Khóa luận Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam trong bối cảnh tái cơ cấu ngân hàng hiện nay

pdf 69 trang thiennha21 16/04/2022 6401
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam trong bối cảnh tái cơ cấu ngân hàng hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_phap_luat_ve_bao_ve_quyen_loi_nguoi_gui_tien_tai_n.pdf

Nội dung text: Khóa luận Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam trong bối cảnh tái cơ cấu ngân hàng hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT Phùng Thị Khánh Linh PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI GỬI TIỀN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TÁI CƠ CẤU NGÂN HÀNG HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH LUẬT KINH DOANH Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2012-LKD HÀ NỘI, 2016 1
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Khóa luận này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Khóa luận chưa từng được công bố trong bất kì công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Khóa luận đảm bảo tính tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Do vậy, tôi viết lời cam đoan này mong Khoa luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Khóa luận Tôi xin chân thành cảm ơn! Người cam đoan Phùng Thị Khánh Linh 2
  3. LỜI CẢM ƠN Đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy cô, cán bộ giảng viên Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội trong suốt 4 năm học đã chỉ bảo tận tình, luôn tạo điều kiện tốt nhất để em có thể học hỏi, tích lũy kinh nghiệm, kiến thức, kỹ năng cần thiết để hoàn thành khóa luận. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Nguyễn Thị Thuận, người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình cũng như đóng góp nhiều ý kiến quý báu trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện Khóa luận tốt nghiệp. Do những hạn chế về mặt thời gian nghiên cứu cũng như kiến thức chuyên môn nên những trình bày trong Khóa luận này không thể tránh được những thiếu sót. Em kính mong nhận được sự góp ý của các thầy, cô và bạn bè để Khóa luận được hoàn thiện. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2016 Sinh viên Phùng Thị Khánh Linh 3
  4. MỤC LỤC MỤC LỤC 4 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 7 MỞ ĐẦU 8 1. Tính cấp thiết của đề tài 8 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 9 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 9 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 10 5. Phương pháp nghiên cứu 10 6. Kết cấu của đề tài 10 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGƯỜI GỬI TIỀN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ NGƯỜI GỬI TIỀN 12 1.1. Khái niệm và đặc điểm của người gửi tiền 12 1.1.1. Khái niệm của người gửi tiền 12 1.1.2. Đặc điểm của người gửi tiền 13 1.1.3. Quyền lợi của người gửi tiền 16 1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền 18 1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền 18 1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền 19 1.2.3. Nội dung pháp luật bảo vệ quyền lợi người gửi tiền 20 1.3. Vai trò của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền 23 1.4. Bối cảnh tái cơ cấu ngân hàng ở Việt Nam vài năm gần đây 24 4
  5. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI GỬI TIỀN 28 2.1. Pháp luật về phòng tránh rủi ro và đảm bảo an toàn cho người gửi tiền tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam 28 2.2. Pháp luật về cơ quan bảo vệ người gửi tiền tại Ngân hàng thương mại Việt Nam 34 2.2.1. Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV) 34 2.2.2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 38 2.2.3. Các cơ quan Nhà nước khác 39 2.3. Pháp luật về phương thức giải quyết tranh chấp giữa Ngân hàng thương mại Việt Nam và người gửi tiền 43 2.4. Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền trong trường hợp ngân hàng thương mại chấm dứt hoạt động 46 2.4.1. Trường hợp chia ngân hàng thương mại 47 2.4.2. Trường hợp tách ngân hàng thương mại 47 2.4.3. Trường hợp hợp nhất ngân hàng thương mại 48 2.4.4. Trường hợp sáp nhập ngân hàng thương mại 50 2.4.5. Trường hợp giải thể ngân hàng thương mại 51 2.4.6. Trường hợp ngân hàng thương mại phá sản 51 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI GỬI TIỀN 54 3.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền 54 3.1.1. Ban hành luật bảo vệ quyền lợi người gửi tiền 54 3.1.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hợp đồng gửi tiền 55 5
  6. 3.1.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật đối với giải quyết tranh chấp giữa người gửi tiền và ngân hàng thương mại. 56 3.1.4. Hoàn thiện quy định pháp luật về việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền trong trường hợp ngân hàng thương mại chấm dứt hoạt động 57 3.1.5. Tăng hạn mức chi trả tiền gửi và có chính sách phù hợp để thu hút tiền gửi ngoại tệ và vàng 58 3.2. Giải pháp nhằm thực thi hiệu quả nhất các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền 60 3.2.1. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền 60 3.2.2. Nâng cao trình độ cán bộ, nhân viên của các tổ chức tín dụng và các cơ quan có liên quan về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền 61 3.2.3. Tăng cường kiểm tra, giám sát các cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền 62 KẾT LUẬN 64 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 64 6
  7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BHTG Bảo hiểm tiền gửi DIV Cơ quan bảo hiểm tiền gửi Việt Nam NHNN Ngân hàng Nhà nước Việt Nam NHTM Ngân hàng thương mại TCTD Tổ chức tín dụng 7
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới. Cùng với đó là sự tham gia đầy đủ của các loại hình ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài. Đây là cơ hội, động lực thúc đẩy sự phát triển, cải cách hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện gia tăng việc thu hút nguồn tiền nhàn rỗi từ trong các tầng lớp nhân dân thông qua các dịch vụ ngân hàng, tài chính hiện đại. Song, quá trình đó tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các ngân hàng, dần lộ ra những ngân hàng yếu kém còn đang có nguy cơ “sụp đổ” do không chống chọi nổi trong điều kiện thị trường cạnh tranh quá gay gắt. Trước tình hình đó, NHNN đưa ra vấn đề trọng tâm của ngành ngân hàng là việc tái cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, trong đó việc đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền đặt ra nhiều vấn đề cũng như được nhiều người quan tâm. Đây có thể coi là phương án rất tốt nhằm gia tăng niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng bởi hệ thống ngân hàng có vững mạnh thì số tiền mà người gửi tiền gửi vào NHTM mới được an toàn, quyền lợi trước mắt của họ mới được đảm bảo. Nhưng để hệ thống ngân hàng luôn được “an toàn” thì điều kiện tiên quyết đó là phải xây dựng được hệ thống các quy định pháp luật chặt chẽ nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Hiện nay các quy định pháp lý về bảo vệ người gửi tiền chưa được quan tâm và hoàn thiện đúng ứm c, chưa có một văn bản pháp lý nào quy định một cách có hệ thống và cụ thể về việc bảo vệ quyền, lợi ích của người gửi tiền. Một số các quy định đã ban hành lại nằm rải rác và không thống nhất tại một văn bản pháp lý chuyên ngành nào, gây nhiều khó khăn cho việc quản lý điều hành, cho cơ quan tổ chức liên quan cũng như cho người gửi tiền. Để phù hợp với xu thế hội nhập đang diễn ra sâu rộng trong nền kinh tế Việt Nam nói chung và trong hệ thống ngân hàng nói riêng, bảo về quyền và lợi 8
  9. ích hợp pháp của người gửi tiền việc cần thiết phải nghiên cứu, đề xuất, góp ý sửa đổi quy định pháp luật về bảo về quyền lợi của người gửi tiền là nhiệm vụ bấp bách và cần thiết. Do đó, em đã chọn đề tài Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam trong bối cảnh tái cơ cấu ngân hàng hiện nay làm đề tài khóa luật tốt nghiệp nhằm góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về chủ thể quan trọng này trong hoạt động ngân hàng tại Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Một số nghiên cứu về bảo vệ người gửi tiền nhưng tập trung chủ yếu vào vai trò của tổ chức BHTG dưới dạng luận văn, luận án, các bài nghiên cứu hay bài báo, tạp chí. Vấn đề bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại các ngân hàng thương mại nói riêng và trong hệ thống các ngân hàng cổ phần nói chung trong bối cảnh tái cơ cấu ngân hàng đang diễn ra rất mạnh Việt Nam cũng đã được đề cập tại một số khóa luận tốt nghiệp nhưng chủ yếu là nghiên cứu dước góc độ kinh tế. Trên cơ sở tập trung nghiên cứu pháp luật về việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền khóa luật nghiên cứu từ góc độ lý luận cũng như thực trạng pháp luật về đối tượng này để qua đó đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền trong bối cảnh tái cơ cấu ngân hàng như hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền cũng như sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi người gửi tiền và đưa ra các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại NHTM Việt Nam. Nhiệm vụ của khóa luận: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại NHTM Việt Nam 9
  10. - Nghiên cứu thực trạng việc áp dụng pháp luật bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại NHTM ở Việt Nam, cho thấy những bất cập còn tồn tại và từ đó nêu ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật quy định về vấn đề này. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật hiện hành về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại Việt Nam. Trên cơ sở phân tích, đánh giá, nhận xét về các điểm mạnh và những điểm chưa được của các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật, từ đó đề xuất các giải pháp để xây dựng pháp luật về vấn đề này ngày càng hoàn thiện hơn. Phạm vi nghiên cứu: - Về không gian: đề tài nghiên cứu pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền trong phạm vi các NHTM tại Việt Nam - Về thời gian: trong phạm vi của khóa luận không thể nghiên cứu hết tất cả tình hình pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền từ trước đến nay nên đề tài tập trung nghiên cứu trong thời gian từ năm 2010 tới nay. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, sinh viên đã sử dụng phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lê nin dựa trên đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước. Đề tài cũng kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê . kết hợp nhuần nhuyễn kiến thức giữa lý luận và thực tiễn nhằm làm sáng tỏ vấn đề. 6. Kết cấu của đề tài Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Mục lục, Phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm ba chương sau: 10
  11. Chương 1: Khái quát chung về người gửi tiền và pháp luật về bảo vệ người gửi tiền Chương 2: Thực trạng pháp luật việt nam về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền Chương 3: Kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật và thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền 11
  12. CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGƯỜI GỬI TIỀN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ NGƯỜI GỬI TIỀN 1.1. Khái niệm và đặc điểm của người gửi tiền 1.1.1. Khái niệm của người gửi tiền Người gửi tiền là đối tượng quan trọng mà mỗi ngân hàng đều phải quan tâm, bởi lẽ không có người gửi tiền thì các ngân hàng không đủ vốn để tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình. Vì vậy, để đảm bảo khả năng phát triển của mình, các ngân hàng phải luôn quan tâm đến nhu cầu, sở thích của người gửi tiền để thu hút số tiền gửi của đối tượng này. Đặc biệt trong thời điểm hiện nay, khi mà người gửi tiền có rất nhiều sự lựa chọn để đảm bảo về sự an toàn cũng như hưởng lợi được cao nhất cho số tiền của mình. Điều này đã dấy lên sự cạnh tranh gay gắt cũng như rất sôi động giữa các ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Để hiểu về pháp luật bảo vệ quyền lợi người gửi tiền trước hết phải làm rõ khái niệm người gửi tiền. Tuy nhiên, hiện nay, pháp luật Việt Nam vẫn chưa có một văn bản chính thức nào đưa ra khái niệm cụ thể thế nào là người gửi tiền. Người gửi tiền được hiểu thông thường là người có một khoản tiền gửi vào tài khoản của họ tại các ngân hàng hay các tổ chức tín dụng. Vậy thì ta cũng cần phải hiểu tiền gửi là gì? Có rất nhiều quan điểm khác nhau về tiền gửi. Cũng còn tùy mục đích của người gửi tiền mà tiền gửi còn chia thành các loại khác nhau, nhưng thường sẽ có hai loại tiền gửi chính theo mục đích của người gửi tiền là: tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh toán. Theo định nghĩa tại Điều 6 Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN, quy định: “người gửi tiền là người thực hiện giao dịch liên quan đến tiền gửi tiết kiệm. Người gửi tiền có thể là chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm, hoặc đồng chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm, hoặc người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật của chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm, của đồng chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm”. Nếu theo mục đích thanh toán, cơ bản có thể hiểu tiền gửi là tiền mà 12
  13. người gửi không nhằm mục đích hưởng lãi và chỉ nhằm mục đích sử dụng các tiện ích thanh toán của loại tiền gửi này. Luật TCTD năm 2010 không sử dụng khái niệm tiền gửi mà sử dụng khái niệm “hoạt động nhận tiền gửi”. Theo khoản 13, Điều 4, Luật các TCTD năm 2010 quy định: “nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận”. Từ những cách tiếp cận trên có thể rút ra định nghĩa khái niệm tiền gửi như sau: tiền gửi là tất cả các khoản tiền của tổ chức, hoặc cá nhân gửi tại tổ chức nhận tiền gửi (không phân biệt mục đích, kỳ hạn, đối tượng) theo quy định của pháp luật phù hợp với mục đích và yêu cầu của khách hàng và của chính TCTD đó. Từ đây có thể thấy mối quan hệ mật thiết giữa người gửi tiền và tiền gửi và quan hệ giữa người gửi tiền và các tổ chức tín dụng. Có thể coi quan hệ giữa người gửi tiền và các tổ chức tín dụng như là một hợp đồng đặc biệt hay đơn giản chỉ là một thỏa thuận giữa các bên cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên khi gửi tiền và nhận tiền gửi. Với đặc điểm như trên, cần phải đặt người gửi tiền vào vị trí của người sử dụng dịch vụ ngân hàng, hay người “mua hàng”, hay là “khách hàng” chứ không phải là người “bán hàng” trong quan hệ với ngân hàng. Từ những phân tích trên, có thể hiểu một cách chung nhất, người gửi tiền là các cá nhân, tổ chức có một khoản tiền gửi tại các TCTD dưới một hình thức nhất định theo như các bên thỏa thuận phù hợp với mục đích, yêu cầu của khách hàng theo quy định của pháp luật. 1.1.2. Đặc điểm của người gửi tiền Thứ nhất, người gửi tiền có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Cá nhân và các tổ chức là hai chủ thể gửi tiền chính ở các TCTD. Thông thường khi gửi tiền tại các TCTD thì các cá nhân hay tổ chức thường 13
  14. nhằm mục đích tiết kiệm hay thanh toán. Theo quy định tại điểm a,b khoản 2 điều 2 quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN ngày 21 tháng 11 năm 2002 của Ngân hàng Nhà nước thì: ngân hàng mở tài khoản tiền gửi cho các đối tượng sau: cá nhân là công dân Việt nam, cá nhân nước ngoài có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự; tổ chức Việt nam, tổ chức nước ngoài được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật. Cũng theo quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước số 1160/2004/QĐ- NHNN ngày 13 tháng 9 năm 2004 về việc ban hành quy chế tiền gửi tiết kiệm quy định tại điều 7: Điều kiện thực hiện các giao dịch liên quan đến tiền gửi tiết kiệm: (1) Cá nhân Việt Nam từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, cá nhân nước ngoài đang sinh sống và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; (2) Cá nhân Việt Nam, cá nhân nước ngoài đang sinh sống và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi nhưng có tài sản riêng đủ để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của pháp luật. Từ đây có thể rút ra kết luận chung về người gửi tiền qua hai quy chế này: Cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của Bộ Luật dân sự được thực hiện mọi giao dịch, còn người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật thì chỉ được thực hiện các giao dịch thông qua người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật. Như vậy, mọi cá nhân đều có thể gửi tiền vào các ngân hàng tùy theo mục đích của mình: thanh toán hoặc tiết kiệm. Còn người gửi tiền là tổ chức là các doanh nghiệp, cơ quan, đoàn thể, đơn vị vũ trang Việt Nam được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt nam và các tổ chức nước ngoài được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật nước mà tổ chức đó được thành lập. 14
  15. Thứ hai, mục đích của người gửi tiền tại NHTM rất khác nhau và phụ thuộc vào đặc điểm của từng loại tiền gửi mà họ sử dụng. Mục đích của người gửi tiền thường gồm có mục đích thanh toán và tiết kiệm. Với mục đích thanh toán, người gửi tiền chỉ dùng để gửi tiền qua ngân hàng cho hoạt động thanh toán, có thể là thanh toán quốc tế hay thanh toán trong nước. Tiền gửi thanh toán là loại hình tiền gửi không kỳ hạn được sử dụng với mục đích chủ yếu là thực hiện các giao dịch thanh toán qua Ngân hàng bằng các phương tiện thanh toán như: séc lĩnh tiền mặt, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, chuyển tiền điện tử Trong trường hợp này ngân hàng là trung gian thanh toán cho bên mua và bên bán. Việc thanh toán này mang lại cho ngân hàng một khoản như là tiền phí mà ngân hàng làm trung gian thanh toán này. Với mục đích tiết kiệm gồm: tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm, được xác nhận trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định của tổ chức nhân tiền gửi tiết kiệm và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về BHTG. Tiền gửi có kỳ hạn: đối tượng sử dụng loại hình dịch vụ này thường là các doanh nghiệp, cơ quan, công ty, các tổ chức có lượng tiền dư nhàn rỗi trong một khoảng thời gian nhất định, mà chưa có nhu cầu sử dụng đến. Nếu để tại quỹ của cơ quan thì nguồn tiền này sẽ không sinh lời, do đó cơ quan xí nghiệp này sẽ làm một hợp đồng tiền gửi (không phải sổ tiết kiệm) với ngân hàng trong khoảng thời gian nhất định (có kỳ hạn) có thể là một tuần, hai tuần, hoặc một hay hai tháng Tùy vào kỳ hạn mà chủ doanh nghiệp chọn để có mức lãi suất tương ứng. Số tiền gửi sẽ hưởng lãi suất tương ứng với kỳ hạn đó. Tiền gửi không kỳ hạn: là tiền gửi khách hàng được gửi, rút nhiều lần và hưởng lãi suất không kỳ hạn theo số dư mỗi ngày. 15
  16. 1.1.3. Quyền lợi của người gửi tiền Khi thực hiện việc gửi tiền vào ngân hàng thì người gửi tiền luôn có những quyền lợi do pháp luật quy định và ngân hàng phải thực hiện. Tuy nhiên, quyền lợi của khách hàng chỉ được đảm bảo khi ngân hàng thực hiện đúng các theo yêu cầu thanh toán của mình trong thời gian đó khi họ gửi tiền nhằm mục đích thanh toán hoặc được đảm bảo số vốn an toàn và có lãi khi mục đích của họ là gửi tiết kiệm hoặc có kỳ hạn. Vậy có thể hiểu quyền lợi của người gửi tiền là quyền được hưởng những lợi ích mà ngân hàng phải đảm bảo để thỏa mãn nhu cầu của khách hàng phát sinh từ giao dịch gửi tiền. Các quyền cơ bản của người gửi tiền bao gồm: Một là, quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản: Khi gửi tiền vào ngân hàng, khách hàng phải có mục đích nhất định có thể là mục đích an toàn và sinh lời, có thể là mục đích thanh toán, mục đích chuyển khoản và tất cả mục đích đó phải được ngân hàng đảm bảo để thỏa mãn quyền của người gửi tiền. Hai là, quyền được an toàn: là quyền được bảo đảm số tiền đó an toàn, tránh sự mất mát, rủi ro. Đến thời hạn rút tiền, ngân hàng phải đảm bảo cho khách hàng nhận số tiền gốc và lãi suất theo thỏa thuận trong hợp đồng tiền gửi. Ba là, quyền được cung cấp thông tin: người gửi tiền được quyền có các số liệu cần thiết để trên cơ sở đó lựa chọn việc thực hiện giao dịch của mình. Bốn là, quyền được lựa chọn: người tiêu dung đ ược tự do lựa chọn sản phẩm phù hợp với yêu cầu của mình. Năm là, quyền được đại diện: người gửi tiền được đưa ra các ý kiến với đại diện của mình trong việc hoạch định các chính sách của Chính phủ trong phát triển chính sách tiền tệ. Sáu là, quyền được khiếu nại và bồi thường thiệt hại: người gửi tiền được quyền khiếu nại với ngân hàng đã gây ra thiệt hại cho mình. 16
  17. Tiền mà người gửi tiền luôn được bảo hiểm hay bảo đảm theo Luật bảo hiểm tiền gửi (BHTG) 2012. Theo Điều 6 Luật BHTG thì Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi của cá nhân phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, trừ ngân hàng chính sách không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi. Do đó, khi mà người gửi tiền gửi tiền vào ngân hàng thì đồng nghĩa với việc số tiền đó được bảo hiểm hay người gửi tiền là người được bảo hiểm tiền gửi. Điều 11 Luật BHTG quy định người gửi tiền: (i) Được bảo hiểm số tiền gửi của mình tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi; (ii) Được nhận tiền bảo hiểm đầy đủ và đúng thời hạn; (iii) Yêu cầu tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức bảo hiểm tiền gửi cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin, chế độ về bảo hiểm tiền gửi; (iv) Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật; (v) Có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin về tiền gửi theo yêu cầu của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức bảo hiểm tiền gửi khi thực hiện thủ tục trả tiền bảo hiểm”. Tuy nhiên, quyền lợi của người gửi tiền có được đảm bảo hay không cũng một phần phụ thuộc vào việc ngân hàng có thực hiện đúng nghĩa vụ của mình hay không. Do đó để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, Nhà nước phải quy định cụ thể trách nhiệm của các ngân hàng đối với khách hàng và được thể hiện trong điều 10 luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 bao gồm: Thứ nhất, tham gia tổ chức bảo toàn, bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật và công bố công khai việc tham gia tổ chức bảo toàn, bảo hiểm tiền gửi tại trụ sở chính và chi nhánh. Hai là, tạo thuận lợi cho khách hàng gửi và rút tiền, bảo đảm thanh toán đủ, đúng hạn gốc và lãi của các khoản tiền gửi. Ba là, từ chối việc điều tra, phong tỏa, cầm giữ, trích chuyển tiền gửi của khách hàng, trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc được sự chấp thuận của khách hàng. 17
  18. Bốn là, thông báo công khai lãi suất tiền gửi, phí dịch vụ, các quyền, nghĩa vụ của khách hàng đối với từng loại sản phẩm, dịch vụ đang cung ứng. Năm là, công bố thời gian giao dịch chính thức và không được tự ý ngừng giao dịch vào thời gian đã công bố. Trường hợp ngừng giao dịch trong thời gian giao dịch chính thức, ngân hàng thương mại phải niêm yết tại nơi giao dịch chậm nhất là 24 giờ trước thời điểm ngừng giao dịch. Ngân hàng không được phép ngừng giao dịch quá 01 ngày làm việc, trừ trường hợp tạm ngừng hoạt động do nguyên nhân bất khả kháng. 1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền 1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền Pháp luật là hệ thống những qui tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển. Pháp luật được biểu hiện cụ thể là những qui phạm pháp luật. Do vậy, nó cũng là qui tắc xử sự chung cho phạm vi cá nhân hoặc tổ chức nhất định. Pháp luật được Nhà nước ban hành hay thừa nhận không chỉ dành riêng cho một cá nhân, tổ chức cụ thể mà áp dụng cho tất cả các chủ thể. Mối quan hệ giữa người gửi tiền và ngân hàng được xây dựng trên nguyên tắc tự do, thỏa thuận và bình đẳng. Tuy nhiên, trong quan hệ này, có thể do thiếu thông tin hoặc hạn chế về pháp luật nên nhiều quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền bị xâm hại nghiêm trọng. Trong điều kiện như vậy, cần phải có những quy phạm pháp luật cụ thể để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người gửi tiền. Vậy có thể hiểu pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền là: tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, điều chỉnh quan hệ giữa người gửi tiền và ngân hàng nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Ở Việt Nam, pháp luật bảo vệ quyền lợi người gửi tiền có mối 18
  19. liên quan với nhiều ngành luật khác nhau và nằm trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau như Luật NHNN, Luật các TCTD, Luật BHTG, Bộ luật dân sự 1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền Thứ nhất, pháp luật bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại ngân hàng điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giao dịch gửi tiền giữa các bên. Đúng như theo tinh thần của khái niệm thì pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại ngân hàng do nhà nước ban hành. Pháp luật được ban hành dựa trên nhu cầu tất yếu trong từng lĩnh vực, do đó, khi có giao dịch giữa người gửi tiền và ngân hàng thì pháp luật điều chỉnh quan hệ phát sinh giữa hai bên được ban hành để đảm bảo cho quyền và nghĩa vụ của hai bên được đảm bảo, và nhất là quyền lợi của người gửi tiền. Thường thì pháp luật sinh ra để bảo vệ quyền lợi cho bên yếu thế hơn, và bắt buộc bên có lợi thế hơn phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Trong giao dịch giữa ngân hàng và người gửi tiền thì người gửi tiền là bên yếu thế hơn, do người gửi tiền tuy có tiền mang đi gửi tại ngân hàng để thực hiện mục đích của mình, đồng thời hai bên đều có thỏa thuận dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tự do. Tuy nhiên, người gửi tiền có thể không nắm hết hay hiểu rõ về pháp luật điều chỉnh cũng như các thông tin liên quan đến việc gửi tiền nên có thể bỏ qua nhiều quyền lợi mà không hay biết. Thứ hai, pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền được hợp thành bởi nhiều quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau (pháp luật dân sự, pháp luật ngân hàng, pháp luật tài chính ). Hiện nay, ở nước ta chưa có riêng Luật bảo vệ người gửi tiền mà hệ thống quy phạm pháp luật này nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Chúng được quy định tại Luật NHNN, Luật các TCTD, Bộ luật dân sự, Luật BHTG và các các bản hướng dẫn thi hành Do đó thực hiện pháp luật về bảo vệ người gửi tiền là thực hiện các quy định trong các văn bản khác nhau, là trách nhiệm của các 19
  20. chủ thể khác nhau trong xã hội. Chính vì vậy để thực hiện hiệu quả pháp luật này cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của các chủ thể pháp luật đó. 1.2.3. Nội dung pháp luật bảo vệ quyền lợi người gửi tiền Ngân hàng là một tổ chức tài chính trung gian huy động vốn, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán cho khách hàng. Nhờ có việc huy động vốn thì ngân hàng mới có thể thực hiện các hoạt động khác như: cho vay, đầu tư kinh doanh . Đối tượng huy động vốn ở đây không ai khác chính là cá nhân, tổ chức hay chính là người gửi tiền. Trong đó người gửi tiền là người ủy nhiệm và ngân hàng là người được ủy nhiệm. Điều đó nói lên rằng mối quan hệ này đặt nền tảng rất lớn lên niềm tin của người gửi tiền vào ngân hàng. Ngân hàng thì luôn muốn huy động được nhiều vốn để từ đó ngân hàng có vốn để thực hiện các dự án khác để mang về lợi nhuận để duy trì hoạt động. Còn về phía người gửi tiền, họ luôn mong muốn số tiền mình khi gửi vào ngân hàng trước tiên phải được đảm bảo an toàn cho đến khi họ lấy lại được số tiền vốn của mình. Đồng thời họ cũng quan tâm rằng ngân hàng có các biện pháp bảo đảm an toàn nào để giữ chân người gửi giữ, cơ chế nào họ có được để bảo vệ quyền lợi của mình hay chính là việc họ sẽ được cơ chế nào bảo đảm quyền lợi cho chính họ. Do vậy, đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng và bảo vệ người gửi tiền là những vấn đề lớn. Thông qua công cụ luật pháp và các công cụ kinh tế tài chính, nhà nước giúp ngăn chặn sự mạo hiểm quá mức của các ngân hàng mà cuối cùng chuyển rủi ro đến những người cho ngân hàng vay tiền. Về khía cạnh này, pháp luật nước ta luôn có những cơ chế để đứng về phía người yếu thế hơn hay chính là người gửi tiền. Từ những sự phân tích sau ta có thể thấy nội dung pháp luật về bảo vệ người gửi tiền gồm: 20
  21. Một là, các quy định về phòng tránh rủi ro và đảm bảo an toàn, bảo hiểm tiền gửi dành cho người gửi tiền. Luật BHTG quy định về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại điều 6, 7, 11, 12. Theo đó, Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi của cá nhân phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, trừ Ngân hàng chính sách không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi. Nhà nước có chính sách bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Qua đó, quy định thêm về quyền và nghĩa vụ của người gửi tiền đồng thời cả nghĩa vụ của ngân hàng nhận tiền gửi. Luật quy định người gửi tiền có quyền: được nhận tiền bảo hiểm đầy đủ và đúng thời hạn; yêu cầu tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức bảo hiểm tiền gửi cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin, chế độ về bảo hiểm tiền gửi; khiếu nại, tố cáo, khởi kiện cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật. Qua đây có thể thấy rằng, Luật BHTG không quy định cụ thể và rõ ràng về quyền lợi của người gửi tiền. Nhưng việc quy định các tổ chức tín dụng nhận tiền gửi của các cá nhân phải tham gia BHTG đồng thời thực hiện các nghĩa vụ theo Luật, tức là Luật muốn ám chỉ rằng cá nhân, tổ chức gửi tiền tại ngân hàng chính là người gửi tiền có tiền được bảo hiểm bởi tổ chức bảo hiểm tiền gửi mà bên trung gian thay mặt người gửi tiền làm việc này là các ngân hàng nơi mà ngưởi gửi tiền gửi tiền vào đó. Nhà nước cần hoàn thiện, bổ sung các quy định về BHTG để góp phần bảo vệ quyền lợi người gửi tiền và hoạt động lành mạnh của ngân hàng. Hai là, các quy định về cơ quan bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Một trong những quyền lợi cơ bản của người gửi tiền là quyền được khiếu nại. Để các chủ thể trong xã hội thực hiện nghiêm chỉnh các quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, cần xây dựng hệ thống cơ quan bảo vệ quyền lợi người gửi tiền hiệu quả. Phải đảm bảo sự hiện diện của cơ quan Nhà nước ở đầy đủ các khâu: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Bên cạnh đó, từ năm 2000, Nhà nước đã thành lập tổ chức bảo vệ quyền lợi của người gửi 21
  22. tiền. Theo đó, tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV), là cơ quan chuyên trách được Chính phủ thành lập, giao quyền thực hiện chính sách pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Ba là, các quy định về phương thức giải quyết tranh chấp giữa ngân hàng và người gửi tiền. Trong quan hệ hợp đồng, các bên đều mong muốn hợp đồng giao kết mang lại lợi ích cho các bên, đồng thời các bên cũng sẽ thực hiện đúng nghĩa vụ như đã cam kết. Nhưng không phải trong trường hợp nào thì các bên cũng sẽ làm đúng như đã cam kết trong hợp đồng được. Có những khi chủ thể các bên vì những nguyên nhân khác nhau mà vi phạm nội dung đã thỏa thuận, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bên kia. Mà việc vi phạm này chủ yếu đến từ phía ngân hàng, vì trong quan hệ này thì người gửi tiền là bên yếu thế hơn. Chính vì thế nên việc tranh chấp giữa ngân hàng và người gửi tiền thì chủ yếu là do ngân hàng xâm phạm đến quyền lợi của người gửi tiền. Vì vậy, pháp luật phải xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp giữa người gửi tiền và bên nhận tiền gửi là ngân hàng. Hiện nay có bốn phương thức giải quyết tranh chấp giữa ngân hàng và người gửi tiền: thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và Tòa án. Bốn là, các quy định về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền trong trường hợp các ngân hàng chấm dứt hoạt động. Trong trường hợp một ngân hàng chấm dứt hoạt động sẽ gây ra nhiều hệ lụy đối với cả nền kinh tế nhưng đối tượng phải chịu ảnh hưởng lớn nhất đó chính là người gửi tiền. Do vậy, trong trường hợp việc kinh doanh không còn tạo ra lợi nhuận, hay vì lí do khác, ngân hàng thương mại phải chấm dứt hoạt động thì thủ tục này cũng phức tạp và chặt chẽ hơn nhiều so với các chủ thể kinh doanh khác. Các trường hợp chấm dứt hoạt động của ngân hàng thương mại gồm: chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, phá sản. Hậu quả pháp lí của mỗi trường hợp chấm dứt là khác nhau nên quyền của người gửi tiền trong từng trường hợp ấy cũng có cơ chế đảm bảo khác nhau, theo từng văn bản luật mà nhà nước quy định như Luật các TCTD 2010 . 22
  23. 1.3. Vai trò của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền Một là, khuyến khích việc gửi tiền của người đang có nguồn tiền nhàn rỗi, góp phần duy trì kênh huy động vốn quan trọng và đảm bảo sự hoạt động lành mạnh của các NHTM, góp phần phát triển kinh tế xã hội đất nước. Có thể thấy, việc gửi tiền của người gửi tiền xuất phát từ việc họ có nguồn tiền nhàn rỗi cũng như họ mong muốn có được một nguồn lợi từ nguồn tiền đó. Nhưng nhiều người còn khá e ngại về vấn đề quyền lợi của mình sẽ được bảo vệ như thế nào, liệu số tiền đó của mình có được an toàn, hay nguồn lợi mình thu được có được đảm bảo Chính việc pháp luật có quy định về những điều khoản quy định bảo vệ người gửi tiền làm cho người gửi tiền an tâm hơn khi gửi tiền, thúc đẩy họ gửi tiền nhiều hơn mà không lo lắng về vấn đề lợi ích không được đảm bảo. Hai là, củng cố niềm tin cho người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng cũng như hệ thống pháp luật của nước ta. Con người thường muốn có cảm giác được an toàn và được bảo vệ. Người gửi tiền cũng vậy, khi họ có một khoản tiền thì nhu cầu họ cần được cảm giác an toàn lại càng cao hơn. Có thể nói, lúc này, ngân hàng nào mang lại cho người gửi tiền cảm giác được an toàn nhất thì họ sẽ gửi tiền vào đó. Nhưng nền tảng của niềm tin này xuất phát từ pháp luật quy định bảo vệ quyền lợi người gửi tiền và nghĩa vụ của phía ngân hàng. Ba là, pháp luật là hành lang pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Trong giao dịch giữa người gửi tiền và ngân hàng, người gửi tiền thường là bên yếu thế hơn. Chỉ nhờ có luật pháp mà ngân hàng mới làm tròn nghĩa vụ của mình đối với người gửi tiền, điều này giúp cho quyền lợi của người gửi tiền cũng được đảm bảo. Ngay cả trường hợp mà ngân hàng có bị phá sản hay mua lại hay sáp nhập, nói chung đó là những tình thế xấu nhất xảy đến với ngân hàng thì người gửi tiền vẫn còn có pháp luật để đảm bảo rằng số tiền mồ hôi công sức của mình gửi tại ngân hàng vẫn được an toàn hay sẽ được đền bù. 23
  24. Bốn là, góp phần tăng trưởng kinh tế, giúp cho nền kinh tế đất nước phát triển bền vững. Người gửi tiền hiện nay chủ yếu là những người có tiền tạm thời chưa dùng đến được gửi vào các TCTD như: ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân, công ty tài chính để sử dụng trong tương lai và cũng không ngoài mục đích sinh lời. Họ là những người thiếu cơ hội kinh doanh, thiếu thông tin về thị trường, vì vậy, việc gửi tiền vào các tổ chức này là hình thức đầu tư phù hợp, tốt nhất. Có thể nói hoạt động tài chính có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế của một quốc gia. Khi có một hệ thống pháp luật vững chắc, củng cố được niềm tin của người dân thì người dân sẽ tham gia vào hoạt động tài chính một cách sôi nổi hơn. Điều đó góp phần giúp cho các NHTM có thể hoạt động tốt hơn, có nguồn vốn để đầu tư các hoạt động khác cũng như tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn để hoạt động. Điều này góp phần tích cực phát triển kinh tế, nâng cao sự ổn định và vững mạnh của quốc gia . 1.4. Bối cảnh tái cơ cấu ngân hàng ở Việt Nam vài năm gần đây Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008 bắt nguồn từ hoạt động “cho vay dưới tiêu chuẩn” tại Mỹ đã nhanh chóng lan rộng sang các nước khác. Đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng ngân hàng toàn cầu rơi vào tháng 9/2008 và đã được đánh giá là “cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong một thế kỷ qua”. Theo ước tính ban đầu, tổn thất của các ngân hàng chưa được đánh giá chính xác nhưng lợi nhuận của các ngân hàng Mỹ giảm từ 35,2 tỷ đô la xuống còn 5,8 tỷ đô la trong quý IV/2007, giảm 83% so với cùng kỳ năm trước. Đến tháng 8/2008, tổn thất liên quan đến tín dụng và cho vay dưới tiêu chuẩn của các tổ chức tài chính toàn cầu là khoảng 500 tỷ đô la. Số ngân hàng đổ vỡ mà FDIC (cơ quan bảo hiểm tiền gửi Mỹ) phải chi trả năm 2008 đến tháng 4/2009 là 54 ngân hàng và còn tiếp tục tăng trong thời gian sau đó. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu đến nay vẫn còn để lại hậu quả nặng nề ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam, điều đó buộc các quốc gia phải quan tâm, đánh giá lại toàn bộ hoạt động của các ngân 24
  25. hàng. Việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng đã trở nên phổ biến và cấp thiết ở mỗi quốc gia, đảm bảo cho các ngân hàng thích nghi được với nhu cầu phát triển mới trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đầy biến động. Ở Việt Nam, khi mà thị trường chứng khoán chưa phát triển, gánh nặng về vốn còn dồn lên vai ngân hàng thì việc giữ cho hệ thống ngân hàng ổn định và lành mạnh càng cần phải đặc biệt quan tâm. Có thể nói, hiện nay nền kinh tế cũng như hệ thống ngân hàng Việt Nam đã cơ bản vượt qua cơn khủng hoảng tài chính. Tuy nhiên, những hệ lụy của nó đã bộc lộ nhiều vấn đề bất ổn trong lĩnh vực ngân hàng, đó là thanh khoản khó khăn, nợ xấu có dấu hiệu tăng cao, chất lượng quản trị điều hành hạn chế, sản phẩm dịch vụ nghèo nàn, lợi nhuận chủ yếu từ hoạt động tín dụng, rủi ro cao ảnh hưởng đến an toàn hệ thống. Bên cạnh đó hệ thống mạng lưới các NHTM phát triển với tốc độ quá nhanh, số lượng nhiều, chất lượng hoạt động giảm sút, không ít ngân hàng hoạt động vì lợi ích cục bộ, chạy đua lãi suất gây ảnh hưởng lớn đến hệ thống ngân hàng và thị trường tiền tệ. Do đó, nếu không có biện pháp can thiệp kịp thời sẽ có nguy cơ xảy ra rủi ro gây mất an toàn hệ thống. Việt Nam thực hiện tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng (giai đoạn 2011- 2015). Khi thực hiện chủ trương tái cơ cấu, đã có các ngân hàng phải tái cơ cấu theo đề án Chính phủ phê duyệt. Đầu tiên phải kể đến: ngân hàng Sài Gòn (SCB), Ngân hàng Việt Nam Tín Nghĩa (TinNghiaBank) và Ngân hàng Đệ Nhất (Ficombank) đã hợp nhất và kết quả hoạt động của năm 2014 được cho là khá khả quan. Ngân hàng Nam Việt (Navibank), sau khi tự cơ cấu lại đã đổi tên thành Ngân hàng Quốc dân (NCB). Tương tự Nam Việt, Ngân hàng Tiên Phong (TienPhongBank) và Đại Tín (TrustBank) cũng chọn cách tự tái cơ cấu thông qua việc tăng mạnh vốn điều lệ từ các cổ đông. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà Hà Nội (Habubank) đã sáp nhập vào Ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội (SHB). Bên cạnh đó, Ngân hàng Phương Tây (Western Bank) cũng đã tiến hành hợp nhất với Tổng công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí (PVFC). Ngoài ra, thị trường còn chứng kiến thương vụ hợp nhất tự nguyện 25
  26. giữa Ngân hàng Đại Á (DaiABank, trụ sở tại Đồng Nai) và Ngân hàng Phát triển TP.HCM (HDBank) vào thành một thương hiệu duy nhất là HDBank với mục đích nâng cao chất lượng hoạt động. Năm 2015, hệ thống tổ chức tín dụng bước vào giai đoạn 2 của quá trình sắp xếp và tái cơ cấu, trong đó, nửa đầu năm 2015 được xác định là thời gian cao điểm và tất cả các ngân hàng lớn phải vào cuộc, xem như nhiệm vụ phải làm. Những thương vụ sáp nhập hoặc mua bán theo hình thức khuyến khích hoặc tự nguyện được tham gia được thị trường quan tâm có thể kể đến như thương vụ sáp nhập Ngân hàng Phương Nam vào Ngân hàng Sacombank; tái cấu trúc Ngân hàng Xây dựng (VNCB); sáp nhập vài ngân hàng nhỏ với Vietcombank và BIDV . Đặc biệt đang chú ý trong giai đoạn này, hoạt động chưa có tiền lệ là NHNN đã mua lại ba ngân hàng với giá 0 đồng: Ngân hàng TMCP Dầu Khí Toàn Cầu (GPBank) ; Ngân hàng Xây Dựng - CB (tiền thân là Ngân hàng Đại Tín) và Ngân hàng Đại Dương (OceanBank).Và cũng còn một số ngân hàng nhỏ, yếu có khả năng tái cơ cấu hoặc sáp nhập vẫn được dõi theo bao gồm: Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex (PGBank) và một số ngân hàng đã được phép tự tái cơ cấu từ giai đoạn 1 như Ngân hàng TMCP Quốc Dân, Ngân hàng TMCP Nam Á. Nhìn từ bối cảnh trong giai đoạn tái cơ cấu này có thể thấy sự cam go, quyết liệt cũng như sự cứng rắn của NHNN cùng các chính sách pháp luật trong việc điều tiết và cải tổ hệ thống ngân hàng. Và chính điều này đã thúc đẩy hệ thống ngân hàng được thanh lọc tốt hơn, chính những ngân hàng yếu kém sẽ bị loại trừ cũng như không còn tồn tại được như chính bản thân vốn có của nó nữa mà sẽ bị chuyển sang một hình thức hoạt động khác. Điều này cũng dấy lên một sự cạnh tranh gay gắt trong ngành ngân hàng nói riêng và các tổ chức tín dụng nói chung. Và bất kỳ một tổ chức tín dụng nào muốn được tồn tại thì phải có các chính sách cũng như tinh thần làm việc phải dựa trên pháp luật. Đồng thời việc tôn trọng người gửi tiền cũng là một yếu tố 26
  27. quan trọng bởi có thể nói người gửi tiền là nhân tố quan trọng mang tính sống còn của ngân hàng. Chắc chắn rằng việc “thanh lọc” này sẽ mang lại lợi ích trước hết là cho người gửi tiền và sau đó mới là sự phát triển của hệ thống tín dụng Việt Nam. 27
  28. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI GỬI TIỀN 2.1. Pháp luật về phòng tránh rủi ro và đảm bảo an toàn cho người gửi tiền tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam Hiện nay pháp luật đưa ra nhiều quy định về phòng tránh rủi ro cho người gửi tiền bằng cách quy định cụ thể về nghĩa vụ của ngân hàng đối với khách hàng, các tỷ lệ bảo đảm an toàn và biện pháp phòng tránh rủi ro trong hoạt động của NHTM. Tuy nhiên, các quy định này rải rác ở các văn bản luật khác nhau. Đầu tiên, chúng ta phải nói đến Luật Các TCTD, tại điều 10, Luật quy định về việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, theo đó các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải có trách nhiệm: - Tham gia tổ chức bảo toàn, bảo hiểm tiền gửi và công bố công khai việc tham gia tổ chức bảo toàn, bảo hiểm tiền gửi tại trụ sở chính và chi nhánh theo quy định của pháp luật. - Tạo thuận lợi cho khách hàng gửi và rút tiền, bảo đảm thanh toán đủ, đúng hạn gốc và lãi của các khoản tiền gửi. - Từ chối việc điều tra, phong tỏa, cầm giữ, trích chuyển tiền gửi của khách hàng, trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc được sự chấp thuận của khách hàng. - Thông báo công khai lãi suất tiền gửi, phí dịch vụ, các quyền, nghĩa vụ của khách hàng đối với từng loại sản phẩm, dịch vụ đang cung ứng. - Công bố thời gian giao dịch chính thức và không được tự ý ngừng giao dịch vào thời gian đã công bố. Trường hợp ngừng giao dịch trong thời gian giao dịch chính thức, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải niêm yết tại nơi giao dịch chậm nhất là 24 giờ trước thời điểm ngừng giao dịch. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được phép ngừng giao dịch quá 01 ngày làm việc, trừ trường hợp tạm ngừng hoạt 28
  29. động do nguyên nhân bất khả kháng. Từ việc quy định trên, có thể thấy trách nhiệm của ngân hàng phải công khai tất cả các dịch vụ và chế độ ưu đãi đối với người gửi tiền, hơn nữa phải bảo vệ và giữ bí mật những thông tin về chính khách hàng. Ngân hàng là bên nắm ưu thế hơn trong quan hệ giao dịch với người gửi tiền, do đó, các điều khoản cũng như lợi ích, ưu đãi hay quyền lợi dành cho người gửi tiền thì có thể người gửi tiền không thể nắm chắc và nắm rõ hết tất cả được. Vì thế, việc bên ngân hàng phải công khai mọi thứ liên quan đến ngân hàng từ dịch vụ hay chế độ ưu đãi dành cho khách hàng hay lãi suất tiền gửi Đây cũng như một hình thức mà ngân hàng tôn trọng khách hàng cũng như luật pháp của Nhà nước. Trong Hiến pháp 2013 có quy định về quyền con người trong đó có quyền được thông tin. Do đó, việc công khai thông tin của ngân hàng là điều bắt buộc và không thể làm khác được. Các dịch vụ của ngân hàng có thể được công khai thông qua nhiều hình thức: ghi trong hợp đồng mẫu của ngân hàng, niêm yết công khai tại quầy giao dịch của ngân hàng, qua đó, người gửi tiền biết rõ quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia hợp đồng với ngân hàng. Việc công khai này cũng một phần giúp cho ngân hàng có thể quảng cáo các dịch vụ của ngân hàng để thu hút khách hàng. Tất cả các ngân hàng hầu như đều cố gắng mở rộng dịch vụ của mình cũng như nhiều ưu đãi nhất có thể cho khách hàng để thu hút vốn cũng như mở rộng quy mô. Các dịch vụ của ngân hàng có rất nhiều như dịch vụ gửi tiền tiết kiệm, ngân hàng liên kết với các siêu thị hay cửa hàng kinh doanh, dịch vụ để mở tài khoản thanh toán qua thẻ, dịch vụ thanh toán quốc tế Tuy nhiên, dịch vụ mà nhiều người gửi tiền lựa chọn nhất tại ngân hàng thường là dịch vụ gửi tiền tiết kiệm hưởng lãi suất. Thông thường tâm lý của người Việt Nam đặc biệt là tầng lớp người già và người dân ở các vùng nông thôn thường có suy nghĩ là gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng cho số tiền mình tích cóp được để hưởng lãi suất đều đặn hàng tháng vì hầu hết những người này có suy 29
  30. nghĩ đơn giản vì vốn ít và không có xu hướng kinh doanh hay đầu tư lớn. Có thể thấy, khi khách hàng có nhu cầu với dịch vụ gì thì sẽ tìm hiểu thông tin của ngân hàng mình muốn thực hiện dịch vụ đó, khi đó, ngân hàng càng công khai nhiều thông tin thì khách hàng sẽ càng hiểu rõ hơn về dịch vụ mà mình muốn làm, tạo điều kiện cho cả khách hàng và cả ngân hàng thực hiện được giao dịch dịch vụ đó nhanh hơn. Khi người gửi tiền có một hợp đồng với bên ngân hàng về số tiền mà mình gửi vào ngân hàng thì người gửi tiền sẽ phải cung cấp thông tin cá nhân cũng như thông tin về số tiền gửi. Ngay cả khi người gửi tiền tại ngân hàng rút tiền qua thẻ thì thông tin số dư tài khoản hay mật khẩu cũng như tài khoản của người gửi tiền, ngân hàng đều nắm giữ được thông tin. Do đó, việc bảo mật thông tin cho khách hàng từ thông tin cá nhân đến thông tin tài khoản tiền gửi cũng phải được bảo mật tuyệt đối. Điều 14 luật các TCTD cũng có quy định: “Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cung cấp thông tin liên quan đến tài khoản, tiền gửi, tài sản gửi, các giao dịch của khách hàng tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cho tổ chức, cá nhân khác, trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc được sự chấp thuận của khách hàng”. Như vậy, chỉ duy nhất có chủ tài khoản mới có quyền được ngân hàng tiết lộ thông tin tài khoản đó, trừ trường hợp khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu vì liên quan đến việc kiểm tra, điều tra số tiền của cá nhân đó liệu có là tiền “sạch” khi có liên quan đến vụ án, vụ việc cụ thể nào đó. Không những vậy, khi người chủ tài khoản khai những thông tin cần thiết cho nhân viên ngân hàng thì còn phải xác nhận bằng chữ ký đã đăng ký với ngân hàng trong lần đầu đăng ký tài khoản với ngân hàng. Hiện nay, hầu hết tất cả các ngân hàng cũng áp dụng việc tra chữ ký để xác thực thông tin chính xác chủ tài khoản như : BIDV, ViettinBank, Vietcombank đây là một hình thức bảo mật gần như tuyệt đối của ngân hàng, cũng như một cách giúp bảo đảm an toàn thông tin cho 30
  31. người gửi tiền. Bảm đảm an toàn cho người gửi tiền còn là sự đảm bảo an toàn về số tiền mà khách hàng gửi vào ngân hàng. Như điều 10 Luật các TCTD năm 2010 có quy định: “Từ chối việc điều tra, phong tỏa, cầm giữ, trích chuyển tiền gửi của khách hàng, trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc được sự chấp thuận của khách hàng” Như vậy, khi bảm đảm thông tin tài khoản cho khách hàng, ngân hàng đồng thời phải đảm bảo số tiền người gửi tiền gửi tại ngân hàng phải được đảm bảo tuyệt đối: không điều tra, phong tỏa, cầm giữ hay trích chuyển trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay là có sự đồng ý của khách hàng. Bởi khi ngân hàng cho phép ai khác hay chính ngân hàng xâm phạm đến số tiền gửi của người gửi tiền, đó như là việc “xâm hại bí mật đời tư” của số tiền đó vậy. Ngân hàng chỉ được quyền nhận tiền từ người gửi tiền, có trách nhiệm bảo đảm an toàn cho nó bằng việc “thanh toán đủ, đúng hạn gốc và lãi của các khoản tiền gửi” cho người gửi tiền. Đây được coi là nghĩa vụ cơ bản nhất của các ngân hàng để đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền. Bên cạnh đó, NHTM cũng phải thực hiện đúng và đủ các quy định về tỷ lệ đảm bảo an toàn và phòng tránh rủi ro trong quá trình hoạt động. Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nêu rõ: “Dự phòng rủi ro là số tiền được trích lập và hạch toán vào chi phí hoạt động để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra đối với nợ của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài”. Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm nợ như sau: Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn): 0%; Nhóm 2 (Nợ cần chú ý): 5%; Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn): 20%; Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ mất vốn): 50%; Nhóm 5 (Nợ có 31
  32. khả năng mất vốn): 100%. Lợi nhuận đang là nguyên nhân hàng đầu khiến các NHTM tính toán, cân nhắc có nên trích đúng, đủ dự phòng rủi ro hằng năm. Các NHTM luôn bị sức ép trong kinh doanh khiến họ phải giấu đi những khoản nợ đáng lẽ phải trích dự phòng rủi ro một cách sòng phẳng. Do vậy, quy định pháp luật cũng phần nào răn đe các NHTM thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình, tuân thủ việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Thứ hai, các ngân hàng bắt buộc phải tham gia bảo hiểm tiền gửi. Theo khoản 1 điều 4 Luật Bảo hiểm tiền gửi 2012 “Bảo hiểm tiền gửi là sự bảo đảm hoàn trả tiền gửi cho người được bảo hiểm tiền gửi trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản”. Có thể nói hiện nay, BHTG là công cụ quan trọng nhất để bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. BHTG như một đòi hỏi tất yếu của nền kinh tế, là cơ sở củng cố niềm tin cho người gửi tiền đối với các TCTD nói chung và các NHTM nói riêng. Mục đích lớn nhất của Luật BHTG là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, chẳng vậy mà ngay tại điều 6 Luật BHTG đã có quy định: “Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi của cá nhân phải tham gia bảo hiểm tiền gửi”, chỉ trừ ngân hàng chính sách là không phải tham gia. BHTG trở thành hình thức bắt buộc đối với các NHTM và các TCTD có huy động vốn từ các cá nhân hay chính là dân cư. Thực vậy, người gửi tiền không thể kiểm soát được rủi ro của chính họ bởi người gửi tiền là người cho ngân hàng vay tiền, trường hợp xấu nhất ngân hàng phá sản hay mất khả năng thanh toán các khoản tiền vay đó thì người gửi tiền sẽ phải chịu rủi ro đó. Nhưng khi có BHTG đứng ra bảo hiểm cho số tiền mà người gửi tiền gửi vào ngân hàng, đồng nghĩa với việc dù ngân hàng đó không có khả năng thanh toán cho người gửi tiền thì BHTG sẽ đứng ra chịu trách nhiệm về số tiền mà ngân hàng đó đã mua bảo hiểm với số tiền mà người gửi tiền đã gửi vào ngân hàng. Việc tham gia BHTG của ngân hàng cũng như việc nhà nước ban 32
  33. hành Luật BHTG cũng đã góp phần rất lớn trong việc củng cố niềm tin cho người gửi tiền. Khi thấy số tiền mình tích cóp luôn được đảm bảo an toàn dù có chuyện gì đi nữa, người dân sẽ có lòng tin hơn với ngân hàng mà mình gửi tiền, nhờ vậy, ngân hàng cũng có cơ hội có được nguồn vốn cần thiết để thực hiện các hoạt động đầu tư khác, đóng góp tiềm lực cho nền kinh tế càng phát triển hơn. Điều này đã khắc phục những bât cập của hệ thống pháp luật về BHTG trong việc xác định trách nhiệm quản lí Nhà nước và thanh tra về bảo hiềm tiền gửi, Luật BHTG đã quy định rõ: NHNN chịu trách nhiệm trước chính phủ về quản lí BHTG và thực hiện chức năng thanh tra về BHTG. Việc quy định rõ ràng sẽ tránh được trường hợp đùn đẩy trách nhiệm hoặc tranh chấp về thẩm quyền của các cơ quan liên quan. Hơn nữa, trong bối cảnh tái cơ cấu ngân hàng, việc tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định pháp luật về BHTG còn giúp các NHTM ổn định nguồn tiền gửi, cạnh tranh với các NHTM khác trong và ngoài nước và vượt qua giai đoạn tái cơ cấu. Tuy nhiên, quá trình triển khai những quy định của pháp luật về BHTG còn nhiều khó khăn. Ở vị trí người gửi tiền họ thường quan tâm đến đối tượng được hưởng bảo hiểm, loại tiền gửi được bảo hiểm, hạn mức chi trả tiền bảo hiểm và khi nào họ được chi trả bảo hiểm. Về loại tiền gửi được bảo hiểm, ở nước ta, tiền gửi được bảo hiểm bao gồm “tiền gửi bằng đồng Việt Nam”. Như vậy, tiền gửi bằng vàng hay ngoại tệ không được bảo hiểm. Điều này làm cho nhiều người có thắc mắc rằng tại sao khi họ có đô la muốn gửi vào ngân hàng nhưng lại không được bảo hiểm? Chưa kể Việt Nam đã gia nhập WTO, các chủ thể trong và ngoài nước sử dụng phương tiện thanh toán tại NHTM ngày càng tăng, do vậy, việc không bảo hiểm cho ngoại tệ phần nào chống lại việc thu hút nguồn vốn ngoại tệ từ cá nhân, tổ chức gửi về Việt Nam. Trong thời gian qua, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm đưa ra các thông số để lường trước vấn đề rủi ro, từ đó tìm ra các giải pháp nhằm hạn chế và loại trừ rủi ro đối với hệ thống ngân 33
  34. hàng. Điều này đã tạo điều kiện để hệ thống ngân hàng phát triển lành mạnh, tạo cơ sở cho kinh tế phát triển bền vững cũng như bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Tuy nhiên, các quy định này còn nhiều vướng mắc. Hiện nay, các quy định về phòng tránh rủi ro cho hệ thống ngân hàng chưa được quan tâm đúng ựm c, các quy định nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau, mà chủ yếu là các văn bản dưới luật, do NHNN ban hành. Điều này chưa thể hiện rõ được vai trò của việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền đối với nền kinh tế quốc gia và hệ thống ngân hàng. 2.2. Pháp luật về cơ quan bảo vệ người gửi tiền tại Ngân hàng thương mại Việt Nam Hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ của các TCTD luôn tiềm ẩn rủi ro. Hơn nữa, đây là lĩnh vực kinh doanh hết sức nhạy cảm, do trực tiếp dùng tiền huy động của người dân để thực hiện các hoạt động đầu tư nên nếu không có hệ thống cơ chế, chính sách pháp luật đầy đủ và cụ thể cũng như hệ thống kiểm soát rủi ro chặt chẽ của cơ quan chức năng thì nguy cơ đổ vỡ TCTD có thể xảy ra bất kỳ lúc nào. 2.2.1. Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV) Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (Deposit Insurance of Vietnam - DIV) là tổ chức tài chính Nhà nước được thành lập theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ và chính thức hoạt động từ ngày 07/07/2000. Hoạt động của cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam không vì mục tiêu lợi nhuận mà nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng. Luật BHTG quy định rõ quyền và nghĩa vụ của DIV tại điều 13, những quy định đó đều nhằm bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền và các tổ chức tín dụng mà đặc biệt là người gửi tiền. 34
  35. Thứ nhất, DIV chịu sự kiểm tra, thanh tra, giám sát của NHNN và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Theo đó, DIV có trách nhiệm phải báo cáo thông tin liên quan đến các tổ chức tham gia BHTG và của người được BHTG cho NHNN. Theo như điểm a, b khoản 1 điều 33 Luật BHTG có quy định về trách nhiệm báo cáo và công bố thông tin của tổ chức BHTG: báo cáo thông tin về việc chấp hành quy định pháp luật về BHTG của tổ chức tham gia BHTG và thông tin về việc trả tiền bảo hiểm đối với người được bảo hiểm tiền gửi định kỳ 6 tháng hoặc nếu có yêu cầu của NHNN thì phải báo cáo đột xuất. Quy định này cho thấy sự phối hợp chặt chẽ giữa NHNN và DIV. Và người gửi tiền cũng như các NHTM cũng có thể yên tâm tuyệt đối về khoản tiền được bảo hiểm tại DIV vì được giám sát chặt chẽ từ phía NHNN. Hơn nữa, việc theo dõi, kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật về BHTG của các TCTD và kiến nghị NHNN xử lý các hành vi vi phạm quy định pháp luật về BHTG cũng được chú trọng. Thứ hai, nghĩa vụ quản lý, sử dụng và bảo toàn nguồn vốn BHTG. Điều này nhằm tránh rủi ro và hao tổn quỹ BHTG, gây tác động xấu đến hiệu quả của hệ thống BHTG. Điều 31 Luật BHTG cho phép: “tổ chức bảo hiểm tiền gửi được sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để mua trái phiếu Chính phủ, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và gửi tiền tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”. DIV bản chất vẫn là một tổ chức bảo hiểm, do đó, hoạt động của nó vẫn dựa theo nguyên lý cơ bản là bù đắp rủi ro theo cơ chế lấy số đông bù cho ố s ít. Việc cần phải quản lý chặt chẽ nguồn vốn BHTG có vai trò rất quan trọng bởi nếu DIV cũng lấy nguồn vốn đó mang đi đầu tư như là các TCTD thì nếu xảy ra rủi ro, cơ quan nào sẽ đứng ra bảo hiểm cho họ nữa. Hệ quả của vấn đề đó còn ảnh hưởng đến cả các TCTD và cả người gửi tiền. Và hệ quả rộng hơn đó là ảnh hưởng đến cả nền kinh tế quốc gia. 35
  36. Thứ ba, chi trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm tiền gửi. Việc chi trả tiền bảo hiểm được dành riêng mục 4 trong Luật BHTG để quy định về vấn đề này. Theo đó, trong thời hạn 60 ngày, kể từ thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm tiền gửi. Số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bao gồm tiền gốc và tiền lãi, tối đa bằng hạn mức trả tiền bảo hiểm. Hơn nữa, Luật cũng quy định rõ về hạn mức trả tiền bảo hiểm, thủ tục trả tiền như thế nào, số tiền bảo hiểm được trả trong trường hợp nhiều người sở hữu chung tiền gửi ra làm sao cũng như việc xử lý số tiền gửi vượt hạn mức trả tiền bảo hiểm và thu hồi số tiền bảo hiểm phải trả từ tổ chức tham gia BHTG. Chi trả tiền bảo hiểm là sự khẳng định dễ nhận biết nhất về quyền lợi của người gửi tiền được đảm bảo. Việc chi trả kịp thời, thuận tiện cho người gửi tiền sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự an tâm của dân chúng với các ngân hàng khác chưa bị đổ vỡ và có thể giảm thiểu rủi ro khủng hoảng hệ thống bất thường. Theo Điều 24 Luật BHTG thì hạn mức trả tiền bảo hiểm là số tiền tối đa mà tổ chức bảo hiểm tiền gửi trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm. Tổ chức BHTG sẽ chi trả tiền bảo hiểm cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của mỗi khách hàng tại một tổ chức tham gia BHTG tối đa là 50 triệu đồng (bao gồm cả gốc và lãi). Nếu khoản tiền gửi được bảo hiểm (bao gồm cả tiền gốc và lãi) của người gửi tiền vượt quá hạn mức trả tiền bảo hiểm (hiện nay vượt hơn mức 50 triệu đồng) thì sẽ được giải quyết trong quá trình xử lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng giá tiêu dùng như hiện nay, hạn mức này đã trở nên không phù hợp với thu nhập bình quân đầu người ở nước ta hiện nay. Điều 36
  37. nay phần nào làm cho người gửi tiền không có niềm tin vững chắc vào BHTG. Thứ tư, bảo đảm bí mật số liệu tiền gửi và tài liệu liên quan đến bảo hiểm tiền gửi của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Cũng như các ngân hàng, DIV cũng cần phải đảm bảo bí mật về số tiền cũng như thông tin liên quan đến người gửi tiền để bảm đảm an toàn cho người gửi tiền. Thứ năm, tổng hợp, phân tích và xử lý thông tin về tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi nhằm phát hiện và kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xử lý kịp thời những vi phạm quy định về an toàn hoạt động ngân hàng, rủi ro gây mất an toàn trong hệ thống ngân hàng liên quan đến bảo hiểm tiền gửi của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Việc trao đổi, giám sát thông tin lẫn nhau giữa DIV và NHNN rất thường xuyên và khách quan. Theo như quy định tại điều 9, 10 nghị định 68/2013/NĐ- CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật BHTG thì khi DIV thực hiện nhiệm vụ báo cáo với NHNN trong trường hợp: “Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi vi phạm quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng hoặc vi phạm các quy định về pháp luật ngân hàng khác” và “hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có nguy cơ dẫn đến mất khả năng chi trả, thất thoát tài sản hoặc có tác động tiêu cực tới các tổ chức tín dụng khác”. Bên cạnh đó, DIV cũng được tiếp cận một số nguồn thông tin từ NHNN như: “Thông tin về việc chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, giải thể, phá sản tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi” hay “thông tin về việc kiểm soát đặc biệt tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định pháp luật về kiểm soát đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng”. Việc tác động qua lại, kiểm tra giám sát cũng như báo cáo, nắm bắt thông tin liên tục của DIV và NHNN giúp cho DIV có biện pháp để ứng phó trước tình hình bất ổn của các ngân hàng hay có kiến nghị đến NHNN để xử lý các vụ việc xấu có thể xảy ra nhằm đảm bảo tối đa quyền lợi của người gửi tiền. Hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã thực sự góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới đất nước, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, duy 37
  38. trì sự ổn định, phát triển an toàn lành mạnh của hệ thống các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, là nhân tố quan trọng trong việc phát huy nguồn vốn nội lực để phát triển kinh tế, giữ vững ổn định, an ninh kinh tế, chính trị và trật tự an toàn xã hội. 2.2.2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Theo điểm b khoản 2 điều 15 nghị định 68/2013/NĐ-CP: “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động bảo hiểm tiền gửi, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức bảo hiểm tiền gửi; thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với tổ chức bảo hiểm tiền gửi ”. Có thể thấy, NHNN chịu trách nhiệm quản lý chính về hoạt động của DIV, các NHTM và tất cả các hoạt động chung về BHTG. Điều này cũng chứng tỏ một điều rằng NHNN có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, thậm chí đóng vai trò chủ chốt trong việc quyết định các quyền lợi của người gửi tiền. Còn theo Luật BHTG tại điều 35 thì NHNN có chức năng thanh tra về BHTG, trong đó, đối tượng của việc thanh tra này gồm có DIV và các tổ chức tham gia BHTG. Việc thanh tra này giúp cho DIV hoạt động tốt, đúng như quy trình pháp luật quy định; các TCTD nói chung và NHTM nói riêng cũng thực hiện các hoạt động theo như pháp luật quy định, không có sai phạm, góp phần làm sạch hệ thống ngân hàng, tránh xảy ra tình trạng xâm phạm quyền lợi người gửi tiền. Bên cạnh thanh tra, Thống đốc NHNN còn có nhiệm vụ giải quyết việc khiếu nại với quyết định hành chính, hành vi hành chính về BHTG trong trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu. Tuy việc thanh tra, quản lý khá chặt chẽ nhưng thực tế một số ngân hàng còn cố tình thực hiện sai hay thực hiện không đầy đủ quy định của pháp luật BHTG, nhất là trong công tác kiểm tra tại chỗ của tổ chức 38
  39. BHTG. Một sai phạm thường gặp nữa là trong việc nộp phí BHTG. Đó là tình trạng nộp thừa hay cố tình trốn tránh không nộp phí BHTG, nộp phí không đầy đủ, không đồng bộ. Thực tế kiến thức về pháp luật bảo vệ người gửi tiền của các nhân viên ngân hàng còn hạn chế. Các NHTM nỗ lực trong việc bảo vệ người gửi tiền là vì lợi ích của chính họ trong việc thu hút nguồn vốn chứ thực chất chưa xây dựng được văn hóa tuân thủ pháp luật về bảo vệ người gửi tiền. Chính vì vậy, trong nhiều trường hợp, lợi ích ngân hàng và lợi ích của người gửi tiền mâu thuẫn, NHTM sẽ vi phạm lợi ích của người gửi tiền, gây ra những tranh chấp không đáng có. 2.2.3. Các cơ quan Nhà nước khác Thứ nhất, Chính phủ là cơ quan quản lí có thẩm quyền chung, quản lý tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có vấn đề tài chính, tiền tệ. Chính phủ có thẩm quyền ban hành Nghị định, thể chế hóa các quy định của Hiến pháp, Luật, đưa các quy định về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền của Quốc hội vào cuộc sống. Ngoài ra, Chính phủ thống nhất quản lý về BHTG và một vai trò quan trọng hơn hết trong việc bảo vệ người gửi tiền của Chính phủ, đó là việc ban hành nhiều Nghị định hướng dẫn, thi hành mà nổi trội là ban hành nghị định 68/2013/NĐ- CP quy định chi tiết và hướng dẫn Luật BHTG 2012 do Quốc hội ban hành. Việc này có ý nghĩa rất quan trọng bởi nhiều điều quy định trong các văn bản Luật còn gây nhiều thắc mắc cũng như chưa thực sự rõ ràng cho người áp dụng luật, gây ra nhiều ảnh hưởng không đáng có vì chưa hiểu rõ Luật quy định. Nhưng việc ban hành các nghị định hướng dẫn giúp cho mọi điều được sáng tỏ hơn, giúp cho các tổ chức, cá nhân nắm bắt đầy đủ tinh thần của các văn bản luật mà Quốc hội đã ban hành. Qua đó cũng thấy được vai trò vô cùng to lớn của Chính phủ trong việc gián tiếp bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. 39
  40. Thứ hai, hệ thống Tòa án, đây là cơ quan tài phán công, căn cứ vào quy định của pháp luật để đưa ra phán quyết công bằng, đúng đắn cho các bên tranh chấp. Tranh chấp phát sinh giữa NHTM và người gửi tiền được quy định tại điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 sửa đổi bổ sung 2011. Trong đó, những tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận gồm: “Cung ứng dịch vụ” thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. Nếu xét đúng đắn thì trong quan hệ giữa người gửi tiền và NHTM, NHTM có mục đích lợi nhuận nhưng người gửi tiền thường là các cá nhân có tiền gửi tiết kiệm và hưởng lãi, mà lãi đó thực chất là “hoa lợi, lợi tức” trên số tiền tiết kiệm của mình mang lại hay chính là tài sản của mình mang lại. Do đó, nếu nói đây là một tranh chấp mà hai bên đều có mục đích lợi nhuận cũng không hoàn toàn chính xác. Lúc này, hợp đồng gửi tiền giữa người gửi tiền và NHTM là hợp đồng dân sự theo nghĩa hẹp. Tuy nhiên, nếu xét theo một khía cạnh khác, khi mà lãi suất từ khoản tiền tiết kiệm của người gửi tiền có thể coi là lợi nhuận thu được từ khoản tiền mình gửi vào ngân hàng cũng là một cách hiểu. Dù hiểu theo cách nào đi nữa thì việc tranh chấp giữa NHTM và người gửi tiền cũng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo điều 25, 29 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 sửa đổi bổ sung 2011. Theo dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự được Quốc hội thông qua vào 25/11/2015, về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp giữa NHTM và người gửi tiền vẫn được quy định tại điều 26 nếu tiếp cận từ góc độ là một tranh chấp hợp đồng dân sự. Với cách tiếp cận là một tranh chấp về kinh doanh, thương mại được quy định riêng ra hẳn một điều luật là điều 30. Đây được coi như là một sự nhìn nhận cao về việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền của nhà nước ta. Thứ ba, Bộ tài chính và Ủy ban giám sát Tài chính Quốc gia. 40
  41. Theo điều 1 nghị định 215/2013/ NĐ – CP quy định về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính: Bộ tài chính là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài chính (bao gồm: ngân sách nhà nước, thuế, phí, lệ phí và thu khác của ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, tài sản nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước, đầu tư tài chính, tài chính doanh nghiệp, tài chính hợp tác xã và kinh tế tập thể); hải quan; kế toán; kiểm toán độc lập; giá; chứng khoán; bảo hiểm; hoạt động dịch vụ tài chính và dịch vụ khác thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ; thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Như vậy, nhìn qua nhiệm vụ, chức năng của Bộ Tài chính có thể thấy Bộ có chức năng quản lý các vấn đề liên quan đến bảo hiểm. Mà các TCTD lại bắt buộc phải tham gia Bảo hiểm tiền gửi, như vậy, Bộ tài chính là cơ quan gián tiếp liên quan đến việc bảo vệ người gửi tiền. Theo như điểm đ) điều 15 nghị định 215/2013/ NĐ – CP thì Bộ tài chính có nhiệm vụ “hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện cơ chế tài chính của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các ngân hàng thương mại nhà nước, Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Bảo hiểm xã hội Việt Nam và các quỹ tài chính khác theo quy định của pháp luật”. Bộ tài chính cũng có nhiệm vụ hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện cơ chế tài chính của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam hay DIV, tổ chức bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Theo Chương 3 Quy chế tổ chức và hoạt động của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia được ban hành kèm theo Quyết định số 79/2009/QĐ-TTg ngày 18/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ có quy định về nhiệm vụ của Ủy ban giám sát tài chính Quốc gia: “giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện giám sát chung thị trường tài chính quốc gia, giám sát hợp nhất hoạt động của các tập đoàn tài chính, giám sát điều kiện được cấp phép hoạt động của các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính, tổ chức khác hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm”. Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia có sự 41
  42. liên kết chặt chẽ với NHNN, Bộ tài chính và các cơ quan liên quan trong việc xây dựng các cơ chế, chính sách, quy định về quản lý, thanh tra, giám sát hoạt động tài chính, các chiến lược, định hướng phát triển ngành ngân hàng, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm. Bên cạnh đó, Ủy ban còn thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu, tổng hợp, xử lý, cung cấp thông tin về thị trường tài chính quốc gia rồi phân tích, dự báo, cảnh báo mức độ an toàn hệ thống tài chính, nguy cơ rủi ro đối với thị trường tài chính quốc gia và đề xuất giải pháp xử lý, báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Hơn thế, cơ quan này còn đề xuất, kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành hữu quan, các cơ quan thanh tra – giám sát chuyên ngành và cấp có thẩm quyền xử lý vi phạm đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm, không tuân thủ hoặc không thực hiện đầy đủ các quy định, các điều kiện trong hoạt động ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, quy định về cung cấp thông tin định kỳ, đột xuất phục vụ hoạt động giám sát thị trường tài chính quốc gia. Có thể thấy, Bộ tài chính và Ủy ban giám sát tài chính Quốc gia đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Cả Bộ và Ủy ban đều có nhiệm vụ là nhân tố tác động và kiến nghị những vấn đề liên quan đến các NHTM hay cơ quan DIV, giúp cho quyền lợi người gửi tiền luôn được đảm bảo, tránh xảy ra rủi ro cũng như sai phạm trong hoạt động của các ngân hàng. Có thể nói, các cơ quan nói trên được thành lập theo nhu cầu tất yếu của xã hội, có nhiệm vụ và quyền hạn riêng khác nhau với các lĩnh vực mình quản lý, nhưng có chung nhiệm vụ và quyền hạn sâu xa là bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Tất cả các cơ quan hoạt động, thành lập cũng như giám sát hay liên kết lẫn nhau để cùng bảo vệ quyền lợi, bênh vực cho kẻ yếu là người gửi tiền theo quy định của pháp luật. Tuy có nhiều quy định không thực sự rõ ràng nhưng thông qua nhiều điều luật, chúng ta vẫn có thể hiểu điều luật quy định như thế nhằm hướng đến người gửi tiền đồng thời bảo vệ sự an toàn của hệ thống tài chính quốc gia. 42
  43. 2.3. Pháp luật về phương thức giải quyết tranh chấp giữa Ngân hàng thương mại Việt Nam và người gửi tiền Phương thức có thể hiểu chung là cách thức và phương pháp tiến hành. Cả NHTM cũng như người gửi tiền đều không mong muốn có tranh chấp xảy ra vì nó sẽ ảnh hưởng nhiều đến mục đích cũng như quyền lợi của các bên. Tuy nhiên, có thể vì một nguyên nhân nào đó mà một bên vi phạm quyền và lợi ích của bên kia, mà bên vi phạm này thường là bên NHTM. Tức là tranh chấp xảy ra thường là nguyên nhân xuất phát từ phía NHTM, dẫn đến tổn hại quyền và lợi ích của người gửi tiền. Để giải quyết tranh chấp ở nước ta hiện nay, có bốn phương thức giải quyết tranh chấp chính: thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và Tòa án. Thương lượng là việc hai bên có tranh chấp (NHTM và người gửi tiền) tự gặp nhau bàn bạc thỏa thuận, không chịu bất kì ràng buộc của của nguyên tắc pháp lý hay quy định khuân mẫu nào về giải quyết tranh chấp, trong đó kết quả hoàn toàn phụ thuộc vào các bên và không được đảm bảo thi hành. Ưu điểm của phương thức này là đơn giản, hiệu quả, nhanh chóng, thuận tiện, ít tốn kém và đặc biệt có thể bảo vệ uy tín cho các bên tranh chấp, bảo vệ bí mật kinh doanh của NHTM. Nhưng nhược điểm của phương thức này là không có cơ chế đảm bảo thi hành, việc này dễ đến đến việc NHTM có thể không thực hiện nghĩa vụ như thương lượng và không có một chế tài nào bắt buộc thực hiện khi hai bên có thương lượng xong. Trong pháp luật Việt Nam không có quy định cụ thể cho phương thức thương lượng giữa NHTM và người gửi tiền nhưng có quy định trong Luật thương mại 2005 về giải quyết tranh chấp trong thương mại bằng phương thức thương lượng giữa các bên tại khoản 1 điều 317. Hòa giải là việc hai bên tranh chấp (NHTM và người gửi tiền) giải quyết tranh chấp trong đó có sự hiện diện của bên thứ ba làm trung gian để trợ giúp các bên tìm kiếm giải pháp tối ưu nhằm loại trừ tranh chấp, cũng không chịu bất kì ràng buộc của của nguyên tắc pháp lý hay quy định khuôn 43
  44. mẫu nào về giải quyết tranh chấp và kết quả hoàn toàn phụ thuộc vào các bên và không được đảm bảo thi hành. Ưu điểm của phương thức này là kết quả hòa giải dễ thành công hơn thương lượng do có sự can thiệp của bên thứ ba, tuy nhiên, có người thứ ba thì bí mật kinh doanh cũng như uy tín của NHTM khó giữ được, chưa kể còn tốn kém phí dịch vụ cho người thứ ba. Hòa giải cũng được quy định tại khoản 2 điều 317 Luật thương mại 2005. Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận, trong đó có sự tham gia của bên thứ ba – các trọng tài viên hoặc trọng tài viên duy nhất. Trọng tài là bên trung gian, hoàn toàn độc lập với các bên, đứng giữa để giải quyết tranh chấp và đưa ra phán quyết có tính chất bắt buộc để bảo vệ quyền lợi của các bên. Kết quả của việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài là phán quyết do trọng tài tuyên đối với các đương sự của vụ tranh chấp. Theo điều 2 Luật trọng tài thương mại 2010 có quy định về tranh chấp giữa NHTM và người gửi tiền có thể được giải quyết theo phương thức trọng tài thương mại. Phương thức này có nhiều ưu điểm, đây là một cơ chế giải quyết tranh chấp mềm dẻo, nhanh chóng, thuận lợi cho các bên, đảm bảo tối đa quyền tự do thỏa thuận của các bên, tiết kiệm thời gian và chi phí cho các bên, nâng cao được hiệu quả kinh doanh. Hơn nữa, nó có thể đảm bảo được bí mật trong quá trình giải quyết tranh chấp, khả năng tiếp tục duy trì mối quan hệ của các bên. Phương thức này mang tính chuyên môn cao, không đại diện cho quyền lực Nhà nước nên thích hợp để giải quyết các tranh chấp giữa các bên có quốc tịch khác nhau. Bên cạnh các ưu điểm và lợi ích của Trọng tài thương mại thì phương thức này cũng có những điểm yếu. Nó hạn chế không cho các bên kháng cáo, kháng nghị và chi phí trong việc giải quyết trọng tài thường được ấn định trước và thường cao hơn rất nhiều so với các phương thức giải quyết tranh chấp khác. Tòa án là phương thức giải quyết tại cơ quan tài phán Nhà nước. Đây là phương thức giải quyết tranh chấp thường được các bên sử dụng nhiều nhất bởi giá trị ràng buộc của phán quyết bắt buộc, bị cưỡng chế thi hành (trong 44
  45. trường hợp không tuân thủ), có thể kháng cáo và khả năng thực thi phán quyết cao. Tuy nhiên, khi giải quyết tranh chấp bằng phương thức Tòa án, kinh phí tốn kém hơn cũng như không giữ được bí mật kinh doanh cũng như ảnh hưởng đến uy tín ngân hàng do xét xử và tuyên án công khai. Có thể nói, trong tất cả các phương thức giải quyết tranh chấp, nếu có tranh chấp xảy ra, Ngân hàng sẽ “ngại” nhất là phương thức Tòa án bởi với một NHTM, việc ảnh hưởng đến uy tín ngân hàng sẽ ảnh hưởng nhiều đến hoạt động kinh doanh cũng như tâm lý người gửi tiền cũng như khách hàng sử dụng các dịch vụ khác ở ngân hàng. Đôi khi chỉ cần một yếu tố bất lợi nhỏ như thế thôi nhưng cũng có thể khiến một ngân hàng phá sản. Quan hệ hợp đồng vay– cho vay tài sản giữa NHTM và người gửi tiền có đặc thù là chủ thể không cân xứng về trình độ hiểu biết và khả năng tiếp cận thông tin. NHTM có trình độ hiểu biết pháp luật, khoa học công nghệ thường cao hơn người gửi tiền, họ có đủ kiến thức, cơ chế để bảo vệ mình trong cuộc tranh chấp nên thường là bên có thế mạnh. Và khi xảy ra tranh chấp, người gửi tiền khó có khả năng đưa ra các dẫn chứng chứng minh NHTM vi phạm, lúc này, họ cần có sự giúp đỡ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhưng hiện nay, pháp luật chưa có quy định nào về sự hỗ trợ này cho người gửi tiền. Nhìn chung, các tranh chấp về tiền gửi giữa người gửi tiền và ngân hàng ít khi xảy ra bởi chỉ khi có lý do khách quan cực kì hãn hữu nào đó thì ngân hàng mới xâm phạm đến quyền và lợi ích của người gửi tiền mà xảy ra tranh chấp. Còn trong tình trạng hoạt động bình thường ít khi xảy ra trường hợp này bởi trên các NHTM còn có sự giám sát chặt chẽ của NHNN, Ủy ban giám sát Tài chính Quốc gia hay DIV. Chính các cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng có chức năng là “công cụ răn đe”, phòng ngừa trước việc sai phạm của các NHTM. Cũng có ít các trường hợp tranh chấp xảy ra nhưng thường được giải quyết bằng thương lượng, đôi khi ngân hàng cũng có thể dùng tiền để khuất lấp đi chính sai phạm của mình. Người 45
  46. gửi tiền không am hiểu nhiều về pháp luật, cũng yếu thế hơn nên việc ngân hàng đứng ra thương lượng thì họ thường sẽ không kiện cáo hay làm to chuyện lên làm gì, âu cũng là khi đó họ tự cảm thấy quyền lợi của mình được bù đắp xứng đáng rồi. 2.4. Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền trong trường hợp ngân hàng thương mại chấm dứt hoạt động NHTM cũng như những chủ thể kinh doanh khác, do nhiều nguyên nhân mà nó được sinh ra và cũng vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà nó cũng có thể mất đi. Sự bùng nổ về số lượng ngân hàng và chi nhánh ngân hàng được thành lập nhưng không đồng hành với sự cải thiện đáng kể trong công tác phòng tránh rủi ro (không áp dụng các chuẩn mực quốc tế về phân loại vốn vay, trích lập dự phòng và công bố thông tin) cũng như việc giám sát, thanh tra, xử phạt của NHNN, lại còn chịu tác động bởi tham nhũng, can thiệp bởi chính quyền và các nhóm lợi ích. Sự yếu kém về quản trị, điều hành và nguồn nhân lực cùng việc thanh khoản yếu kém và tình hình nợ xấu cao; sự điều hành của Nhà nước không kịp thời đối với các thị trường có liên quan đến ngân hàng như thị trường chứng khoán; thị trường vàng, thị trường bất động sản gây ra các tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng; áp lực tăng vốn cùng thách thức bởi sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài; nhiều NHTM vẫn có tâm lý ỷ lại vào sự bảo hộ của nhà nước, thiếu năng động trong hoạt động kinh doanh, thiếu chuẩn bị về nhân lực làm hạn chế khả năng mở rộng mạng lưới, thị phần, khả năng đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng còn thấp đã và đang là những nguyên nhân chính dẫn đến việc ngân hàng yếu kém phải tổ chức lại hay chấm dứt hoạt động. Việc tổ chức lại hay chấm dứt hoạt động ngân hàng được thể hiện dưới nhiều hình thức: chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, giải thể, phá sản (quy định tại điều 153, 154, 155 Luật các TCTD 2010) 46
  47. 2.4.1. Trường hợp chia ngân hàng thương mại Nội dung Luật các TCTD 2010 có nói về trường hợp chia NHTM tại khoản 1 điều 153: “Tổ chức tín dụng được tổ chức lại dưới hình thức chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi hình thức pháp lý sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản” nhưng không quy định cụ thể chia như thế nào, trình tự, thủ tục ra sao. NHTM bản chất là doanh nghiệp đặc biệt hoạt động tuân thủ các quy định của Luật các TCTD và các văn bản pháp luật khác. Do đó, ta căn cứ vào Luật doanh nghiệp để xem luật quy định như nào về việc chia NHTM. Theo quy định tại điều 192 Luật doanh nghiệp 2014, có thể nói NHTM có thể chia thành hai hay nhiều ngân hàng nhỏ hơn, cùng loại hình ngân hàng và cùng kinh doanh lĩnh vực tiền tệ. Ngân hàng bị chia chấm dứt tồn tại sau khi ngân hàng mới được đăng ký kinh doanh. Các NHTM mới cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của ngân hàng bị chia hoặc thỏa thuận với khách hàng và người gửi tiền để một trong các ngân hàng mới thực hiện nghĩa vụ này. Như vậy, khi NHTM cũ bị chia, khoản nợ người gửi tiền, trong đó gồm cả gốc lẫn lãi do các NHTM mới liên đới chịu trách nhiệm trả. Người gửi tiền và các NHTM mới sẽ thỏa thuận để xác định nghĩa vụ chi trả tiền cho người gửi tiền thuộc về NHTM mới này trả. Như vậy, dù NHTM bị chia thành các NHTM mới thì quyền lợi của người gửi tiền vẫn được đảm bảo, số tiền mà người gửi tiền gửi vào NHTM cũ vẫn được trả đầy đủ gồm cả lãi. 2.4.2. Trường hợp tách ngân hàng thương mại Theo quy định tại điều 193 Luật doanh nghiệp 2014, NHTM cổ phần có thể tách bằng cách chuyển một phần tài sản, quyền và nghĩa vụ mà ngân hàng bị tách hiện có để thành lập một hoặc một số NHTM mới cùng loại mà không chấm dứt tồn tại của ngân hàng bị tách. Theo Wikipedia Tiếng Việt, 47
  48. Ngân hàng thương mại cổ phần là các ngân hàng hoạt động kinh doanh, thương mại theo mô hình cổ phần và tuân theo các luật riêng của Chính phủ và các quy chế, quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi hoạt động. Như vậy, có thể hiểu chung nhất NHTM cổ phần là NHTM có mô hình cổ phần như quy định của Luật doanh nghiệp 2014 về công ty cổ phần. NHTM cổ phần là NHTM trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau do cổ đông là các tổ chức hay cá nhân góp và các cổ đông chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp của mình. Ngân hàng bị tách phải đăng ký thay đổi vốn điều lệ và số lượng cổ đông mới ứng với phần vốn góp. Sau khi đăng ký kinh doanh, ngân hàng bị tách và ngân hàng được tách phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của ngân hàng bị tách trừ trường hợp ngân hàng mới thành lập, ngân hàng bị tách và người có các khoản nợ mà ngân hàng chưa thanh toán có thỏa thuận khác. Như vậy, quyền lợi của người gửi tiền trong trường hợp NHTM bị tách do ngân hàng bị tách và ngân hàng được tách cùng liên đới chịu trách nhiệm. Nếu như giữa người gửi tiền, ngân hàng được tách và ngân hàng bị tách có thỏa thuận khác thì tuân theo sự thỏa thuận đó. 2.4.3. Trường hợp hợp nhất ngân hàng thương mại Theo quy định tại điều 4 Thông tư 04/2010/TT – NHNN quy định việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ chức tín dụng: “Hợp nhất tổ chức tín dụng là hình thức hai hoặc một số tổ chức tín dụng (sau đây gọi là tổ chức tín dụng bị hợp nhất) hợp nhất thành một tổ chức tín dụng mới (sau đây gọi là tổ chức tín dụng hợp nhất) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang tổ chức tín dụng hợp nhất, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các tổ chức tín dụng bị hợp nhất”. Vậy có thể hiểu hợp nhất NHTM là việc hai hay một số NHTM (NHTM bị hợp nhất) hợp nhất thánh một NHTM mới bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền và nghĩa vụ cũng như 48
  49. lợi ích hợp pháp sang cho NHTM hợp nhất. Theo điều 194 Luật doanh nghiệp 2014 quy định, sau khi đăng ký kinh doanh, các ngân hàng bị hợp nhất chấm dứt tồn tại còn NHTM hợp nhất được hưởng các quyền và lợi ích từ các NHTM bị hợp nhất, đồng thời chịu trách nhiệm về những khoản nợ chưa thanh toán cũng như các nghĩa vụ tài sản khác của ngân hàng bị hợp nhất. Như vậy, với trường hợp ngân hàng hợp nhất, ngân hàng hợp nhất được hưởng các lợi ích từ NHTM bị hợp nhất, trong đó có quyền được sử dụng vốn mà người gửi tiền gửi vào. Đồng thời phải chịu trách nhiệm về việc thanh toán các khoản tiền cho người gửi tiền, hay chính là việc người gửi tiền sẽ được bảo đảm quyền lợi bởi ngân hàng hợp nhất. Trong thời kỳ tái cơ cấu ngân hàng, hệ thống ngân hàng đã có nhiều vụ hợp nhất ngân hàng, tiêu biểu phải kể đến vào cuối năm 2011, lần đầu tiên NHNN chính thức chấp thuận sự hợp nhất tự nguyện của ba ngân hàng TMCP, là Ngân hàng TMCP Đệ nhất (FicomBank), ngân hàng TMCP Việt Nam Tín Nghĩa (TinNghiaBank) và ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB), dưới sự bảo trợ của Ngân hàng Đầu từ và phát triển Việt Nam (BIDV), tên gọi sau hợp nhất là Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB). Theo báo cáo tài chính năm 2012 của ngân hàng, sau khi hợp nhất, SCB tăng lên đáng kể về mặt lượng nguồn vốn và tài sản. SCB được hình thành từ ba ngân hàng với tình hình bi đát về tài chính, rình rập nguy cơ mất khả năng thanh khoản, tuy nhiên chỉ sau 1 năm hoạt động, từ năm 2011 lên 2012, ngân hàng đã nâng tổng mức tài sản lên hơn 149.000 tỷ đồng, gấp gần 2 lần tổng tài sản ban đầu của SCB, vốn chủ sở hữu cũng tăng lên hơn 11.000 tỷ, gấp gần 3 lần vốn chủ sở hữu của ngân hàng SCB trước khi hợp nhất. Đây là một dấu hiệu chứng tỏ sau khi hợp nhất sẽ có một NHTM mới “khỏe mạnh” hơn NHTM cũ, cũng chính là đảm bảo rằng quyền lợi của người gửi tiền sẽ luôn được đảm bảo. 49
  50. 2.4.4. Trường hợp sáp nhập ngân hàng thương mại Theo điều 4 Thông tư 04/2010/TT – NHNN quy định việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ chức tín dụng: “Sáp nhập tổ chức tín dụng là hình thức một hoặc một số tổ chức tín dụng (sau đây gọi là tổ chức tín dụng bị sáp nhập) sáp nhập vào một tổ chức tín dụng khác (sau đây gọi là tổ chức tín dụng nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang tổ chức tín dụng nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của tổ chức tín dụng bị sáp nhập”. Có thể hiểu rằng sáp nhập NHTM là việc một hoặc một số ngân hàng (ngân hàng bị sáp nhập) sáp nhập vào ngân hàng khác (ngân hàng nhận sáp nhập). Trường hợp NHTM sáp nhập cũng gần giống như trường hợp NHTM hợp nhất đó là việc sau khi đăng ký kinh doanh, ngân hàng bị sáp nhập chấm dứt tồn tại; ngân hàng nhận sáp nhập được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, nghĩa vụ tài sản khác của ngân hàng bị sáp nhập. Lúc này, ngân hàng nhận sáp nhập cũng được hưởng toàn bộ lợi ích của người gửi tiền, vì thế, đây cũng là chủ thể có nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Trong thời gian qua, nhiều vụ sáp nhập ngân hàng được diễn ra, tiêu biểu phải nói đến như MHB sáp nhập vào BIDV; PG.Bank sáp nhập vào VietinBank; MDB sáp nhập vào Maritime Bank (Quyết định có hiệu lực từ ngày 12.8.2015); SouthernBank sáp nhập vào Sacombank . Có thể thời gian đầu nhiều người gửi tiền hoang mang, nhưng càng các vụ sáp nhập ngân hàng về sau, người gửi tiền vẫn yên tâm và bình tâm hơn, bằng chứng là việc người gửi tiền dù nghe ngân hàng mình đang gửi tiền có nguy cơ sáp nhập với một ngân hàng nào đó thì cũng không có hiện tượng ồ ạt đi rút tiền như trước kia. Điều này chứng tỏ người gửi tiền càng ngày càng vững tin hơn vào nhà nước, vào các NHTM hợp nhất, sáp nhật khi thực hiện chỉ đạo của NHNN: “TCTD tham gia sáp nhập, hợp nhất, mua lại phải đảm bảo không ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng, đặc biệt quyền lợi của 50
  51. người gửi tiền tại từng TCTD tham gia sáp nhập, hợp nhất, mua lại” – điều 5 thông tư 04/2010/ TT – NHNN. 2.4.5. Trường hợp giải thể ngân hàng thương mại Theo điều 154 Luật các TCTD 2010 có quy định về việc các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bị giải thể trong các trường hợp: tự nguyện xin giải thể; khi hết thời hạn hoạt động không xin gia hạn hoặc xin gia hạn nhưng không được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản và bị thu hồi Giấy phép. Trường hợp tự nguyện xin giải thể thì chỉ được khi NTHM đó có khả năng thanh toán hết nợ và được NHNN chấp thuận bằng văn bản. Như vậy, khi các NHTM giải thể, phải đảm bảo rằng khi đó NHTM đó đã thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác. Có thể hiểu rằng tiền gửi (bao gồm cả gốc và lãi) của người gửi tiền sẽ được thanh toán hết trước khi NHTM tiến hành thủ tục giải thể. Quyền lợi người gửi tiền vẫn được đảm bảo khi NHTM giải thể, đây cũng là mục tiêu cuối cùng của nhà nước trong quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. 2.4.6. Trường hợp ngân hàng thương mại phá sản Tính đến thời điểm này, NHNN Việt Nam chưa phải áp dụng biện pháp phá sản đối với bất kỳ ngân hàng yếu kém nào. Sở dĩ vấn đề phá sản ngân hàng chưa xảy ra tại Việt Nam là bởi do một số yếu tố: nếu để ngân hàng phá sản sẽ tác động xấu đến hệ thống, thị trường và tâm lý của người dân; dù đã có luật nhưng các thủ tục phá sản, định giá, thanh lý tài sản rất phức tạp, trong khi Việt Nam lại chưa có kinh nghiệm và khả năng để đáp ứng được các yêu cầu này. Tuy nhiên, thời gian tới liệu NHNN sẽ xem xét nghiên cứu và trình Chính phủ cho phép áp dụng phá sản đối với TCTD phi ngân hàng hay không nếu trường hợp việc phá sản này không gây ảnh hưởng lớn đến an toàn, ổn định của hệ thống và nền kinh tế. 51
  52. Khác với thủ tục phá sản doanh nghiệp thông thường, Luật Phá sản 2014 quy định rõ việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với TCTD chỉ thực hiện sau khi NHNN có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản chấm dứt áp dụng biện pháp phục hồi khả năng thanh toán hoặc văn bản không áp dụng biện pháp phục hồi khả năng thanh toán Khi TCTD có nguy cơ mất khả năng thanh toán, NHNN sẽ xem xét, quyết định áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt đối với TCTD đó. Việc mở thủ tục phá sản đối với TCTD sẽ được thực hiện khi TCTD không có khả năng khôi phục được khả năng thanh toán. Tòa án nhân dân thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản TCTD khi đã có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hay văn bản chấm dứt áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp phục hồi khả năng thanh toán của NHNN mà TCTD vẫn mất khả năng thanh toán. Để bảo đảm quyền lợi cho đối tượng gửi tiền tại TCTD, điều 101 Luật phá sản 2014 quy định về thứ tự phân chia tài sản thì các khoản tiền gửi, khoản tiền tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải trả cho người gửi tiền tại TCTD phá sản được ưu tiên chi trả trước các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước; khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho chủ nợ trong danh sách chủ nợ; khoản nợ có bảo đảm chưa được thanh toán do giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán nợ. Theo đó, thứ tự phân chia tài sản trong phá sản TCTD được thực hiện theo trình tự sau: (i) Chi phí phá sản; (ii) Khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao động, quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể đã ký kết; (iii) Khoản tiền gửi; khoản tiền tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải trả cho người gửi tiền tại TCTD phá sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi và hướng dẫn của NHNN; (iv) Nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước; khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho chủ nợ trong danh sách chủ nợ; khoản nợ có bảo đảm chưa được thanh toán do giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán nợ. Trường hợp giá trị tài sản không đủ để thanh toán các khoản nợ nêu trên, các đối tượng thuộc cùng một thứ tự ưu tiên được 52
  53. thanh toán theo tỷ lệ phần trăm tương ứng với số nợ. Như vậy, người gửi tiền dù là ngân hàng phá sản thì số tiền gửi tại ngân hàng đó vẫn được đảm bảo và được ưu tiên trả trước. Ngoài ra, Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật BHTG: “BHTG là sự bảo đảm hoàn trả tiền gửi cho người được BHTG trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia BHTG lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản”. Như vậy, đối với trường hợp NHTM bị phá sản, ngoài việc hoàn trả tiền của người gửi tiền theo thủ tục thanh lí tài sản và các khoản nợ của Luật phá sản, người gửi tiền còn được thanh toán tiền gửi theo quy định của Luật BHTG. Hiện nay, chỉ có Thông tư 04/2010/TT- NHNN quy định về sáp nhập, hợp nhất, mua lại TCTD, chưa có quy định riêng về chia, tách, giải thể và phá sản các TCTD mà phải dựa theo thủ tục, trình tự của Luật doanh nghiệp. Như vậy, hệ thống pháp luật quy định về các trường hợp chấm dứt hoạt động của NHTM còn sơ sài, quy định về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền trong những trường hợp này cón chưa thành hệ hống thống nhất và chi tiết mà phải nhặt nhạnh quy định của văn bản này, văn bản khác để áp vào. Nhưng thực tế cũng cho thấy, ở Việt Nam chưa từng thấy có NHTM nào bị phá sản, ta vẫn thấy được nhà nước ta còn quá “nhân đạo” trong việc xử lý các NHTM và “nhân đạo” ngay từ khâu quy định pháp luật về vấn đề này. 53
  54. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI GỬI TIỀN 3.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền 3.1.1. Ban hành luật bảo vệ quyền lợi người gửi tiền Có thể thấy hiện nay, các quy định bảo vệ quyền lợi người gửi tiền không nằm trong văn bản pháp luật riêng biệt mà nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Điều này gây khó khăn không nhỏ cho người gửi tiền cũng như các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc tìm kiếm cũng như áp dụng các biện pháp bảo vệ quyền lợi người gửi tiền theo quy định của pháp luật. Việc này cũng có thể gây ra việc cơ quan này áp dụng luật này mà cơ quan khác lại áp dụng quy định ở luật khác trong cùng một tranh chấp. Việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền hiện nay dựa vào Luật BHTG 2012 là chủ yếu. Luật BHTG 2012 ra đời khắc phục những thiếu sót của hệ thống pháp luật BHTG trước đây. Tuy nhiên, luật BHTG chưa thực sự bảo vệ được hết tất cả các quyền lợi mà người gửi tiền đáng được hưởng, còn nhiều quyết định cũng như nhiều phạm trù liên quan đến người gửi tiền chưa được quy định trong luật BHTG. Do vậy, để khắc phục tình trạng về pháp luật như hiện nay, cần thiết phải ban hành một luật chuyên về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, trong đó quy định đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người gửi tiền, của các TCTD; cơ quan bảo vệ người gửi tiền; những quy định bảo vệ người gửi tiền trong trường hợp các NHTM chấm dứt hoạt động cũng như các quy định của từng hoạt động mà người gửi tiền tham gia và quyền lợi của họ trong từng hoạt động đó. Đặc biệt, luật này cần thống nhất khái niệm người gửi tiền bởi chưa có văn bản nào quy định chi tiết về đối tượng này, chưa nói đến việc Luật BHTG chỉ bảo vệ quyền lợi người gửi tiền là cá 54
  55. nhân, vậy tức là luật không bảo vệ quyền lợi của các tổ chức như các doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh hay hộ gia đình . Như vậy, các tổ chức như những đối tượng vừa nêu trên có được coi là người gửi tiền? Nếu họ cũng là người gửi tiền thì tại sao lại không có cơ chế bảo hiểm tiền gửi cho họ? Phải chăng nguyên nhân chính vẫn là do chưa có khái niệm thống nhất và chi tiết nhất về người gửi tiền. Luật mới nếu được xây dựng thành, chắc chắn vấn đề này sẽ được giải quyết nhanh chóng, hiệu quả, không còn bị lúng túng cho các nhà làm luật cũng như các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, việc xây dựng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền cần thống nhất với pháp luật bảo hiểm tiền gửi, đảm bảo hai luật này cùng tạo ra cơ chế sắc bén bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Bên cạnh đó, luật này ban hành cũng cần phù hợp với quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, phù hợp với cả chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Để đạt được điều này, cần phải nắm vững các nguyên tắc cũng như tinh thần của các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia để phù hợp với tình hình thực tiễn Việt Nam và các quy định quốc tế. 3.1.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hợp đồng gửi tiền Khi người gửi tiền đến một NHTM để gửi tiền, có thể nói hoạt động này không có hợp đồng mà nếu có thì đó chỉ là hợp đồng bằng miệng. Hoạt động gửi tiền và nhận tiền gửi chủ yếu được thực hiện qua các giấy tờ kê khai thông tin của người gửi tiền, nhân viên ngân hàng sẽ nhận giấy tờ cũng như số tiền mà người gửi tiền gửi vào ngân hàng, sau đó chỉ có một sổ tiết kiệm đưa cho người gửi tiền mang về. Như vậy, không có một minh chứng cụ thể cũng như chặt chẽ cho việc người gửi tiền và NHTM có một quan hệ gửi – giữ với nhau. Điều này gây ra nhiều rắc rối cũng tạo thành một bất lợi cho người gửi tiền khi xảy ra tranh chấp với NHTM, nhất là trong việc lấy chứng cứ. Cũng như việc tranh chấp, khi một NHTM chấm dứt hoạt động, việc trả tiền BHTG cũng sẽ có nhiều thuận lợi nếu như người gửi tiền và 55
  56. NHTM trước đó có một hợp đồng rõ ràng với nhau. Từ đó hai bên có thể hiểu rõ về quyền lợi, nghĩa vụ của mỗi bên, tránh xảy ra những hậu quả không đáng có. Chính vì vậy, pháp luật cần phải quy định rõ việc gửi tiền tại NHTM cần lập thành hợp đồng, nội dung, hình thức hợp đồng tuân theo quy định của Bộ luật dân sự, để qua đó ta thấy được sự thỏa thuận công bằng giữa hai bên tham gia hoạt động, cũng như vị thế của người gửi tiền cũng được nâng cao hơn. 3.1.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật đối với giải quyết tranh chấp giữa người gửi tiền và ngân hàng thương mại. Hầu hết người dân nước ta không có nhiều kiến thức về pháp luật, đặc biệt là pháp luật trong việc tranh chấp. Trong tranh chấp giữa người gửi tiền và ngân hàng thì bao giờ ngân hàng cũng là bên có nhiều lợi thế còn người gửi tiền là bên yếu thế hơn. Hiện nay, pháp luật nước ta không có quy định nào liên quan đến việc giải quyết tranh chấp giữa người gửi tiền và NHTM. Một phần lý do là bởi tranh chấp thường ít xảy ra và nếu có xảy ra thì việc giải quyết tranh chấp thường chỉ bằng hình thức thương lượng, rất ít trường hợp NHTM để việc tranh chấp này dẫn đến kiện cáo, làm ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Cũng có thể thấy, NHTM là bên có bệ đỡ khá vững chắc từ NHNN hay các cơ quan nhà nước khác, chính vì vậy, họ có nhiều thế mạnh trong vụ tranh chấp với người gửi tiền. Do vậy, pháp luật cần quy định rõ người gửi tiền được hỗ trợ trong việc lấy chứng cứ và cả về pháp lý do việc NHTM xâm phạm quyền lợi của người gửi tiền chỉ có NHTM đó mới có đầy đủ các thông tin liên quan đến việc xâm phạm của mình. Người gửi tiền không hề có bằng chứng liên quan đến việc vi phạm của NTHM dù họ biết việc vi phạm đó là có thật. Lúc này, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như NHNN hay Ủy ban giám sát tài chính quốc gia hay các cơ quan nhà nước liên quan khác cần hỗ trợ người gửi tiền để họ có đươc chứng cứ phù hợp đặc biệt về khoa học công nghệ, 56
  57. bởi các giao dịch hay thông tin liên quan đều được các ngân hàng lưu trữ trong hệ thống thông tin của ngân hàng. Trong trường hợp người gửi tiền từ chối nhận hỗ trợ từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì mới bỏ qua giai đoạn này, nhưng nhìn chung ít có trường hợp người gửi tiền bỏ qua sự giúp đỡ này. 3.1.4. Hoàn thiện quy định pháp luật về việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền trong trường hợp ngân hàng thương mại chấm dứt hoạt động Thực tế hệ thống pháp luật của chúng ta hiện nay thì quy định về quyền của người gửi tiền trong trường hợp ngân hàng chấm dứt hoạt động còn quá sơ sài. Văn bản pháp luật chỉ quy định về trường hợp NHTM sáp nhập, hợp nhất và phá sản, nhưng việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền khi NHTM phá sản thì vì áp dụng theo Luật phá sản nên được quy định chi tiết hơn. Còn trường hợp sáp nhập, hợp nhất chưa được rõ ràng mà chỉ dựa vào thông tư 04/2010/TT - NHNN, nhưng việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền trong thông tư này còn khá mờ nhạt. Việc chia, tách, giải thể NHTM thì luật chỉ nhắc đến các cụm từ này mà không hề có quy định nào rõ ràng, hoàn toàn phải áp theo quy định của Luật doanh nghiệp 2014. Chính từ những thiếu sót từ hệ thống pháp luật hiện này liên quan đến những vấn đề này, cần thiết phải quy định rõ các vấn đề bảo vệ quyền lợi người gửi tiền trong trường hợp NHTM chấm dứt hoạt động. Để thực hiện được điều này, chúng ta cũng cần có cái nhìn khác hơn về việc chấm dứt hoạt động của các NHTM đồng thời cũng cần có các biện pháp đề phòng trong việc này để nếu trường hợp NHTM có chấm dứt hoạt động thì cũng không gây nhiều ảnh hưởng đến nền kinh tế đất nước nói chung. 57
  58. 3.1.5. Tăng hạn mức chi trả tiền gửi và có chính sách phù hợp để thu hút tiền gửi ngoại tệ và vàng a) Tăng hạn mức chi trả tiền gửi Hạn mức chi trả tiền bảo hiểm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng nhìn chung phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản sau: thu nhập quốc nội (GDP) bình quân đầu người; quy mô tỷ lệ quỹ BHTG Theo nghị định 109/2005/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi thì từ năm 2005 đến nay, “số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi bao gồm cả gốc và lãi của một người gửi tiền (một cá nhân hoặc người đại diện theo pháp luật) tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi , tối đa là 50 (năm mươi) triệu đồng”. Hạn mức này được đánh giá là phù hợp với thông lệ quốc tế vào thời điểm xây dựng, tức là tương đương gấp 5,5 lần GDP bình quân đầu người năm 2005 và bảo vệ được toàn bộ tài khoản của khoảng 80% số người gửi tiền nếu ngân hàng bị phá sản, giải thể. Tuy nhiên, với tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng giá tiêu dùng trong hơn 10 năm vừa qua, hạn mức này đã trở nên không phù hợp, không có ý nghĩa do không bảo vệ được đa số người gửi tiền tiết kiệm. Khi xảy ra hiện tượng mất khả năng chi trả của các tổ chức tín dụng, người gửi tiền chỉ được chi trả tối đa 50 triệu đồng là con số quá ít so với thu nhập bình quân đầu người ở nước ta hiện nay – khoảng 2.109 USD, tương đương hơn 45 triệu đồng. Chính vì sự tăng trưởng kinh tế đất nước như hiện nay nên rất cần xây dựng một hạn mức chi trả tiền gửi mới phù hợp với thu nhập bình quân người dân như hiện nay. Với đề xuất áp dụng hạn mức chi trả BHTG gấp 5,5 lần thu nhập quốc nội bình quân, hạn mức chi trả sẽ ở mức: 22.000 đồng x 2.109 USD x 5,5 lần = 255.189.000 đồng (GDP bình quân đầu người năm 2015 Việt Nam ước tính đạt 45,7 triệu đồng, tương đương 2.109 USD (theo mục số liệu thống kê 2005, website Tổng cục thống kê); 22.000 đồng là tỷ giá tương đối tại thời điểm tháng 4/2016) 58