (12), trang 128. 17
  25. năm 2014 đã cụ thể hóa quy định đó thành nguyên tắc chủ đạo cho cả bộ luật. Tại khoản 2, Điều 3 quy định: “Bảo vệ môi trường gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế, an sinh xã hội, bảo đảm quyền trẻ em, thúc đẩy giới và phát triển, bảo tồn đa dạng sinh học, ứng phó với biến đổi khí hậu để bảo đảm quyền mọi người được sống trong môi trường trong lành.” Ngoài ra, hiện nay trên thế giới nhiều quốc gia trong hệ thống pháp luật Common Law cũng thừa nhận án lệ là một nguồn của pháp luật. Nhưng trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay, án lệ chưa chính thức được thừa nhận là nguồn của pháp luật, cũng không công nhận việc xét xử theo án lệ. Tuy nhiên, trong một vài lĩnh vực án lệ vẫn tồn tại dưới một số hình thức nhất định, như trong báo cáo tổng kết hướng dẫn nghiệp vụ xét xử hằng năm của Tòa án nhân dân Tối cao; các quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm .Mặc dù chưa được thừa nhận nhưng nó có vai trò vô cùng lớn đối với pháp luật. Do vậy, ngày nay Việt Nam nên đẩy mạnh việc áp dụng án lệ và thúc đẩy nó trở thành một nguồn pháp luật chính thức. 1.3. Khái quát chung về khu công nghiệp 1.3.1. Khái niệm. Nếu như trước đây, khái niệm KCN còn lạ lẫm với bộ phận người dân vùng nông thôn thì ngày nay nó trở nên rất quen thuộc đối với tất cả mọi người, bởi đó là nơi tạo cơ hội việc làm, đem lại nguồn thu nhập cho hàng triệu người dân Việt Nam. Theo quy định tại khoản 1, Điều 2, Nghị định 29/2008/NĐ-CP quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế được sửa đổi, bổ sung theo nghị định 164/2013/NĐ- CP thì “Khu công nghiệp” được định nghĩa là: “khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này.” Khu công nghiệp là nơi tập trung nhiều doanh nghiệp, được thành lập theo quyết định của Chính phủ hoặc thủ tướng chính phủ. Doanh nghiệp KCN gồm doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ. Trong đó, doanh nghiệp sản xuất là doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng công nghiệp phục vụ trong nước 18
  26. hoặc xuất khẩu ra nước ngoài, còn doanh nghiệp dịch vụ là doanh nghiệp thực hiện dịch vụ các công trình kết cấu hạ tầng KCN, dịch vụ sản xuất công nghiệp. Tất cả các doanh nghiệp đó đều được thành lập và hoạt động trong KCN, chịu sự giám sát của ban quản lý KCN và hoạt động theo phương hướng chung. 1.3.2. Đặc điểm khu công nghiệp Từ quy định trên, ta có thể thấy KCN có những đặc điểm sau: Về mặt pháp lý: các KCN được thành lập và hoạt động tại Việt Nam chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam, ngoài ra với những doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu hoặc nhận đầu tư nước ngoài thì còn phải chịu sự điều chỉnh của luật đầu tư nước ngoài và có thể áp dụng quy chế pháp lý riêng. Về thành lập: nó không được thành lập một cách tự phát mà theo quyết định của Chính phủ trên cơ sở dự án, quy hoạch đã được phê duyệt. Nhà nước luôn thiết lập chính sách xây dựng và phát triển các KCN. Do vậy mà các KCN luôn được thành lập theo một hệ thống và cơ chế nhất định phù hợp với tình hình kinh tế, chính sách phát triển đất nước. Về lĩnh vực hoạt động: KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp. Ví dụ như các ngành công nghiệp cơ khí, luyện kim, hóa chất hay công nghiệp hàng tiêu dùng Về không gian: có ranh giới địa lý xác định theo quy định, KCN được thành lập trên cơ sở diện tích lớn, có tính đặc biệt về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý thuận lợi và được phân bổ theo quy hoạch. - Phân loại: Tùy theo tiêu chí mà các KCN được phân thành nhiều loại. Thông thường dựa vào tiêu chí chủ đầu tư, KCN gồm: Các KCN bao gồm các doanh nghiệp, dự án đầu tư trong nước Các KCN gồm các doanh nghiệp, dự án đầu tư trong và ngoài nước Các KCN chỉ gồm các doanh nghiệp, dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài Căn cứ vào mục đích sản xuất, có thể bao gồm KCN và khu chế xuất. Khu chế xuất là một dạng của KCN chuyên làm hàng xuất khẩu. 19
  27. Theo quy mô, KCN gồm KCN lớn, vừa và nhỏ. Việc phân chia như vậy dựa chủ yếu vào diện tích; số lượng, quy mô các doanh nghiệp trong KCN; nguồn vốn; số lượng lao động Như vậy, có thể thấy rằng, KCN có những đặc điểm riêng biệt so với các khu kinh tế khác. Việc xây dựng các KCN nhằm phát triển sản xuất công nghiệp; thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam; củng cố, tiếp thu, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ đồng thời tạo việc làm, giải quyết phần nào vấn đề kinh tế- xã hội cho đất nước. 20
  28. CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ THỰC TIỄN TẠI KHU CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 2.1. Quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường Sau cuộc cách mạng tháng 8/1945 thành công, khi đất nước phần nào ổn định thì phát triển kinh tế được Nhà nước chú trọng hơn, do đó mà môi trường chưa thực sự được quan tâm. Nhưng chính sự phát triển đó đã tác động không nhỏ đến môi trường và trong thời kỳ pháp luật còn sơ khai thì chưa có một quy định pháp luật riêng nào cho lĩnh vực môi trường mà mới chỉ thấy công tác BVMT xuất hiện trong một vài Sắc lệnh, Chỉ thị như năm 1949, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 142/SL quy định về việc kiểm soát lập biên bản các hành vi vi phạm pháp luật BVMT, có thể coi đây là văn bản đầu tiên đề cập đến vấn đề BVMT. Tiếp theo đó như Nghị quyết 36/CP của Hội đồng Chính Phủ về viêc quản lý, bảo vệ tài nguyên dưới lòng đất; Chỉ thị số 127/CP về công tác điều tra cơ bản tài nguyên và điều kiện thiên nhiên; Nghị quyết số 183/CP về công tác trồng cây gây rừng; Quyết định số 187- CT về kế hoạch quốc gia về Môi trường và phát triển bền vững giai đoạn 1991-2000 và cho đến sau thời kỳ đổi mới đất nước. Và đến khi Hiến pháp năm 1980 sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1959, thì vấn đề BVMT mới được ghi nhận một cách chính thức trong Hiến định. Điều 36, Hiến pháp quy định: “Các cơ quan nhà nước, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân đều có nghĩa vụ thực hiện chính sách bảo vệ cải tạo và tái sinh các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ cải tạo môi trường sống.” Kế thừa tinh thần đó, Hiến pháp năm 1992 đã có những quy định mang tính nguyên tắc về BVMT. Khi đạo luật cơ bản, có giá trị pháp lý cao nhất quy định về vấn đề này, thì lần đầu tiên Quốc Hội ban hành Luật BVMT năm 1993. Sau hơn 10 năm thực hiện, Luật bảo vệ môi trường được sửa đổi, bổ sung năm 2005 đã khẳng định hơn vấn đề BVMT là nghĩa vụ của tất cả mọi người. Đến ngày nay, Hiến pháp năm 2013 ra đời đã có sự thay đổi nhất định đối với hệ thống 21
  29. pháp luật Việt Nam. Và một trong những ngành luật có sự sửa đổi sớm nhất đó là pháp luật về môi trường. Hàng loạt các văn bản pháp luật mới được ban hành. Do đó, ngày 23/6/2014, Luật BVMT năm 2014 đã được ban hành gồm 20 chương và 170 điều, có hiệu lực thi hành ngày 1/5/2015. Luật BVMT năm 2014 đã kế thừa những nội dung cơ bản của Luật BVMT năm 2005 và khắc phục một số bất cập. Một số nội dung chính được sửa đổi, bổ sung như trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường; quy hoạch môi trường; kế hoạch BVMT; ứng phó với biến đổi khí hậu; thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ và đặc biệt là vấn đề BVMT ở KCN, cụm công nghiệp, khu kinh doanh, dịch vụ tập trung đã được đề cập tới. Như vậy, Nhà nước đã ban hành Luật BVMT năm 1993, năm 2005 và đến nay là Luật BVMT năm 2014 đã thể hiện rõ sự gắn kết trong việc BVMT và phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Hiện nay, có khoảng 33 luật và 22 Pháp lệnh có nội dung liên quan tới công tác BVMT như7: Luật bảo vệ và phát triển rừng, số 29/2004/QH11, ban hành ngày 03/12/2004, Luật này quy định về việc quản lý, sử dụng, bảo vệ và phát triển rừng đối với cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc bảo vệ và phát triển rừng. Đồng thời cũng quy định quyền của Nhà nước về phát triển rừng; quyền và nghĩa vụ của chủ rừng. Luật đa dạng sinh học, số 20/2008/QH12 quy định việc bảo tồn và phát triển bền vững các hệ sinh thải tự nhiên, các loài sinh vật, tài nguyên di truyền; kiểm soát loài ngoại lai xâm hại bên cạnh đó cũng quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong việc bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học. Luật tài nguyên nước, số 17/2012/QH13 quy định việc khai thác, quản lý, bảo vệ nguồn nước, sử dụng tiết kiệm tài nguyên nước; phòng, chống và khắc phục hậu quả do nước gây ra. Ngoài ra Luật cũng nhấn mạnh đến trách nhiệm trong việc bảo vệ tài nguyên nước của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân. 7 TS.Mai Hải Đăng, Pháp luật quốc tế và Việt Nam về môi trường với việc bảo vệ quyền con người, năm 2015, trang 68, NXB Tư Pháp. 22
  30. Luật biển Việt Nam, số 18/2012/QH13, luật đưa ra những quy định về chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia Việt Nam đối với vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo và nghĩa vụ bảo vệ biển, đảo. Luật đất đai, số 45/2013/QH13 gồm 14 chương, 212 điều nhiều hơn 66 điều so với Luật đất đai năm 2003, quy định về chế độ sở hữu đất đai, quyền và trách nhiệm của nhà nước đối với đất đai; công tác thu hồi, trưng dụng đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư, chú trọng quy định đến quyền và nghĩa vụ vủa người sử dụng đất đối với nhà nước . Không chỉ vậy, để hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực môi trường cũng như hòa nhập với cộng đồng thế giới, Việt Nam cũng đã gia nhập khá nhiều các Điều ước quốc tế. Hiện nay có khoảng hơn 1000 điều ước quốc tế điều chỉnh về vấn đề BVMT. Bên cạnh đó, hàng loạt Hội nghị thế giới về môi trường được tổ chức, phải kể đến Hội nghị thượng đỉnh thế giới về môi trường và phát triển bền vững năm 1992 tại Rio De Janeiro, Brazil; Hội nghị Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu năm 2007 và Hội nghị của Liên hợp quốc về con người và môi trường được tổ chức tại Stockhom, Thụy Điển, năm 1972 với chủ đề “Môi trường và con người”, có thể được coi là bước phát triển trong chính sách về môi trường trên thế giới và là một sự kiện đầu tiên đánh dấu sự nỗ lực chung của toàn thế giới nhằm giải quyết các vấn đề về môi trường. Cùng với sự tiến bộ của thế giới, chung tay bảo vệ môi trường đồng thời bảo đảm thực hiện quyền con người về môi trường, các Điều ước quốc tế có sự tham gia kí kết của Việt Nam, có thể kể đến như: Tuyên bố stockhom và Tuyên bố Riô De Janeiro; Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982; Công ước Ramsar về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế; Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu gây ra 1973/1978 (Marpol 73/78); Công ước quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với các tổn thất do ô nhiễm dầu (CLC1969/1992) 23
  31. 2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường ở khu công nghiệp trong giai đoạn hiện nay 2.2.1. Quy định pháp luật về bảo vệ môi trường ở khu công nghiệp Hội nhập quốc tế đem lại cho Việt Nam rất nhiều cơ hội cũng như thách thức trong mọi lĩnh vực. Và lĩnh vực kinh tế luôn đòi hỏi sự phát triển hơn nữa ở Việt Nam. Chính sự hội nhập kinh tế quốc tế đã xuất hiện hàng loạt KCN, nhà máy, cơ sở sản xuất, kinh doanh chiếm lĩnh phần lớn nền kinh tế Việt Nam. Sự mọc lên mạnh mẽ của các KCN góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển không ngừng nhưng nó lại có những tác động nhất định đến môi trường mà BVMT hiện nay lại là mối quan tâm hàng đầu của mọi quốc gia. Tình trạng môi trường Việt Nam hiện giờ đang đứng ở mức báo động, vụ việc cá chết ở vùng biển miền Trung chưa kịp lắng xuống thì gần 20 tấn cá chết trong 3 ngày từ 4/5 đến 7/5 trên sông Bưởi của huyện Thạch Thành, Thanh Hóa lại là tâm điển trong vấn đề môi trường. Được biết nguồn nước sông bị ô nhiễm trầm trọng và nguyên nhân một phần do việc xả thải chưa qua xử lý của nhà máy đường Hòa Bình trong hơn 1 tháng vừa qua. Có thể thấy, tình trạng ô nhiễm như hiện nay phần lớn là do hoạt động của các doanh nghiệp, sự ô nhiễm ngay ở các KCN. Do vậy, việc quy định về BVMT ở KCN là vô cùng cần thiết. Riêng về vấn đề BVMT ở KCN, trên thế giới có một số Điều ước quốc tế điều chỉnh và cũng ảnh hưởng nhất định đến pháp luật Việt Nam về BVMT ở KCN. Và việc tham gia những Điều ước quốc tế đó cũng giúp cho Việt Nam có cái nhìn khách quan hơn và trau dồi kinh nghiệm trong công tác BVMT ở KCN. Chẳng hạn: Việc tham gia Công ước Basel, 1989 đã giúp cho Việt Nam thực hiện tốt hơn công tác quản lý chất thải nguy hại và tạo căn cứ để thực hiện tốt Công ước Basel. Công ước hướng đến mục tiêu cơ bản là kiểm soát và giảm thiểu các hoạt động vận chuyển chất thải, phòng ngừa và giảm thiểu sự hình thành chất thải, tích cực thúc đẩy việc chuyển giao và sử dụng các công nghệ sạch hơn. Chính việc tham gia này, đã tạo cho Việt Nam có cơ sở để ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật về quản lý chất thải, đặc biệt là chất thải nguy hại, góp phần bảo về môi trường. 24
  32. Tuyên ngôn quốc tế về sản xuất sạch hơn, Việt Nam tham gia ký kết năm 1999. Các kế hoạch hành động về sản xuất sạch hơn sẽ đem lại hình ảnh môi trường có lợi cho doanh nghiệp, hỗ trợ phát triển các sản phẩm và dịch vụ thân thiện với môi trường, đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Việc tham gia Tuyên ngôn cũng như hợp tác với UNEP đem lại thành công trong việc thực thi sản xuất sạch hơn, có ý nghĩa đối với tất cả các cơ sở công nghiệp.Thực hiện các hoạt động sản xuất sạch hơn, các doanh nghiệp có thể làm tăng ý thức BVMT của các cán bộ quản lý, chủ các cơ sở và người lao động, đồng thời xây dựng công tác quản lý và xử lý chất thải tốt hơn. Các hoạt động này còn giúp cho doanh nghiệp tăng năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vậy, Tuyên ngôn đã có ảnh hưởng nhất định việc hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về BVMT ở KCN. Điều đó thể hiện ngay trong Quyết định số 1419/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ, phê duyệt “Chiến lược sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đến năm 2020” ban hành ngày 7/9/2009 cũng chỉ rõ mục tiêu khi áp dụng sản xuất sạch hơn trong công nghiệp từ năm 2016 đến năm 2020. Cụ thể: “50% cơ sở sản xuất công nghiệp áp dụng sản xuất sạch hơn; các cơ sở sản xuất công nghiệp áp dụng sản xuất sạch hơn tiết kiệm được từ 8- 13% mức tiêu thụ năng lượng, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu trên đơn vị sản phẩm; 90% doanh nghiệp vừa và lớn có bộ phận chuyên trách về sản xuất sạch hơn.” 8 Bên cạnh việc tham gia, kí kết các Điều ước quốc tế thì Nhà nước cũng rất chú trọng đến việc thiết lập hệ thống pháp luật quốc gia về BVMT đặc biệt là các quy định về BVMT ở KCN nhằm điều chỉnh tốt hơn đến công tác BVMT tại các KCN. Khi Luật BVMT năm 2014 đã có những quy định riêng, cụ thể về vấn đề BVMT tại KCN thì kèm theo đó hàng loạt các Nghị định, Thông tư điều chỉnh về vấn đề này được ban hành. Cụ thể: Nghị định 19/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật BVMT năm 2014. Nghị định hướng dẫn chi tiết các hoạt động BVMT như kiểm soát ô nhiễm môi trường đất, BVMT làng nghề, cải tạo, phục hồi môi trường và 8 Quyết định số 1419/QĐ-TTg về phê duyệt chiến lược sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đến năm 2020, ban hành ngày 07/9/2009. 25
  33. ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường, xử lý cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng .Và về vấn đề BVMT tại KCN, Nghị định có quy định chi tiết về vấn đề kiểm soát ô nhiễm môi trường đất tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Thông tư 35/2015/TT-BTNMT quy định về BVMT khu kinh tế, KCN, khu chế xuất, khu công nghệ cao (sau đây gọi là Thông tư 35/2015/TT-BTNMT) có hiệu lực ngày 17/8/2015, thay thế Thông tư 08/2009/TT-BTNMT. Thông tư quy định chủ yếu về nghĩa vụ BVMT và trách nhiệm BVMT ở các khu kinh tế, KCN, khu chế xuất và khu công nghệ cao. Thông tư đã quy định tách bạch trong vấn đề BVMT giữa các đối tượng, giữa khu kinh tế và KCN. Đặc biệt, là quy định trách nhiệm của ban quản lý cũng như các chủ đầu tư và chủ các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong KCN, khu kinh tế trong việc BVMT chung. Đây được coi là những quy định quan trọng và được áp dụng phổ biến tại các KCN. Về vấn đề quản lý, xử lý chất thải, nước thải, khí thải cũng được chú trọng và quy định trong một vài văn bản quy phạm pháp luật như: Nghị định 80/2014/ NĐ-CP quy định về thoát nước và xử lý nước thải. Trong đó có quy định về xử lý nước thải công nghiệp. Nghị định chỉ ra các nguyên tắc, quy trình xử lý nước thải và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về xử lý nước thải. Nghị định 38/2015/NĐ-CP quy định về quản lý chất thải và phế liệu đã có những quy định cụ thể về quản lý chất thải, đặc biệt là quản lý chất thải nguy hại. Quy định yêu cầu việc thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải cũng như điều kiện cấp giấy phép xử lý chất thải đối với các cơ sở. Đồng thời, Nghị định cũng lồng ghép quy định cụ thể về vấn đề xử lý khí thải công nghiệp. Nghị định 18/2015/NĐ-CP quy định về quy hoạch BVMT, đánh giá môi trường chiến lược, ĐTM, kế hoạch BVMT và Thông tư 27/2015/TT-BTNMT về đánh giá môi trường chiến lược, ĐTM và kế hoạch BVMT cũng quy định cụ thể, chi tiết về các đối tượng, nội dung, quy trình thực hiện, việc thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá môi trường chiến lược, ĐTM và kế hoạch BVMT. Để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật môi trường, Chính phủ đã ban hành Nghị định 179/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực 26
  34. BVMT thay thế cho Nghị định 117/2009/NĐ-CP. Nghị định quy những hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT như vi phạm các quy định về xả nước thải; về thải bụi, khí thải; vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ mà không có kế hoạch bảo vệ môi trường hoặc báo cáo đánh giá tác động môi trường Cũng như quy định mức xử phạt đối với các hành vi đó. Những quy định này góp phần hạn chế, ngăn ngừa các hành vi xảy ra và cũng có thể coi đây sẽ là biện pháp giáo dục ý thức người dân trong việc BVMT. Cùng với đó, với hình phạt nghiêm khắc hơn, Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã quy định những loại tội phạm về môi trường: tội gây ô nhiễm, tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, tội vi phạm về phòng ngừa sự cố môi trường, tội hủy hoại rừng . Ngoài ra, Thông tư 13/2015/TT-BTNMT về ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường cũng đưa một số các quy chuẩn Việt Nam: QCVN 12- MT:2015/BTNMT quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp giấy và bột giấy; QCVN 13-MT:2015/BTNMT quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp dệt nhuộm; đã đưa ra mức giới hạn buộc các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phải tuân theo khi có những hành vi xả thải ra môi trường. 2.2.2. Nội dung của pháp luật hiện hành về bảo vệ môi trường ở khu công nghiệp 2.2.2.1. Các nghĩa vụ bảo vệ môi trường khu công nghiệp. Luật BVMT năm 2014 đã quy định cụ thể nghĩa vụ BVMT của tổ chức, cá nhân và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực môi trường. Và BVMT ở KCN đã được chi tiết hóa trong thông tư 35/2015/TT-BTNMT quy định về BVMT khu kinh tế, KCN, khu chế xuất, khu công nghệ cao. So với thông tư 08/2009/TT-BTNMT được sửa đổi bổ sung theo thông tư 48/2011/TT- BTNMT ngày 28/12/2011 quy định về quản lý và bảo vệ môi trường khu kinh tế, khu công nghệ cao, KCN và cụm công nghiệp thì có thể thấy, Thông tư hiện hành đã quy định chi tiết hơn, cụ thể, rõ ràng hoạt động BVMT đối với từng chủ thể chứ không quy định chung chung đối với cả khu kinh tế, KCN, khu công nghệ cao như Thông tư trước. Điều này tạo cho các chủ thể nắm bắt dễ dàng hơn 27
  35. các nghĩa vụ của mình trong hoạt động BVMT. Như vậy, với quy định hiện hành, nghĩa vụ cơ bản mà các chủ thể trong KCN phải thực hiện để BVMT, cụ thể bao gồm: Nghĩa vụ BVMT trong việc thực hiện đánh giá tác động môi trường hoặc lập kế hoạch BVMT. Việc thực hiện ĐTM hoặc kế hoạch BVMT có ý nghĩa rất lớn trong công tác BVMT ở KCN, nó như một sự ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp với môi trường và là một quá trình phân tích, đánh giá và dự báo các ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên; kinh tế- xã hội; đến sức khỏe cộng đồng khu vực nơi thực hiện dự án. Từ đó đề xuất các giải pháp thích hợp để bảo vệ môi trường trong từng giai đoạn hoạt động cũng như thi công các công trình. Khoản 23, Điều 3, Luật BVMT năm 2014 định nghĩa ĐTM là việc phân tích, dự báo, tác động đến môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra biện pháp bảo vệ môi trường khi triển khai dự án đó. Nếu thuộc đối tượng phải thực hiện ĐTM thì chủ dự án có thể tự mình hoặc thuê tổ chức tư vấn thực hiện ĐTM và việc này phải được thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị dự án. Nghị định 18/2015/NĐ-CP về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, ĐTM và kế hoạch bảo vệ môi trường đã tóm gọn và xác định đối tượng phải thực hiện ĐTM tại phụ lục 2 liệt kê 113 loại dự án ít hơn so với quy định tại nghị định 29/2011/NĐ-CP trước đây là 146 nhóm dự án. Ví dụ như chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật BVMT khu công nghiệp phải thực hiện ĐTM đối với dự án xây dựng hệ thống xử lý nước thải công nghiệp tập trung hay đối với các dự án xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong KCN cũng phải thực ĐTM Thực hiện nội dung này có thể thấy Nhà nước đang yêu cầu chủ dự án phải lồng ghép vấn đề xây dựng, phát triển dự án với hoạt động BVMT bởi chỉ có vậy mới hạn chế được các tác động của dự án đến môi trường. Hơn nữa nếu như việc ĐTM của dự án mà gây ra nhiều tác động xấu đến môi trường, các biện pháp BVMT không có tính khả thi thì dự án có thể sẽ không được phê duyệt. Đặc biệt, sự tiến bộ của Luật BVMT năm 2014 đã đề cao hơn vai trò của cộng đồng dân cư khi quy định một điều khoản riêng về tham vấn ý trong quá trình 28
  36. thực hiện ĐTM là một điều kiện bắt buộc đối với tất cả các dự án thực hiện ĐTM, trừ nhóm dự án thuộc danh mục bí mật nhà nước. Việc thực hiện ĐTM sẽ bắt buộc chủ dự án phải có những chính sách BVMT, hạn chế những tác động của dự án đến môi trường và hơn hết khi thực thi dự án, chủ dự án phải đảm bảo thực hiện theo đúng nội dung như trong báo cáo ĐTM đã thực hiện để đảm bảo việc BVMT. Bởi nhằm khắc phục những hạn chế của Luật BVMT năm 2005, Luật BVMT năm 2014 quy định chủ đầu tư phải có trách nhiệm báo cáo với cơ quan phê duyệt báo cáo ĐTM kết quả thực hiện các công trình BVMT, có nguy cơ tác động xấu đến môi trường trước khi đưa dự án vào vận hành. Có thể coi đây là một công cụ quản lý môi trường có tính chất phòng ngừa, góp phần cho sự phát triển bền vững và cũng là cơ sở để đối chiếu khi thực hiện việc thanh tra môi trường KCN. Nếu trong quá trình xây dựng và hoạt động của KCN khi có sự điều chỉnh quy mô, quy hoạch, hạ tầng kỹ thuật, các danh mục ngành nghề mà chưa đến mức phải lập lại báo cáo ĐTM thì chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng phải thực hiện nghĩa vụ sau: Khoản 7, Điều 16, Nghị định 18/2015/NĐ-CP về quy hoạch BVMT, đánh giá môi trường chiến lược, ĐTM và kế hoạch BVMT quy định: “Báo cáo bằng văn bản và chỉ được thực hiện những thay đổi liên quan đến phạm vi, công suất, công nghệ sản xuất, các công trình, biện pháp BVMT của dự án khi có ý kiến chấp thuận của cơ quan phê duyệt báo cáo ĐTM.” Như vậy, chủ dự án sẽ không phải lập lại báo cáo ĐTM mà chỉ cần gửi báo cáo về việc thay đổi liên quan đến công trình cũng như biện pháp BVMT tới cơ quan có thẩm quyền xem xét. Còn đối với kế hoạch BVMT, theo Điều 29, Luật BVMT năm 2014 có quy định đối tượng phải lập là các dự án đầu tư không thuộc đối tượng phải thực hiện ĐTM; phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không thuộc đối tượng phải lập dự án đầu tư theo quy định của pháp luật đầu tư. Ví dụ như các dự án, phương án đầu tư sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; phương án đầu tư mở rộng quy mô, nâng công suất các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không thuộc đối tượng phải thực hiện ĐTM Như vậy, một dự án không đồng thời phải thực 29
  37. hiện cả việc lập báo cáo ĐTM và lập kế hoạch BVMT. Tức là nếu thuộc đối tượng phải thực hiện ĐTM thì dự án đó sẽ không phải lập kế hoạch BVMT. Đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường. Khoản 1, Điều 8, Thông tư 35/2015/TT-BTNMT quy định: “Hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường khu công nghiệp bao gồm: hệ thống thoát nước mưa, hệ thống xử lý nước thải tập trung (gồm hệ thống thu gom nước thải, nhà máy xử lý nước thải tập trung, hệ thống thoát nước thải), khu vực lưu giữ chất thải rắn (nếu có), hệ thống quan trắc nước thải tự động và các công trình hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường khác.” Việc thiết kế, xây dựng hạ tầng kỹ thuật BVMT khu công nghiệp là một công đoạn quan trọng, bởi đây sẽ là hệ thống quyết định đến chất lượng môi trường KCN. Toàn bộ các chất thải, rác thải, khí thải sẽ phải qua hệ thống kỹ thuật này để xử lý trước khi xả thải ra môi trường. Do vậy, việc thiết kế và xây dựng các công trình này phải rất cẩn trọng, đảm bảo theo quy chuẩn kỹ thuật cũng như quy định của pháp luật, tránh lãng phí cũng như tận dụng được các điều kiện tự nhiên khi xây dựng, hoạt động để vấn đề BVMT đạt hiệu quả tốt nhất. Hơn nữa, quá trình thiết kế, lắp đặt phải thống nhất với nhau từ khâu chọn chất liệu, vật liệu, máy móc để thuận tiện trong việc xây dựng, sửa chữa cũng như khi vận hành. Để BVMT một cách tốt nhất từ hoạt động sản xuất công nghiệp, thì hạ tầng kỹ thuật BVMT khu công nghiệp phải đảm bảo các hệ thống sau: hệ thống thoát nước mưa, hệ thống xử lý nước thải tập trung, khu vực lưu giữ chất thải rắn (nếu có) và hệ thống quan trắc nước thải tự động. Chủ yếu các tác nhân chính gây nên ô nhiễm môi trường đó là chất thải, do vậy phải đảm bảo có được các hệ thống theo quy định thì mới xử lý được toàn bộ những nguồn gây ô nhiễm đó. Không thể xử lý đồng bộ các loại chất thải này vào cùng một hệ thống vì mỗi một loại chất thải có những đặc điểm và cách xử lý khác nhau, cho nên buộc các doanh nghiệp phải thiết kế những hệ thống tách biệt để đảm bảo việc xử lý nguồn thải một cách triệt để. Đặc biệt hơn các nhà máy xử lý nước thải tập trung 30
  38. phải thiết kế lắp đặt hệ thống quan trắc tự động, liên tục để đảm bảo việc vận hành cũng như chất lượng xử lý. So với các Thông tư trước quy định về xây dựng hạ tầng kỹ thuật BVMT, theo Điều 6, Thông tư 08/2009/TT-BTNMT quy định: Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật khu kinh tế, khu công nghệ cao, KCN và cụm công nghiệp bao gồm hệ thống giao thông, hệ thống cấp nước, hệ thống thoát nước, xử lý nước thải, hệ thống cấp điện, chiếu sáng, hệ thống thông tin Thay vì quy định rườm rà và đòi hỏi ở các doanh nghiệp một loạt các hệ thống kết cấu hạ tầng BVMT như vậy thì Thông tư 35/2015/TT-BTNMT quy định ngắn gọn mà đầy đủ vẫn đảm bảo được công tác BVMT ở KCN. Thông tư đã quy định đến những vấn đề chính và quan trọng, cần thiết cho việc BVMT do vậy nên đã tóm gọn và quy định lại về điều khoản này, giúp cho các doanh nghiệp xác định được nghĩa vụ quan trọng trong việc BVMT của mình. Quan trắc môi trường. Tại khoản 20, Điều 3, Luật BVMT năm 2014 quy định: “Quan trắc môi trường là quá trình theo dõi có hệ thống về thành phần môi trường, tổ chức và hoạt động BVMT, các yếu tố tác động lên môi trường nhằm cung cấp thông tin đánh giá hiện trạng, diễn biến chất lượng môi trường và các tác động xấu đối với môi trường.” Như vậy quan trắc môi trường là một biện pháp để phòng ngừa, giảm thiểu, khắc phục phần nào tác động ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất, kinh doanh tại các doanh nghiệp. Việc thực hiện chương trình quan trắc môi trường KCN tuân thủ theo các quy định về quy trình là rất quan trọng, nhằm giảm thiểu những biến đổi môi trường, kiểm soát ô nhiễm do hoạt động của các doanh nghiệp gây ra cũng như cảnh báo kịp thời các diễn biến bất thường hay các nguy cơ gây ô nhiễm môi trường có thể xảy ra, góp phần tạo cho các doanh nghiệp và cơ quan quản lý đưa ra các giải pháp để ngăn ngừa và hạn chế tác động tiêu cực đến môi trường. Theo quy định tại Điều 125, Luật BVMT năm 2014 quy định về chương trình quan trắc môi trường thì KCN phải thực hiện chương trình quan trắc chất phát thải và quan trắc các thành phần môi trường 31
  39. theo quy định, cụ thể gồm: môi trường đất; nước; không khí; tiếng ồn, độ rung, bức xạ, ánh sáng; phóng xạ; nước thải, khí thải, chất thải; hóa chất nguy hại và đa dạng sinh học. Sau khi thực hiện quan trắc theo quy định của pháp luật thì phải báo cáo cho cơ quan quản lý nhà nước về BVMT. Tại các KCN, chủ dự án và cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong KCN sẽ thực hiện quan trắc môi trường trong phạm vi dự án, cơ sở mình và thông báo kết quả cho chủ đầu tư xây dựng, kinh doanh hạ tầng KCN. Chủ đầu tư xây dựng, kinh doanh hạ tầng KCN vừa thực hiện chương trình quan trắc vừa tổng kết và báo cáo kết quả quan trắc, công tác BVMT toàn KCN, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ gửi lên Ban quản lý KCN, Sở tài nguyên và môi trường vào ngày cuối cùng hàng năm. Quản lý nước thải công nghiệp. Nước thải công nghiệp là nước thải của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong KCN. Tại Khoản 7, Điều 2, Nghị định 80/2014/ NĐ-CP về thoát nước và xử lý nước thải quy định: “Nước thải là nước đã bị thay đổi đặc điểm, tính chất do sử dụng hoặc do các hoạt động của con người xả vào hệ thống thoát nước hoặc ra môi trường.” Việc làm phát sinh nước thải chưa qua xử ý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn mà xả trực tiếp ra môi trường sẽ gây ra tác động lớn đến chất lượng đất, nguồn nước ngầm và nguồn nước sinh hoạt của người dân dẫn đến tình trạng ô nhiễm nguồn nước. Hiện nay tình trạng ô nhiễm nguồn nước mà nguyên nhân chính là do nhiều KCN xả thải trực tiếp chất thải chưa qua xử lý ra môi trường đã xuất hiện ở các nơi. Chính vì thấy được hậu quả nặng nề do ô nhiễm nguồn nước gây ra mà Nhà nước đã quy định rất nghiêm ngặt trong việc quản lý nước thải ở các KCN. Ngoài việc phải đảm bảo một hệ thống xử lý nước thải theo đúng quy định thì các doanh nghiệp phải quản lý theo một quy trình nhất định. Đây là một trong những biện pháp nhằm kiểm soát ô nhiễm môi trường. Cụ thể tại khoản 1, Điều 9, Thông tư 35/2015/TT-BTNMT quy định: Nước thải phải được xử lý theo điều kiện ghi trong văn bản thỏa thuận với chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp trước khi đấu nối vào hệ thống thu gom của khu công nghiệp để tiếp tục xử lý tại nhà máy xử lý 32
  40. nước thải tập trung bảo đảm đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường trước khi xả ra nguồn tiếp nhận, trừ trường hợp quy định tại Khoản 4 Điều này; Nước thải từ các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong khu công nghiệp chuyển giao cho đơn vị có chức năng xử lý phải có hợp đồng xử lý nước thải với đơn vị có chức năng phù hợp theo quy định hiện hành Như vậy, chủ doanh nghiệp phải đảm bảo việc quản lý nước thải cẩn trọng và xử lý theo đúng quy trình tại hệ thống xử lý nước thải tập trung của KCN, phải thực hiện đầu nối với hệ thống xử lý nước thải đó trừ trường hợp được miễn theo Khoản 4, Điều 9, Thông tư 35/2015/TT-BTNMT. Đối với việc chuyển giao xử lý nước thải cho đơn vị có chức năng thì cần phải đảm bảo có hợp đồng xác định cụ thể trọng lượng cũng như cách thức xử lý, tránh tình trạng xử lý nước thải không triệt để. Bên cạnh đó, để quá trình xử lý nước thải không ảnh hưởng đến môi trường thì hệ thống xử lý cần được bảo dưỡng và kiểm tra thường xuyên để tránh tình trạng hỏng hóc cũng như gây khó khăn trong quá trình vận hành. Ngoài ra, cán bộ vận hành nhà máy xử lý tập trung phải có kiến thức, trình độ nhất định về công nghệ môi trường, công nghệ hóa học đảm bảo việc sử dụng máy móc, thiết bị thành thạo. Việc thực hiện tốt công tác quản lý nước thải công nghiệp sẽ góp phần bảo vệ môi trường nhất là nguồn nước. Quản lý khí thải công nghiệp. Theo khoản 8, Điều 3, Nghị định 38/2015 về quản lý chất thải và phế liệu quy định: “Khí thải công nghiệp là chất thải tồn tại ở trạng thái khí hoặc hơi phát sinh từ hoạt động sản xuất, dịch vụ công nghiệp.” Sau những bất cập về quản lý khí thải công nghiệp thì đến nay, Chính phủ đã ban hành Nghị định 38/2015/NĐ-CP về quản lý chất thải và phế liệu cũng quy định rõ đối với việc quản lý khí thải công nghiệp, làm cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp thực thi. Theo đó, đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong KCN mà phát sinh khí thải, tiếng ồn do hoạt động của máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển thì chủ các cơ sở phải lắp đặt hệ thống xử lý, giảm thiểu khí thải, tiếng ồn đảm bảo quy chuẩn kỹ thuật môi trường cho phép. Tránh để tình trạng phát sinh khí thải ra môi trường gây ô nhiễm không khí. Đối với 33
  41. những loại khí thải lưu lượng lớn quy định tại phụ lục của Nghị định này thì phải thực hiện đăng ký chủ nguồn khí thải trừ trường hợp chủ nguồn thải có hoạt động đồng xử lý chất thải thuộc đối tượng được cấp giấy phép xử lý chất thải nguy hại. Ngoài ra chủ nguồn khí thải này phải lắp đặt thiết bị quan trắc khí thải tự động, liên tục và truyền dữ liệu về Sở Tài nguyên và Môi trường địa phương. Như vậy, tùy vào thành phần trong khí thải mà các doanh nghiệp phải đưa ra hình thức quản lý cho phù hợp để đảm bảo môi trường không khí không bị ô nhiễm. Quản lý chất thải. Chất thải công nghiệp thường bao gồm chất thải rắn thông thường và chất thải nguy hại. Chất thải rắn công nghiệp là chất thải rắn phát sinh từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Còn chất thải nguy hại có thể hiểu đó là chất thải chứa các chất hoặc hợp chất có đặc tính như độc hại, phóng xạ, dễ cháy, dễ nổ gây nguy hại trực tiếp hoặc tương tác với các chất khác gây nguy hại tới môi trường và sức khỏe con người. Các ngành phát sinh như ngành hóa chất, luyện kim, hóa dầu Đây là những nguồn có thể gây ô nhiễm rất lớn đến môi trường, bởi các chất thải này rất độc hại mà nếu để nó phát sinh ra ngoài môi trường thì sẽ ảnh hưởng lớn đến sức khỏe con người. Do vậy, mỗi loại chất thải, pháp luật đều có những quy định xử lý riêng. Cụ thể, với chất thải rắn thông thường thì các KCN có thể tự xử lý hoặc ký hợp đồng thu gom, xử lý với đơn vị có điều kiện xử lý theo quy định của pháp luật hoặc với sự phát triển của kinh tế như ngày nay thì các KCN có thể tái chế để tái sử dụng, biến các chất thải thành những thứ có ích, có thể sử dụng mà thân thiện với môi trường. Còn đối với chất thải nguy hại, đây là loại chất thải đặc biệt bởi đặc điểm thành phần trong chất thải nên việc xử lý rất cẩn trọng, phải đảm bảo theo đúng trình tự quy định tại Thông tư 36/2015/TT-BTNMT về quản lý chất thải nguy hại và Thông tư 38/2015/TT-BTNMT quy định về quản lý chất thải và phế liệu, theo đó các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có hoạt động phát sinh chất thải nguy hại phải đăng ký chủ nguồn thải chất thải nguy hại với Sở tài nguyên và 34
  42. môi trường. Và chất thải nguy hại phải được phân loại rõ ràng; việc thu gom, vận chuyển chỉ được thực hiện bởi các tổ chức, cá nhân có giấy phép xử lý chất thải nguy hại; các phương tiện, thiết bị thu gom phải đáp ứng đúng theo yêu cầu kỹ thuật; quy trình quản lý. Phòng ngừa, ứng phó và khắc phục sự cố môi trường trong KCN. Theo khoản 10, Điều 3, Luật BVMT năm 2014 định nghĩa “sự cố môi trường là sự cố xảy ra trong quá trình hoạt động của con người hoặc biến đổi của tự nhiên, gây ô nhiễm, suy thoái hoặc biến đổi môi trường nghiêm trọng.” Do vậy để ngăn ngừa trước sự cố có thể xảy ra, pháp luật quy định các KCN phải xây dựng kế hoạch phòng ngừa, ứng phó và khắc phục sự cố môi trường trong chương trình quản lý và giám sát môi trường ở KCN. Kế hoạch này phải xác định và đánh giá được nguy cơ xảy ra sự cố môi trường trong quá trình hoạt động, dự định được các tình huống có thể xảy ra trên thực tế để từ đó đưa ra được các biện pháp phòng ngừa, ứng phó và khắc phục nếu xảy ra. Ngoài ra, KCN cũng phải đảm bảo lực lượng để sẵn sàng ứng phó, hạn chế tối đa nhất các tác động tiêu cực đến môi trường. Để đảm bảo được hiệu quả của việc sử dụng lực lượng ứng phó thì tại các KCN nên tổ chức các buổi tập huấn, huấn luyện để tạo thành kỹ năng và khi có sự cố xảy ra việc ứng phó và khắc phục sẽ dễ dàng, nhanh chóng hơn. Bên cạnh đó, các KCN nên trang bị sẵn những thiết bị, công cụ, phương tiện cần thiết để đảm bảo ứng phó kịp thời sự cố môi trường. Và hầu hết các KCN phải đảm bảo thực hiện tốt nghĩa vụ này đặc biệt là các cơ sở sản xuất, kinh doanh hóa chất, bởi sự cố môi trường xảy ra không ai có thể dự định trước được, hoặc chỉ một sơ xuất nhỏ cũng dẫn đến tình trạng này. Do vậy, đây là nghĩa vụ BVMT cơ bản mà các KCN phải thực hiện vì môi trường sống trong lành. Ngoài ra, tại các KCN để BVMT thì các chủ thể phải thực hiện nhiều hoạt động khác như BVMT trong việc sử dụng các thiết bị công nghệ thân thiệt với môi trường; nghĩa vụ nộp thuế, phí môi trường đồng thời sự đóng góp của các doanh nghiệp là nguồn cung cấp lớn cho hoạt động của quỹ môi trường nói chung, bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng phải thực hiện những hoạt động công ích về BVMT theo chính sách, chương trình nơi mà doanh nghiệp có trụ sở hoạt 35
  43. động phát động; phổ biến giáo dục pháp luật về BVMT trong nội bộ doanh nghiệp . Nhưng tóm lại dù là những nghĩa vụ bắt buộc theo quy định của pháp luật hay là những hoạt động tự nguyện trong công tác BVMT thì các chủ thể trong KCN phải luôn ý thức được hành động, trách nhiệm của mình đối với việc BVMT, sức khỏe cộng đồng. 2.2.2.2. Trách nhiệm bảo vệ môi trường khu công nghiệp. Thứ nhất, trách nhiệm của ban quản lý KCN, chủ đầu tư và chủ các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong KCN. - Theo Thông tư 35/2015/TT-BTNMT quy định ban quản lý KCN phải có trách nhiệm BVMT như sau: Bố trí các bộ phận chuyên trách về BVMT. Hướng dẫn kiểm tra chủ đầu tư và doanh nghiệp trong KCN thực hiện các quy định về BVMT. Đồng thời định kỳ báo cáo công tác BVMT của KCN. Phối hợp xây dựng quy chế với Sở Sở Tài nguyên và Môi trường, UBND cấp huyện trình UBND cấp tỉnh phê duyệt. Công khai thông tin về môi trường KCN và tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật. Phối hợp kiểm tra, thanh tra với cơ quan chức năng giải quyết các tranh chấp môi trường và xử lý các vi phạm môi trường đối với các chủ đầu tư cũng như chủ các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. - Chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng KCN phải có trách nhiệm thiết lập một bộ phận chuyên môn về BVMT để thực hiện việc vận hành thường xuyên, liên tục công trình hạ tầng kỹ thuật và phải luôn đảm bảo được tối thiểu 10% diện tích trồng cây xanh trong KCN. Phải có trách nhiệm trong việc thực hiện và báo cáo kết quả quan trắc môi trường, công tác BVMT ở KCN. Đặc biệt là chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng KCN có trách nhiệm xây dựng và thực hiện kế hoạch phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường. - Ngoài ra thì chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong KCN phải thống nhất và ký văn bản thỏa thuận điều kiện đấu nối nước thải với chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng KCN. Đảm bảo tại mỗi cơ sở đều có hệ thống 36
  44. xử lý nước thải đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường, tổ chức quan trắc nước thải và kê khai nộp phí bảo vệ môi trường Thứ hai, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước đối với vấn đề BVMT ở KCN. - Thẩm định và phê duyệt báo cáo ĐTM Để một dự án được đi vào vận hành thì phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thẩm định và phê duyệt báo cáo ĐTM. Do vậy, các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực môi trường phải thực hiện việc kiểm tra, thẩm định các báo cáo trước khi đưa ra quyết định phê duyệt, tức là các cơ quan nhà nước đang thực hiện trách nhiệm của mình trong việc BVMT. Bởi đây là công việc các cơ quan có thẩm quyền đánh giá, xem xét dự án có đảm bảo việc bảo vệ môi trường hay không, có những tác động gì đến môi trường và việc các chủ dự án đưa ra các biện pháp phòng ngừa, giảm thiểu đó có đảm bảo tính khả thi trên thực tế, có phù hợp với các tiêu chuẩn, quy chuẩn mà pháp luật quy định. Việc quy định về thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM mới thúc đẩy quá trình lập báo cáo đảm bảo chất lượng và nghiêm túc hơn. Đối với tùy loại dự án mà thẩm quyền thẩm định phụ thuộc vào từng cơ quan nhà nước. Ví dụ đối với dự án xây dựng kết cấu hạ tầng KCN có diện tích từ 200 ha trở lên; dự án xây dựng cơ sở luyện gang, thép công suất từ 200.000 tấn sản phẩm/năm trở lên thuộc trách nhiệm thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM của Bộ tài nguyên và môi trường. Cơ quan có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt có trách nhiệm xem xét, phân tích nội dung của báo cáo ĐTM, các phần nội dung liên quan đến việc dự báo các tác động cũng như các biện pháp khắc phục có mang tính khả thi hay không và sau đó đưa ra ý kiến thẩm định để làm cơ sở cho việc phê duyệt báo cáo ĐTM. Công tác thẩm định và phê duyệt một phần ràng buộc nghĩa vụ BVMT ở các KCN, tạo sự chủ động trong vấn đề bảo vệ môi trường nơi hoạt động dự án đồng thời cũng hợp thức hóa quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, phát triển kinh tế- xã hội đi đôi với bảo vệ môi trường. - Trách nhiệm trong việc quản lý và xử lý chất thải, nước thải. 37
  45. Bộ tài nguyên và môi trường có trách nhiệm đề ra trình tự, thủ tục đăng ký, kiểm kê lượng chất thải, nước thải; ban hành các quy định về yêu cầu kỹ thuật, quy trình quản lý trong việc thu gom, phân loại, lưu giữ, vận chuyển và xử lý. Đồng thời chú trọng quy định việc sơ chế, tái sử dụng, tái chế các loại chất thải, nước thải có thể thực hiện để đảm bảo phòng ngừa, ngăn chặn phát sinh ra môi trường. - Thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về BVMT ở các KCN. Để việc thực hiện nghĩa vụ BVMT ở các KCN đảm bảo và đạt kết quả thì việc thanh tra môi trường là rất cần thiết. Thanh tra môi trường là trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước, bên cạnh việc đưa ra các quy phạm pháp luật thì để pháp luật đi vào đời sống cần phải tăng cường hơn nữa công tác thanh tra, kiểm tra. Theo đó, thanh tra việc thực hiện pháp luật về BVMT là quá trình hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định, phát hiện hành vi vi phạm pháp luật về BVMT để từ đó phòng ngừa, xử lý các hành vi vi phạm này tiếp diễn, đảm bảo hiệu lực của pháp luật và sự tôn nghiêm của các quy phạm pháp luật. Đồng thời thấy được tình hình thực hiện pháp luật của các chủ thể, trên cơ sở thực tế áp dụng để tìm ra được những vướng mắc, bất cập trong các quy định của pháp luật, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện. Và trong hoạt động thanh tra đó, thì việc thanh tra thực thi các quy định pháp luật về BVMT ở các KCN luôn được coi trọng. Theo Luật BVMT năm 2014 quy định việc kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về BVMT thuộc về trách nhiệm của Bộ trưởng bộ tài nguyên và môi trường; Bộ trưởng Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và Chủ tịch UBND cấp tỉnh xử lý các cơ sở công nghiệp gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng thuộc thẩm quyền quản lý, phát triển ngành công nghiệp và tổ chức triển khai thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực quản lý ngoài ra thì UBND cấp tỉnh cũng có trách nhiệm trong việc thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật. Nội dung thanh tra trong lĩnh vực BVMT tại các KCN tập trung vào việc chấp hành lập và thực thi các quy định về ĐTM hoặc đề án bảo vệ môi trường; 38
  46. xây dựng các công trình quản lý, xử lý các loại chất thải; chấp hành nộp phí bảo vệ môi trường đối; tỷ lệ diện tích đất được trồng cây, vườn hoa, sân cỏ trong KCN Với mục đích nhằm đánh giá đúng thực trạng tình hình quản lý, sử dụng đất, bảo vệ môi trường ở các KCN theo quy định của pháp luật; các cơ quan nhà nước có chức năng nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung kịp thời chính sách, pháp luật của nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về môi trường. Đồng thời, phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần đưa công tác quản lý nhà nước về môi trường ở KCN đạt kết quả. Khi thực hiện nhiệm vụ thanh tra thì cơ quan quản lý nhà nước có quyền yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp tài liệu, thông tin cần thiết cho việc thanh tra; tiến hành các biện pháp kiểm tra tại hiện trường và đặc biệt là khi phát hiện sai phạm trong việc BVMT, cơ quan quản lý nhà nước có quyền xử lý các vi phạm. Chính nhờ hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước mà các vi phạm được phơi bày, ngăn chặn các hành vi vi phạm nghiêm trọng hơn. Theo thống kê qua thanh tra, kiểm tra, năm 2014 đã phát hiện nhiều vụ vi phạm môi trường nghiêm trọng tại các khu kinh tế, KCN, cụm công nghiệp, làng nghề như nước thải chưa xử lý đổ ra sông, hệ thống thoát nước mưa, chôn lấp chất thải nguy hại không đúng quy định đã có 184 cơ sở bị xử phạt hành chính hơn 37 tỷ đồng, 37 cơ sở bị tạm đình chỉ hoạt động do gây ô nhiễm nghiêm trọng 9. Như vậy, có thể thấy rằng, từ việc phát hiện các vi phạm, cơ quan quản lý nhà nước về môi trường sẽ áp dụng pháp luật để đưa ra giải pháp nhằm ngăn chặn các hành vi đó cũng như giáo dục các chủ thể trong việc BVMT. Việc xử lý các vi phạm môi trường đòi hỏi phải đúng người, đúng tội, công khai, minh bạch và hơn hết mức độ xử phạt phải thích đáng so với hành vi vi phạm. Đây sẽ là một biện pháp BVMT hiệu quả nếu như việc sử dụng nó khách quan, đúng theo pháp luật. Điều này buộc các cơ quan quản lý có thẩm quyền phải thực hiện nghiêm ngặt việc thanh tra và xử lý nghiêm minh, đúng theo pháp luật để phần nào răn đe, giáo dục tất cả mọi người trong việc BVMT. 9 Khánh Khoa, Tập trung thanh tra môi trường khu kinh tế, khu công nghiệp, làng nghề, kinh-te-khu-cong-nghiep-lang-nghe, truy cập 14:15’ ngày 25/3/2016. 39
  47. 2.3. Thực trạng ô nhiễm môi trường và công tác quản lý môi trường khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội 2.3.1. Thực trạng ô nhiễm môi trường khu công nghiệp Hiện nay, về tình trạng môi trường ở Việt Nam có nhiều biến động. Mặc dù Nhà nước đã thực hiện rất nhiều chính sách BVMT và cũng đạt được nhiều kết quả, môi trường được cải thiện. Như mới đây, Thủ tướng Chính Phủ quyết định phân bổ 361,76 tỷ đồng từ nguồn chi sự nghiệp môi trường đã được bố trí trong dự toán ngân sách năm 2015 để hỗ trợ 27 tỉnh thực hiện các dự án xử lý ô nhiễm môi trường nghiêm trọng thuộc khu vực công ích10. Bên cạnh sự phát triển đó, thì cũng có những ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường. Theo kết quả nghiên cứu vừa qua tại Diễn đàn kinh tế thế giới Davos, Việt Nam nằm trong số 10 quốc gia có chất lượng không khí thấp và ảnh hưởng nhiều nhất đến sức khỏe. Không chỉ vậy, việc xử lý rác thải ở Việt Nam cũng gặp nhiều vấn đề như gây ô nhiễm nặng nguồn nước nhất là các nhánh sông Cầu, sông Nhuệ - Đáy và hệ thống sông Tiền và sông Hậu ở Tây Nam Bộ, ngoài ra, sông ở nhiều vùng nông thôn cũng đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm nặng nề do rác thải sinh hoạt, rác thải nông nghiệp, rác thải làng nghề, rác thải từ các khu công nghiệp vẫn đang ngày đêm xả thẳng ra môi trường. Có thể thấy, đến nay nguồn nước, bầu không khí bị ô nhiễm vô cùng nghiêm trọng. Và những bệnh mắc nhiều nhất khi người dân sống ở những nguồn ô nhiễm đó, thường là liên quan đến hô hấp như viêm họng, viêm phế quản hay các bệnh ngoài da Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Hàng năm theo thống kê của Bộ tài nguyên và môi trường, ước tính đến cuối năm 2015, trên cả nước có 304 khu công nghiệp được thành lập và trong số đó có khoảng 206 KCN đi vào hoạt động với tổng diện tích trên 57,9 ngàn ha; 97 KCN đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản, với tổng diện tích đất tự nhiên 26,1 ngàn ha11. 10 Chi Kiên, Hỗ trợ địa phương xử lý ô nhiễm môi trường, Home/Ho-tro-27-dia-phuong-xu-ly-o-nhiem-moi-truong/201512/17627.vgp, truy cập 20:35’ ngày 28/3/2016. 11 Quốc Bảo, Nhìn lại 5 năm phát triển các KCN, khu kinh tế, dinhhuong/tabid/65/articleType/ArticleView /articleId/1429/Nhn-li-5-nm-pht-trin-cc-KCN-KKT.aspx, truy cập 20:40’ ngày 29/3/2016. 40
  48. Kéo theo đó là tình trạng ô nhiễm môi trường KCN cũng đáng báo động hiện nay, chủ yếu là ô nhiễm môi trường nước, không khí và nguyên nhân gây ô nhiễm là do chất thải công nghiệp. Ví dụ như ở Ninh Bình người dân đang phải chịu cảnh ô nhiễm không khí do nhà máy nhiệt điện, các nhà máy vật liệu xây dựng, lò vôi gây ra; ở Hải Phòng, ô nhiễm không khí nặng ở khu nhà máy xi măng, nhà máy thủy tinh, sắt tráng men; hay tại thành phố Hồ Chí Minh theo thống kê từ năm 2010 đến 2012 được thực hiện trên địa bàn 24 quận/huyện với 826 nguồn thải, chỉ có khoảng 60% nguồn thải có hệ thống xử lý nước thải, các nguồn thải còn lại chỉ qua xử lý sơ bộ trước khi xả thải ra môi trường. Điều đáng lưu ý là trong số các nguồn thải được khảo sát thì có đến 44% các nguồn thải có lưu lượng nước thải từ 50m3/ngày đêm, đây là nguồn thải đóng góp đến 90% cả về lưu lượng và tải lượng ô nhiễm 12. Tại Hà Nội Thủ tướng Chính Phủ quyết định thành lập và theo phê duyệt quy hoạch chung xây dựng thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, thành phố Hà Nội sẽ có 33 KCN. Trong số đó 8 KCN đang hoạt động trong giai đoạn hiện nay, đó là KCN Thăng Long; KCN Nội Bài; KCN Nam Thăng Long; KCN Sài Đồng B; KCN Thạch Thất- Quốc Oai; KCN Phú Nghĩa và KCN Hà Nội- Đài Tư. Nhưng thời gian vừa qua, Thủ tướng Chính Phủ đã đồng ý chủ trương chuyển đổi chức năng KCN Hà Nội - Đài Tư thành khu đô thị tại quận Long Biên. 5 KCN đã có quyết định thành lập, đang trong giai đoạn triển khai xây dựng với tổng diện tích 1.265 ha bao gồm: KCN phụ trợ Nam Hà Nội; Phụng Hiệp ; 5 KCN có trong danh mục quy hoạch phát triển các KCN của cả nước đến năm 2020 nhưng đang trong giai đoạn lập quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch, với tổng diện tích khoảng 1.468 ha, bao gồm: KCN Bắc Thường Tín 13 Với số lượng lớn các doanh nghiệp kinh doanh nhiều loại ngành nghề khác nhau ở Hà Nội, không những gây xáo trộn về mặt xã hội mà còn làm ô 12 Hiện trạng và tác động của ô nhiễm môi trường tại TP.HCM và Việt Nam, tu-lieu/hien-trang-va-tac-dong-cua-o-nhiem-moi-truong-tai- tp-hcm-va-viet-nam_52_24196_1.html , truy cập 22:55’ ngày 29/3/2016. 13 Lan Anh, Hà Nội hiện có 19 khu công nghiệp và công nghệ cao, Báo trí thức trẻ, cao- 201312131233316504.chn, truy cập 13:00 ngày 4/4/2016. 41
  49. nhiễm trầm trọng môi trường tại thủ đô. Hoạt động của các KCN đang tạo ra nhiều thách thức lớn đối với môi trường và con người quanh khu vực. Theo thống kê, thực trạng ô nhiễm tại các KCN là rất lớn, tốc độ tăng trưởng này còn cao hơn rất nhiều so với các khu vực khác. Đặc biệt là ô nhiễm và chủ yếu là ô nhiễm môi trường nước, không khí do chất thải rắn, nước thải chứa nhiều hóa chất độc hại và khí thải công nghiệp, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống của người dân. Ô nhiễm môi trường không khí: Rất nhiều cơ sở gây ô nhiễm không khí, có khoảng 147 trên tổng số 400 cơ sở sản xuất tại Hà Nội có nguy cơ thải ra chất thải gây ô nhiễm không khí, khoảng 80.000 tấn khói bụi, 9000 tấn SO2, 19000 tấn khí NO2 14. Phần lớn xuất phát từ khói thải của các xe chuyên chở nguyên liệu và các ống thoát khí trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp. Chất lượng không khí suy giảm, nồng độ chất độc hại, bụi trong không khí vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 1- 2 lần, nhiều nơi vượt từ 5-7 lần. Điều này làm cho chất lượng không khí tại Hà Nội ngày càng xấu và có thể rơi vào mức nguy hại. Theo kết quả quan trắc định kỳ hàng năm về môi trường không khí xung quanh tại 9 vị trí trong KCN Thăng Long cho thấy thông số bụi vượt 1,3 lần so với QCVN 05:2013/BTNMT. Và ô nhiễm môi trường không khí tập trung nhiều ở các KCN cũ, bởi tại đây, các KCN còn sử dụng máy móc, thiết bị công nghệ sản xuất lạc hậu.Việc ô nhiễm này được người dân phản ánh: rất nhiều khi họ thường phải ngửi thấy những mùi chất liệu, hóa chất chạy máy móc hay mùi những sản phẩm công nghiệp Theo kết quả khảo sát chỉ số AQI (chỉ số dùng để đánh giá chất lượng không khí và khả năng tác động sức khỏe) tại Hà Nội vào tháng 3/2016 vừa qua có thời điểm chỉ số này lên tới 388, nồng độ bụi mịn PM2,5 cao gấp hơn 3 lần mức khuyến cáo theo quy chuẩn quốc gia về chất lượng không khí xung quanh và gấp 7 lần so với khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới 15. Con số thật đáng giật mình về 14 Nguyễn Thị Hằng, Chuyên đề môi trường ở các KCN, tr 12, Trường Cao đẳng Tài chính- Quản trị kinh doanh. 15 Nguyễn Hoài, Ô nhiễm không khí ở Hà Nội lên mức nguy hại, 976725.tpo, truy cập 16:05’ ngày 2/5/2016. 42
  50. chất lượng môi trường không khí tại Hà Nội. Mặc dù, hoạt động sản xuất công nghiệp không phải là nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng trên nhưng lượng khí thải xả trực tiếp ra môi trường tại các KCN lại độc hại hơn nhiều so với các nguồn thải khác. Ô nhiễm môi trường đất, nước: Không chỉ vậy, môi trường còn chịu tác động bởi một lượng lớn chất thải, nước thải công nghiệp chưa qua xử lý xả thải trực tiếp ra môi trường, ảnh hưởng không chỉ đến bầu không khí mà còn ảnh hưởng lớn đến môi trường nước, đất. Khoảng 70% trong số hơn một triệu mét khối nước thải ngày, đêm phát sinh từ các khu công nghiệp được xả thẳng ra môi trường mà không qua xử lý 16. Với chất thải rắn công nghiệp nguy hại và chất thải rắn thông thường, theo số liệu thống kê mới đây cho thấy, tổng khối lượng chất thải rắn công nghiệp trên địa bàn thành phố, trung bình mỗi ngày thải ra khoảng 750 tấn, trong đó, khoảng 653 tấn chất thải rắn thông thường không nguy hại và chất thải công nghiệp nguy hại khoảng 97-112 tấn/ngày. Tuy nhiên, công tác thu gom chất thải rắn công nghiệp mới đạt được khoảng 637- 675 tấn/ngày, đạt 85-90% và xử lý được khoảng 382-405 tấn/ngày. Riêng chất thải công nghiệp nguy hại chỉ thu gom được khoảng 58-78,4 tấn/ngày, chiếm 60- 70% 17. Hằng ngày, lượng chất thải rắn có nhiều thành phần phức tạp, khó phân hủy cũng có khi được xả trực tiếp ra môi trường khiến những khoảng đất trống giờ trở thành những nơi chứa đựng phế thải của các KCN mà không thể khai thác, sử dụng được. Tình trạng này diễn ra khiến hàng chục hécta đất nông nghiệp quanh KCN bị bỏ hoang; lúa, hoa màu canh tác bị ảnh hưởng tới năng suất, chất lượng. Có bao dòng sông chết ở Hà Nội vì ngập ngụa chất thải, nước thải công nghiệp theo ống cống đổ ra như Tô Lịch, sông Nhuệ Với màu nước đen, đục ngàu khiến bao sinh vật không thể tồn tại, bốc mùi hôi thối ảnh hưởng đến người dân sống quanh đó. Mà nguyên nhân một phần cũng từ việc xả thải của các 16 Hồng Thúy, Vấn nạn ô nhiễm từ KCN, van-nan-o-nhiem-tu-khu- cong-nghiep-post135954.html, truy cập 0:12’ ngày 7/4/2016. 17 Văn quyết, Bảo vệ môi trường ở Hà Nội: Bằng hành động thiết thực, hiệu quả, truy cập 1:25’ ngày 7/4/2016 43
  51. doanh nghiệp trong KCN như KCN Nội Bài, nước thải sinh hoạt của một số nhà máy được thu gom xử lý tập trung trong khi nước thải sản xuất chứa nhiều dầu mỡ, kim loại nặng thì lại do các nhà máy tự xử lý và có khi xả thải ra môi trường, tại KCN Thạch Thất - Quốc Oai, trạm xử lý nước thải đang hoạt động có công suất 1.500 m3/ngày đêm. Trong khi đó, tổng lượng nước thải của cả khu công nghiệp là 10.000 m3/ngày đêm18. Câu hỏi đặt ra, vậy lượng nước thải còn lại được quản lý như thế nào, xử lý ra sao? Mà các chất có trong nước thải xả ra môi trường rất độc hại có thể kể đến như các hóa chất, acil, thủy ngân, dầu mỡ công nghiệp Trước những thực trạng trên thì ô nhiễm môi trường càng trở thành một vấn đề cấp bách, mang tính toàn cầu. Nó không những làm ô nhiễm, suy thoái môi trường mà còn đe dọa trực tiếp đến các thành quả về phát triển kinh tế – xã hội, cũng như ảnh hưởng khá lớn đến đời sống, sức khỏe con người và đặc biệt là quyền con người được sống trong môi trường trong lành được ghi nhận tại Điều 43, Hiến pháp năm 2013 đã bị xâm phạm. Ô nhiễm nguồn nước tác động chủ yếu đến nguồn nước uống, sinh hoạt, thực phẩm bẩn, chất hóa học và gây ra các bệnh nguy hiểm như ung thư; viêm nhiễm, các bệnh ngoài da. Không khí ô nhiễm có thể gây ra các bệnh về đường hô hấp, bệnh tim mạch, viêm họng, đau ngực, tức thở Điều này khiến cho bao người dân vô cùng bức xúc, có bao trường hợp gửi đơn tố cáo, khiếu nại tới cơ quan có thẩm quyền để ngăn chặn phần nào nguồn gây ô nhiễm, cũng có trường hợp người dân tự mình thực hiện như trường hợp cuối năm 2015, người dân Bình Thuận đã phải chặn đường không cho xe đổ rác vào bãi vì quá ô nhiễm. 2.3.2. Công tác quản lý môi trường trên địa bàn thành phố Hà Nội Quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như phát triển bền vững kinh tế- xã hội quốc gia . Tại Hà Nội, công tác quản lý môi trường luôn hướng tới mục tiêu bảo vệ môi trường; khắc phục, chống 18 Hạnh Nguyễn và Đắc Sơn, Nước thải đầu độc môi trường, Báo nhân dân trên /hanoi/tin-moi-nhan/item/23681002-nuoc-thai-dau-doc-moi- truong.html , truy cập 9:00 ngày 8/4/2016 44
  52. suy thoái, ô nhiễm môi trường; bảo vệ sự đa dạng sinh học; phát triển kinh tế- xã hội gắn chặt với việc bảo vệ môi trường. Trên cơ sở đó, Hà Nội cũng thực hiện công tác quản lý môi trường KCN nói riêng để đảm bảo công tác BVMT đạt kết quả như: Thứ nhất, quản lý môi trường bằng pháp luật và chính sách. Hệ thống pháp luật BVMT nước ta khá phong phú, gồm rất nhiều văn bản pháp luật quy định về các biện pháp BVMT xung quanh; việc khắc phục ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường cũng như việc giữ gìn đa dạng sinh học và tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên. Riêng công tác BVMT ở các KCN cũng được quy định cụ thể trong Luật BVMT năm 2014; Nghị định; Thông tư Điều đó buộc các doanh nghiệp phải thực hiện các quyết sách và hành động của mình theo đúng với tinh thần pháp luật. Trong nhiều năm qua công tác BVMTnói chung và ở KCN nói riêng đã đạt được kết quả bước đầu đáng ghi nhận. Các Bộ, các cấp, các ngành đã quan tâm nhiều hơn đến nghĩa vụ BVMT, đã thúc đẩy việc cải thiện môi trường. Thành phố đã chú trọng đầu tư cho công tác kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường nên hầu hết các chỉ tiêu trong 5 năm qua đều đạt so với kế hoạch. Chất lượng môi trường đã được cải thiện rõ rệt, nhất là tại các khu công nghiệp, làng nghề. Hầu hết từ khi văn bản pháp luật mới được ban hành, các KCN có trách nhiệm hơn trong việc BVMT, ý thức BVMT từ ban quản lý, nhà đầu tư đến chủ các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong KCN cũng ngày được nâng cao. Tất cả các KCN trên địa bàn thành phố Hà Nội đều đã thực hiện việc xây dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung theo quy định của pháp luật. Công tác thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM được coi trọng. Bên cạnh việc thực hiện theo các quy định của pháp luật thì đến nay thành phố đã đưa ra rất nhiều kế hoạch, đề án, chiến lược, chương trình BVMT. Hằng năm, UBND thành phố luôn tổ chức việc báo cáo công tác quản lý môi trường để chỉ ra những thành quả cũng như những mặt còn hạn chế để khắc phục. Về công tác BVMT ở KCN, thành phố đã đề ra rất nhiều kế hoạch, chiến lược như Kế hoạch quản lý ô nhiễm môi trường công nghiệp đến năm 2015; Quy hoạch xử lý chất thải rắn thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn năm 2050 được Thủ tướng 45
  53. Chính Phủ phê duyệt năm 2014; Kế hoạch thực hiện chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 trên địa bàn thành phố Hà Nội Theo tinh thần này, các KCN đang hoạt động phải có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đến năm 2020 phải đạt con số 100%. Về vấn đề này thì đến năm 2015, tất cả các KCN đang hoạt động tại thành phố đã đảm bảo có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Thành phố đang thiết lập hành lang bảo vệ nguồn nước; phòng ngừa, ngăn chặn và kiểm soát nguồn gây ô nhiễm, các khu vực gây ô nhiễm môi trường; kiểm soát ô nhiễm, xử lý chất thải Năm 2014 đến nay, ban quản lý KCN đã phối hợp cùng sự giúp đỡ của Sở tài nguyên và môi trường, Sở công thương đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án xử lý nước thải ở các KCN; phối hợp với các huyện ngoại thành hướng dẫn quy trình xử lý chôn lấp rác thải có kiểm soát, hợp vệ sinh; triển khai đầu tư các dự án xây dựng nhà máy đốt rác thải công nghiệp tại Nam Sơn; dự án xây dựng ô chôn lấp rác thải theo công nghệ chôn lấp bán hiếu khí Fukuoka - Nhật Bản; Điều này đã giúp cho thành phố giải quyết được phần nào vấn đề về rác thải. Để nâng cao hiệu lực quản lý môi trường hơn nữa, đến năm 2016, Sở tài nguyên môi trường tiếp tục triển khai nhiều chương trình công tác như dự án đầu tư xử lý nước thải đặc biệt là thực hiện công tác quản lý chất thải sinh hoạt trên địa bàn 17 huyện ngoại thành Về công tác kiểm tra, thanh tra việc chấp hành các quy định pháp luật về BVMT ở các KCN cũng được tiến hành thường xuyên và nghiêm ngặt hơn. Trong giai đoạn 2011-2015, tổng số cơ sở sản xuất kinh doanh được kiểm tra tại các cấp tăng dần từ 1631 cơ sở (năm 2013) lên 1916 cơ sở (năm 2014); phát hiện và xử phạt vi phạm hành chính từ 15-30% số doanh nghiệp được kiểm tra mỗi năm19. Cụ thể, chỉ trong vòng 1 năm từ năm 2012 đến năm 2013, tiến hành thanh tra đối với 42 cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn quận Long Biên và huyện Gia Lâm, đã phát hiện một số cơ sở sản xuất không có hệ thống xử lý 19 H.Hải, Nâng cao hiệu lực, hiệu quả BVMT: Đồng bộ nhiều giải pháp, cổng giao tiếp điện tử thành phố Hà Nội, /hn/ZVOm7e3VDMRM/3/2756427/25/25/20.html;jsessionid=hwQUxRNoGiA8Nh5VuzQ 0OPix.app2, truy cập 10:00 ngày 15/4/2016. 46