Khóa luận Pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực giáo dục phổ thông
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực giáo dục phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_phap_luat_va_dao_duc_trong_linh_vuc_giao_duc_pho_t.pdf
Nội dung text: Khóa luận Pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực giáo dục phổ thông
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP BỘ MÔN: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT Tên đề tài: PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Người hướng dẫn khoa học : GS.TS HOÀNG THỊ KIM QUẾ Họ và tên : Nguyễn Thị Cẩm Linh Lớp : K60B Mã số sinh viên : 15062431 Chuyên ngành : Luật học Hà Nội - 2019
- MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Đối tượng, mục đích nghiên cứu 3 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG LĨNH VỰC LUẬT GIÁO DỤC PHỔ THÔNG 4 1.1. Nhận thức chung về lĩnh vực Giáo dục phổ thông. 4 1.2. Nhận thức chung về pháp luật và đạo đức 7 1.2.1. Khái niệm pháp luật. 7 1.2.2. Khái niệm đạo đức. 9 1.3. Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong lĩnh vực Giáo dục phổ .thông 10 1.3.1. Khái quát chung về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật 10 1.3.2.Sự thống nhất và khác biệt giữa pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực giáo dục phổ thông 11 1.3.3. Sự tác ộđ ng qua lại giữa pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực giáo dục phổ thông 12 1.3.4. Các mối quan hệ xã hội trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông chịu sự điều chỉnh của pháp luật và đạo đức 15 1.3.4.1. Quan hệ giữa thầy trò 15 1.3.4.2. Quan hệ giữa bạn học 19 1.4. Vai trò của pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực Luật Giáo dục phổng thô 19 1.4.1. Vai trò của pháp luật trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông 19 1.4.2. Vai trò của đạo đức trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông 20 1.4.3. Vai trò của mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật đối với lĩnh vực Giáo dục phổ thông. 22 1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông 24
- CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC LĨNH VỰC GIÁO DỤC PHỔ THỐNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐẢM BẢO THỰC HIỆN 27 2.1. Thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong hệ thống pháp luật Việt Nam về Giáo dục phổ thông 27 2.1.1. Những điểm tiến bộ của hệ thống pháp luật nói chung khi điều chỉnh các vấn đề thuộc lĩnh vực Giáo dục phổ thông. 27 2.1.2. Chương trình giáo dục phổ thông mới kế thừa những gì từ chương trình hiện hành 29 2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật và tuân thủ các giá trị đạo đức trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông ở nước ta hiện nay 30 2.2.1. Thực trạng thực hiện pháp luật và tuân thủ các giá trị đạo đức của đội ngũ giáo viên, cán bộ, công chức. 30 2.2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật và tuân thủ các giá trị đạo đức của các học sinh. 32 2.3. Những kết quả đạt được và những tồn tại cần khắc phục của pháp luật và đạo đức khi điều chỉnh các vấn đề thuộc lĩnh vực Giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay 33 2.3.1. Những kết quả đạt được của pháp luật khi điều chỉnh các vấn đề thuộc lĩnh vực Giáo dục phổ thông. 33 2.3.2 Những hạn chế của pháp luật khi điều chỉnh các vấn đề thuộc lĩnh vực Giáo dục phổ thông. 35 2.3.2.1. Những hạn chế trong các văn bản pháp luật về Giáo dục phổ thông 35 2.3.2.2. Những hạn chế trong chất lượng và các khía cạnh khác của Giáo dục phổ thông. 36 2.3.3. Những vấn đề cần đổi mới trong nền Giáo dục phổ thông nước ta 39 2.4. Một số quan điểm Giáo dục phổ thông trên thế giới 41 2.5. Một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông hiện nay 43
- 2.5.1. Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc tạo mối quan hệ hài hòa, chặt chẽ giữa đạo đức và pháp luật trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông 43 2.5.2. Hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực Giáo dục phổ thông 43 2.5.3. Bảo vệ và phát huy các giá trị chuẩn mực đạo đức truyền thống 44 2.5.4. Kết hợp Giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông. 44 2.5.5. Kiểm tra, xử lý kịp thời, công bằng mọi hành vi vi phạm pháp luật về Giáo dục phổ thông. 45 2.5.6. Tạo lập dư luận xã hội trong phòng chống vi phạm đạo đức trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông 45 2.6. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông 46 KẾT LUẬN 49 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 50
- LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển xã hội, muốn phát triển xã hội phải chăm lo nhân tố con người về thể chất và tinh thần, nhất là về học vấn, nhận thức về thế giới xung quanh để họ có thể góp phần xây dựng và cải tạo xã hội. Bác Hồ đã từng nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” bởi không có tri thức, hiểu biết về xã hội, tự nhiên và chính bản thân mình, con người sẽ luôn lệ thuộc, bất lực trước những sức mạnh cản trở sự phát triển của dân tộc, đất nước mình. Cũng như các mối quan hệ xã hội khác, Giáo dục được điều chỉnh bởi nhiều công cụ khác nhau. Trong đó, pháp luật và đạo đức là hai công cụ điều chỉnh quan trọng nhất. Cả hai công cụ này đều có những ưu điểm cũng như hạn chế nhất định, song giữa chúng có mối quan hệ mật thiết qua lại, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. Do đó, trong quá trình điều chỉnh các Giáo dục cần phải có sự kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa pháp luật và đạo đức để phát huy tối đa những ưu điểm, hạn chế nhược điểm của chúng nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất trong hoạt động quản lý xã hội. Xã hội càng phát triển, pháp luật càng có vai trò to lớn trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, đặc biệt là các mối quan hệ có tính chất phức tạp. Đó là vì pháp luật được nhà nước ban hành và đảm bảo bằng quyền lực, sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Thậm chí ngay cả các mối quan hệ quốc tế hiện nay cũng đề cao vai trò, sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật. Có thể nói, pháp luật là một công cụ điều chỉnh, quản lý xã hội quan trọng, không thể thiếu của bất kỳ một quốc gia nào muốn xây dựng một nhà nước pháp quyền văn minh, tiến bộ nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển của xã hội. Tuy nhiên, pháp luật không phải là công cụ vạn năng có thể xác lập hay xóa bỏ một mối quan hệ xã hội nào đó một cách duy ý chí. Cũng không phải tất cả các vấn đề của xã hội đều có thể giải quyết bằng các quy định của pháp luật. 1
- Pháp luật của mỗi quốc gia hay quốc tế cũng đều phải dựa trên các quy luật mang tính khách quan, theo sự vận động và phát triển của các mối quan hệ xã hội nhằm điều chỉnh một cách phù hợp nhất. Đồng thời, cũng cần đến những công cụ, chuẩn mực điều chỉnh xã hội khác như: đạo đức; phong tục, tập quán; tôn giáo bổ sung. Việc quá đề cao hay xem nhẹ pháp luật đều có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc quản lý, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, đồng thời không phát huy được tối đa vai trò, giá trị của pháp luật. Cùng với pháp luật, đạo đức cũng có vị trí, vai trò và giá trị xã hội hết sức quan trọng. Đặc biệt là ở các quốc gia phương Đông như Việt Nam, Hàn Quốc, Trung Quốc Những quốc gia chịu ảnh hưởng nhiều của những giá trị đạo đức truyền thống. Tuy nhiên, trên thực tế có một thời gian dài do nhận thức xã hội, vị trí, vai trò và giá trị xã hội của đạo đức chưa được nhận thức một cách đầy đủ và đúng đắn. Ở Việt Nam, những giá trị to lớn của đạo đức truyền thống, thuần phong mỹ tục tốt đẹp của quốc gia chưa được khai thác và sử dụng triệt để. Những ưu điểm của pháp luật và đạo đức không được phát huy hết, đồng thời cũng không có sự bổ trợ qua lại giữa pháp luật và đạo đức trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội nói chung, các quan hệ pháp luật Giáo dục phổ thông nói riêng và tất nhiên, hiệu quả đạt được trong việc quản lý xã hội là chưa thực sự cao. Hiện nay, nước ta đã nhận thức được vị trí, vai trò và giá trị xã hội của đạo đức, truyền thống và đã có sự vận dụng mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức vào việc xây dựng các quy định của pháp luật. Ở mỗi lĩnh vực, mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức cũng có sự biểu hiện khác nhau và cần phải có sự áp dụng một cách linh hoạt, hài hòa để đạt được hiệu quả. Với việc nhận thức tầm quan trọng của mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong việc xây dựng pháp luật, tầm quan trọng của việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong Giáo dục đặc biệt là Giáo dục phổ thông, em đã chọn đề tài: “PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG LĨNH VỰC LUẬT GIÁO DỤC PHỔ THÔNG” để làm khóa luận tốt nghiệp của mình. 2
- 2. Đối tượng, mục đích nghiên cứu Thông qua đề tài luận án này, em sẽ đi sâu nghiên cứu pháp luật, đạo đức, mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông để nhằm đạt được những mục đích sau: Thứ nhất, nghiên cứu làm sáng tỏ vị trí, vai trò, giá trị của pháp luật, đạo đức và mối quan hệ pháp luật và đạo đức trong Giáo dục phổ thông; Thứ hai, nghiên cứu để thấy được thực trạng của việc ứng dụng các khía cạnh trong Giáo dục phổ thông tại Việt Nam; Thứ ba, kết hợp pháp luật và đạo đức để nâng cao hơn nữa hiệu quả của Giáo dục phổ thông nước ta và kế thừa từ những nước có nền Giáo dục hàng đầu thế giới: Mỹ, Nhật,Đức, 3
- CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG LĨNH VỰC LUẬT GIÁO DỤC PHỔ THÔNG 1.1. Nhận thức chung về lĩnh vực Giáo dục phổ thông. - Khái niệm Giáo dục: Là một quá trình bao gồm tất cả các hoạt động hướng vào sự phát triển và rèn luyện năng lực (tri thức, kỹ năng, kỹ xảo) và phẩm chất ( niềm tin, đạo đức , thái độ, ) ở con người để có thể phát triển nhân cách đầy đủ và trở nên có giá trị tích cực đối với xã hội. Theo nghĩa hẹp hơn, giáo dục là một quá trình được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch nhằm truyền đạt và lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội của loài người. - Khái niệm Giáo dục phổ thông: Thực hiện Luật Giáo dục và Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28 tháng 11 năm 2014 của Quốc hội, có thể hiểu: chương trình Giáo dục phổ thông là toàn bộ phương hướng và kế hoạch Giáo dục phổ thông, trong đó nêu rõ mục tiêu Giáo dục phổ thông, quy định yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực đối với học sinh, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học, chuyên đề học tập và hoạt động trải nghiệm sáng tạo (gọi chung là môn học) ở mỗi lớp và mỗi cấp học của Giáo dục phổ thông. Chương trình tổng thể là phương hướng và kế hoạch khái quát của toàn bộ chương trình Giáo dục phổ thông, trong đó quy định những vấn đề chung của Giáo dục phổ thông, bao gồm: Quan điểm xây dựng chương trình, mục tiêu chương trình Giáo dục phổ thông và mục tiêu chương trình giáo dục của từng cấp học, yêu cầu cần đạt về phẩm chất chủ yếu và năng lực chung của học sinh cuối mỗi cấp học, các lĩnh vực giáo dục và hệ thống các môn học, thời lượng của từng môn học, định hướng nội dung giáo dục bắt buộc ở từng lĩnh vực giáo dục và phân chia vào các môn học ở từng cấp học đối với tất cả học sinh trên phạm vi toàn quốc, định hướng về phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục và cách 4
- thức đánh giá chất lượng giáo dục của từng môn học, điều kiện tối thiểu của nhà trường để thực hiện được chương trình. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Quy định tiêu chuẩn, quy trình xây dựng, chỉnh sửa chương trình Giáo dục phổ thông; tổ chức và hoạt động của hội đồng quốc gia thẩm định chương trình Giáo dục phổ thông được ban hành kèm theo Thông tư 14/2017/TT-BGD&ĐT (có hiệu lực từ 22/07/2017): Giáo dục phổ thông gồm giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở (giai đoạn giáo dục cơ bản) và giáo dục trung học phổ thông (giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp). Tiểu học (TH) Cấp tiểu học hay còn được gọi là cấp I, bắt đầu năm 6 tuổi đến hết năm 10 tuổi. Cấp I là một cấp học phổ cập, gồm có 5 trình độ, từ lớp 1 đến lớp 5. Đây là cấp học bắt buộc đối với mọi công dân. Trung học cơ sở (THCS) Cấp II gồm có 4 trình độ, từ lớp 6 đến lớp 9, bắt đầu từ năm 11 đến năm 14 tuổi. Đây cũng là một cấp học phổ cập, một cấp học bắt buộc để công dân có thể có một nghề nghiệp nhất định (tốt nghiệp cấp II có thể học nghề hay trung cấp chuyên nghiệp mà không cần học tiếp bậc Trung học phổ thông). Trung học phổ thông (THPT) Cấp III gồm 3 trình độ, từ lớp 10 đến lớp 12, bắt đầu từ năm 15 tuổi đến hết năm 17 tuổi. Để tốt nghiệp cấp III, học sinh phải tham gia Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông tại Việt Nam của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam. - Nhà trường và tất cả những gì diễn ra trong nhà trường là quá trình vận động phát triển dựa trên các đối tượng động là người dạy (giáo viên) - người học (học sinh) - và người quản lý (nhà trường). Vì thế, để giáo dục phổ thông phát triển theo đúng yêu cầu và nhiệm vụ của nó, chúng ta cần quan tâm đến những đặc trưng xã hội - nhân văn của con người, bao gồm: + Tâm sinh lý con người trong giáo dục phổ thông. + Tương quan kinh tế trong giáo dục phổ thông. + Ðạo đức và các giá trị trong giáo dục phổ thông. 5
- + Lịch sử và văn hoá xã hội của giáo dục phổ thông. + Những yếu tố liên quan khác. Giáo dục là điều kiện tiên quyết giúp quyết định nền kinh tế của đất nước đó có phát triển hay không, xã hội đó có ổn định hay không, đất nước đó có nhiều nhân tài để phục vụ cho đất nước hay không. Chính vì vậy giáo dục đào tạo đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển của đất nước. - Vai trò của Giáo dục phổ thông: Trong đời sống xã hội, giáo dục là lĩnh vực có vai trò quan trọng đối với mọi quốc gia, dân tộc ở mọi thời đại. Trong xu thế phát triển tri thức ngày nay, giáo dục - đào tạo được xem là chính sách, biện pháp quan trọng hàng đầu để phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới và Việt Nam không phải là ngoại lệ. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển xã hội, muốn phát triển xã hội phải chăm lo nhân tố con người về thể chất và tinh thần, nhất là về học vấn, nhận thức về thế giới xung quanh để họ có thể góp phần xây dựng và cải tạo xã hội. Bác Hồ đã từng nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” bởi không có tri thức, hiểu biết về xã hội, tự nhiên và chính bản thân mình, con người sẽ luôn lệ thuộc, bất lực trước những thế lực và sức mạnh cản trở sự phát triển ủac dân tộc, đất nước mình. Giáo dục phổ thôn góp phần nâng cao dân trí ở mọi quốc gia, dân tộc. Ngày nay, giáo dục và đào tạo còn góp phần tạo ra hệ thống giá trị xã hội mới. Trong nền kinh tế tri thức hiện nay, tri thức là sản phẩm của giáo dục và đào tạo, đồng thời là tài sản quý giá nhất của con người và xã hội. Sở hữu tri thức trở thành sở hữu quan trọng nhất được các nước thừa nhận và bảo hộ. Nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia, dân tộc từ tài nguyên, sức lao động cơ bắp là chính chuyển sang nguồn lực con người có tri thức là cơ bản nhất. Giáo dục góp phần bảo vệ chế độ chính trị của mỗi quốc gia, dân tộc bởi giáo dục phổ thồn góp phần tạo ra nền tảng để xây dựng đội ngũ lao động có trình độ cao làm giàu của cải vật chất cho xã hội đồng thời có bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ sức chống lại các cuộc “xâm lăng văn hóa” trong quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu. 6
- Giáo dục phổ thông góp phần cung cấp nguồn nhân lực có trình độ góp phần phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Việt Nam đang tiến hành phổ cập giáo dục trung học cơ sở, trình độ lao động phổ thông còn thấp, ít được đào tạo nghề, vẫn còn khoảng gần 60% lao động nông nghiệp, nên hiện mới bước đầu xây dựng kinh tế tri thức. Giáo dục nhằm phát huy năng lực nội sinh “đi tắt, đón đầu” rút ngắn thời gian công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việt Nam khẳng định giáo dục - đào tạo cùng với khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu, là điều kiện phấn đấu để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp. Giáo dục phổ thông bồi dưỡng nhân tài, xây dựng đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao. Đào tạo nhân lực có trình độ cao góp phần quan trọng phát triển khoa học công nghệ là yếu tố quyết định của kinh tế tri thức. Kinh tế tri thức được hiểu là kinh tế trong đó có sự sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức là yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế, làm giàu của cải vật chất, nâng cao chất lượng cuộc sống. Tất cả các quốc gia phát triển đều có chiến lược phát triển giáo dục. Trong “Báo cáo giám sát toàn cầu giáo dục cho mọingười”, tổ chức UNESCO cũng đã khuyến khích các nước phải chi tiêu ít nhất 6% GDP cho giáo dục. Nhận thức rõ vai trò của giáo dục phổ thông đối với sự phát triển, Nhà nước ta khẳng đinh: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Việc đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay đang là mối quan tâm của các cấp, ngành, các nhà khoa học và toàn xã hội. Chọn khoa học và giáo dục làm khâu đột phá cho phát triển. Chọn giáo dục làm tiền đề, làm xương sống của phát triển bền vững là xác định đúng đắn và khoa học. 1.2. Nhận thức chung về pháp luật và đạo đức 1.2.1. Khái niệm pháp luật và các đặc trưng cơ bản. - Khái niệm về pháp luật được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và được thể hiện trong các giáo trình, các sách tham khảo của các trường đại học, cá nhân người viết sau khi tìm hiểu và nghiên cứu có đồng quan điểm với khái niệm pháp luật được thể hiện ở phần trên của Đại học Quốc gia Hà Nội, có thể định nghĩa: 7
- Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của Nhà nước, của giai cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội, đảm bảo thực hiện bằng Nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn định xã hội vì sự phát triển bền vững của xã hội [26, tr.288]. - Nhìn một cách tổng quát, pháp luật có những đặc trưng cơ bản sau: Tính quyền lực của pháp luật (tính nhà nước, tính cưỡng chế): Pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Nói một cách khác, pháp luật được hình thành và phát triển bằng con đường nhà nước chứ không thể bằng bất kỳ một con đường nào khác. Với tư cách của mình, nhà nước là một tổ chức hợp pháp, công khai và có quyền lực bao trùm loàn xã hội. Vì vậy, khi pháp luật được nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, nó sẽ có sức mạnh của quyền lực nhà nước và có thể tác động đến tất cả mọi người Tính quy phạm của pháp luật: Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự đó là những khuôn mẫu, những mực thước được xác định cụ thể, không trừu tượng, chung chung. Tính quy phạm của pháp luật nói lên giới hạn cần thiết mà nhà nước quy định để mọi người (chủ thể) có thể xử sự một cách tự do trong khuôn khổ cho phép. Vượt quá giới hạn đó là trái luật. Vì vậy, nói đến pháp luật suy cho cùng là phải xét đến các quy phạm cụ thể. Nếu không có quy phạm pháp luật được đặt ra thì cũng không thể quy kết một hành vi nào là vi phạm, là trái pháp luật. Tính ý chí của pháp luật: Pháp luật bao giờ cũng là hiện tượng ý chí, không phải là kết quả của sự tự phát hay cảm tính. Xét về bản chất, ý chí trong pháp luật là ý chí của giai cấp, lực lượng cầm quyền. Ý chí đó thể hiện rõ ở mục đích xây dựng pháp luật, nội dung pháp luật và dự kiến hiệu ứng của pháp luật khi triển khai vào thực tế đời sống xã hội. Tính xã hội của pháp luật: muốn pháp luật phát huy được hiệu lực thì nó phải phù hợp với những điều kiện cụ thể của xã hội. Ở thời điểm tồn tại của nó, nghĩa là pháp luật phải phản ánh đúng những nhu cầu khách quan của xã hội. Như vậy ở đặc trưng này nét khác biệt của pháp luật so với các quy phạm xã hội 8
- khác thể hiện ở tính oànt diện và tính điển hình (phổ biến) của các mối quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh. Tuy nhiên, những đặc trưng đã nêu chỉ là những đặc trưng cơ bản, bên cạnh chúng còn có những đặc trưng khác. Tùy thuộc vào yêu cầu xem xét kỹ về một kiểu pháp luật, một hệ thống pháp luật điển hình của một khu vực hoặc một quốc gia nhất định, chúng ta sẽ đề cập một cách cụ thể hơn. Ví dụ: tính khái quát và cụ thể, thành văn và không thành văn, tính nghiêm khắc và nhân đạo. 1.2.2. Khái niệm đạo đức và các đặc trưng cơ bản. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội [11, tr.8]. Trước hết, đạo đức là một trong những hình thái sớm nhất của ý thức xã hội bao gồm những chuẩn mực nguyên tắc xã hội, nhờ đó, con người điều chỉnh hành vi của mình, cũng như đánh giá hành vi của người khác theo quan điểm thiện ác, về cái được làm và cái không nên làm, sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người, của mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với xã hội. Đạo đức ra đời do nhu cầu của xã hội phải điều tiết mối quan hệ giữa các cá nhân và hoạt động chung của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống. Đạo đức là những quy định, chuẩn mực ứng xử của con người với con người, con người với công việc và thiên nhiên cũng như môi trường sống được nhiều người ủng hộ và tự giác thực hiện Các đặc trưng cơ bản của đạo đức bao gồm: + Nghĩa vụ của cá nhân với đất nước, xã hội và các lợi ích chung + Lương tâm của bản thân trong các mối quan hệ xã hội + Nhân phẩm và danh dự của mỗi con người + Hạnh phúc của con người Tính đạo đức thể hiện bản chất xã hội của con người là nét cơ bản trong tính người, sự tiến bộ của ý thức đạo đức là cái không thể thiếu trong sự tiến bộ 9
- chung của xã hội. Như đã nói ở trên, đạo đức là một trong những hình thái sớm nhất của ý thức xã hội, nó ra đời khi con người bắt đầu có ý thức về bản thân cũng như về mối quan hệ của chính mình với cộng đồng. Trong hình thức xã hội đầu tiên – xã hội cộng sản nguyên thủy, những chuẩn mực đạo đức và tín điều tôn giáo đã trở thành những quy phạm xã hội, mọi người trong xã hội đều tuân theo một cách tự nguyện do đó do đó là những quy tắc do họ cùng nhau đặt ra. Nhưng khi chế độ cộng sản nguyên thủy sụp đổ, cùng với sự ra đời của một xã hội có giai cấp, xuất hiện tư hữu, nhà nước ra đời kéo theo sự ra đời của pháp luật. Pháp luật là hệ thống các quy phạm có tính bắt buộc, do nhà nước ban hành, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, là công cụ sắc bén để thực hiện quyền lực nhà nước. Ngoài việc bảo đảm trật tự xã hội, vì lợi ích xã hội, luật pháp còn duy trì địa vị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Như vậy, có thể khẳng định đạo đức luôn được gắn với những thời kỳ lịch sử nhất định và có những giá trị đạo đức chỉ phù hợp với những hoàn cảnh xã hội nhất định, các giá trị đạo đức không đóng khung mà có sự thay đổi phù hợp với sự thay đổi của xã hội. 1.3. Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông. 1.3.1. Khái quát chung về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật Theo quan điểm triết học, mối quan hệ là sự ràng buộc, sự tác động và làm biến đổi lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng [10, tr.55]. Đạo đức và pháp luật có mối liên hệ khăng khít với nhau. Pháp luật sẽ bị vi phạm nếu xã hội có môi trường đạo đức tha hóa. Ngược lại, pháp luật không nghiêm chỉnh cũng ảnh hưởng xấu đến đời sống môi trường đạo đức. - Trong xã hội có giai cấp: thì pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, do vậy giai cấp cầm quyền tiến bộ thì luật pháp cũng tiến bộ, vì tính nhân văn, nhân đạo thống nhất với đạo đức. Trong xã hội càng phát triển thì những chuẩn mức càng được luật pháp hóa. Vì vậy mà giữa đạo đức càng chặt chẽ hơn. - Trong xã hội có giai cấp đối kháng: khi giai cấp cầm quyền tiến bộ thì luật pháp đề ra cũng phù hợp với xã hội. Hoặc ngược lại, khi giai cấp cầm quyền mà bảo thủ lạc hậu thì luật pháp nó chỉ bảo vệ lợi ích cho giai cấp thống trị. 10
- 1.3.2. Sự thống nhất và khác biệt giữa pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực giáo dục phổ thông Đạo đức và pháp luật có sự thống nhất thể hiện ở ba điểm sau đây: Thứ nhất, pháp luật và đạo đức đều có chung mục tiêu. Chúng là những phương tiện điều chỉnh quan trọng bậc nhất đối với các quan hệ xã hội và hành vi của con người. Pháp luật và đạo đức trong Giáo dục phổ thông cũng vậy, ngoài ra còn là công cụ hướng hành vi của con người vào những khuôn khổ trật tự nhằm đảm bảo hoạt động bình thường của xã hội. Thứ hai: pháp luật Giáo dục phổ thông và đạo đức mang tính phổ biến và xu hướng phù hợp với xã hội. Đạo đức và pháp luật mang tính quy phạm phổ biến, chúng đều là những khuôn mẫu chuẩn mực trong hành vi của con người. Thứ ba: pháp luật và đạo đức trong Giáo dục phổ thông nước ta đều phản ánh sự tồn tại của xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử. Pháp luật và đạo đức đều chịu sự chi phối, đồng thời tác động lại đời sống kinh tế xã hội. Bên cạnh những điểm giống nhau, pháp luật và đạo đức có những điểm khác nhau cơ bản: Thứ nhất: về con đường hình thành, pháp luật Giáo dục hình thành thông qua hoạt động xây dựng pháp lý của nhà nước. Trong khi đó đạo đức được hình thành một cách tự phát do nhận thức của cá nhân và cộng đồng. Thứ hai: hình thức thể hiện của pháp luật và đạo đức. Hình thức thể hiện của đạo đức đa dạng hơn, nó được biểu hiện thông qua dạng không thành văn (văn hóa truyền miệng, phong tục, tập quán ) và dạng thành văn (kinh, sách chính trị, tôn giáo, nghệ thuật, ) còn pháp luật Giáo dục phổ thông lại biểu hiện rõ ràng dưới dạng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật. Thứ ba: tính xác định của hình thức văn bản trong Giáo dục phổ thông thì đạo đức mang tính chung, định hướng còn pháp luật thì cụ thể, rõ ràng. Đạo đức chỉ nhằm định hướng cho con người nên con người cần tự tìm tòi khám phá và qua dư luận mà điều chỉnh hành vi của mình một cách cụ thể. 11
- Thứ tư: đạo đức có nguồn gốc giá trị lâu dài, khi con người ý thức hành vi tự họ sẽ điều chỉnh hành vi đó. Do sự điều chỉnh đó xuất phát từ tự thân chủ thể nên hành vi đạo đức có tính bền vững. Ngược lại, pháp luật là sự cưỡng bức, tác động bên ngoài, dù muốn hay không người đó cũng phải thay đổi hành vi của mình. Sự thay đổi này có thể là không bền vững vì nó có thể lập lại ở nơi này hay nơi khác nếu vắng bóng pháp luật 1.3.3. Sự tác ộđ ng qua lại giữa pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực giáo dục phổ thông Sự tác động qua lại giữa đạo đức và pháp luật trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông, pháp luật và đạo đức có mối liên hệ mật thiết, tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau. “pháp luật không tồn tại biệt lập mà luôn nằm trong mối quan hệ phụ thuộc, tác động biện chứng với các hiện tượng xã hội khác. Pháp luật luôn vận động trong mối liên hệ phổ biến với kinh tế, chính trị, đạo đức” [26, tr.289] vì vậy phải có sự kết hợp hài hòa giữa hai lĩnh vực này nhằm tạo ra phương án tối ưu nhất trong công tác quản lý xã hội, “trong hệ thống các quy phạm điều chỉnh xã hội, pháp luật và đạo đức giữ vị trí trung tâm, có vai trò quan trọng nhất” [26, tr.296]. Đều là các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng. Chính những mối quan hệ này đã góp phần thể hiện bản chất của pháp luật. Một trong những mối quan hệ mà chúng ta luôn luôn phải nói đến là mối quan hệ của pháp luật và đạo đức. - Đầu tiên là tác động của đạo đức đến pháp luật: Thứ nhất, đạo đức tác động đến việc hình thành các quy định trong hệ thống pháp luật Giáo dục phổ thông. Pháp luật Giáo dục phổ thông bao giờ cũng ra đời, tồn tại và phát triển trên nền tảng đạo đức nhất định. Đạo đức là môi trường cho sự phát sinh, tồn tại và phát triển của pháp luật, là một trong những chất liệu làm nên các quy định trong pháp luật Giáo dục phổ thông. Những quan điểm, quan niệm, chuẩn mực đạo đức đóng vai trò là tiền đề tư tưởng, chỉ đạo việc xây dựng pháp luật. 12
- Sự tác động của đạo đức tới việc hình thành các quy định trong pháp luật Giáo dục phổ thông diễn ra ở nhiều cấp độ. Ở cấp thấp nhất thì các quy phạm pháp luật được xây dựng không trái với đạo đức xã hội. Ở cấp độ cao hơn thì các quy định được ban hành có sự thống nhất, phù hợp với những quan niệm đạo đức. Ở cấp độ này thì đạo đức đã ảnh hưởng tới việc hình thành quy định trong hệ thống pháp luật Giáo dục phổ thông như xây dựng những tiêu chuẩn về phẩm chất, nhân cách của giáo viên hay giải quyết một vấn đề, một vụ việc cụ thể dựa trên quan niệm đạo đức trở thành tiền lệ pháp. Thứ hai, đạo đức tác động đến việc thực hiện pháp luật của các chủ thể. Sự tác động này phụ thuộc vào hai yếu tố: sự phù hợp của đạo đức với pháp luật và ý thức đạo đức của mỗi chủ thể cá nhân trong xã hội. Sự phù hợp của đạo đức và pháp luật ảnh hưởng mạnh mẽ tới việc thực hiện pháp luật Giáo dục phổ thông. Nếu như pháp luật được xây dựng phù hợp với đạo đức thì nó sẽ được công dân chấp hành nghiêm chỉnh. Nhưng nếu như có những điều lệ mà pháp luật đưa ra trái với đạo đức thì nó sẽ khó đi vào cuộc sống của mọi người và từ đó sẽ gây khó khăn trong việc thực hiện. Thứ ba: ý thức đạo đức của mỗi cá nhân cũng ảnh hưởng tới việc thực hiện pháp luật. Đạo đức là môi trường thuận lợi để tiếp thu, cảm nhận và thực hiện pháp luật. Đạo đức là môi trường thuận lợi để tiếp thu, cảm nhận và thực hiện pháp luật. Những người có ý thức đạo đức cao thì trong moi trường hợp đều nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật. Trái lại những người có ý thức đạo đức thấp, sống trong môi trường đạo đức thấp thì dễ vi phạm pháp luật. - Tác động của pháp luật tới đạo đức: Thứ nhất, pháp luật dựa trên một cơ sở đạo đức nhất định và ghi nhận, củng cố, bảo vệ những quan điểm, quan niệm, tư tưởng, chuẩn mực đạo đức của giai cấp thống trị, những giá trị đạo đức truyền thống. Bằng cách này, pháp luật góp phần củng cố, giữ gìn, và phát huy các giá trị đạo đức xã hội, bảo đảm cho đạo đức trở thành phổ biến hơn trên toàn xã hội, đồng thời nó góp phần hỗ trợ, bổ sung cho đạo đức, đảm bảo chúng được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế thông qua những biện pháp tác động của nhà nước. 13
- Thứ hai, pháp luật giữ vai trò loại bỏ những quan niệm, tư tưởng đạo đức lạc hậu, phản tiến bộ trong đời sống xã hội, đồng thời ngăn chặn sự thoái hóa, xuống cấp của đạo đức, ngăn chặn việc hình thành những quan niệm đạo đức trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc và tiến bộ xã hội Thông qua những quy định cụ thể, pháp luật không cho phép hoặc cấm những hành vi thực hiện theo những quan niệm, tư tưởng đạo đức xưa cũ, lạc hậu, không phù hợp với cuộc sống hiện đại. Thêm vào đó, xã hội ngày nay, khi những cánh cửa hội nhập đang mở rộng mang theo những ảnh hưởng của Giáo dục các nước tiên tiến: Nhật, Mỹ, Do Thái, hoặc khi những giá trị đạo đức truyền thống không còn được nhận thức đúng đắn, việc giáo dục đạo đức trong gia đình và nhà trường bị coi nhẹ. Trong những trường hợp ấy, pháp luật là phương tiện, là công cụ hữu hiệu nhất để diệt trừ cái ác, ngăn chặn sự băng hoại đạo đức trong xã hội. Ở nước ta hiện nay, vị trí, vai trò cũng như mối quan hệ của pháp luật và đạo đức ngày càng được nhìn nhận đúng đắn, tích cực. Pháp luật được xây dựng để trở thành công cụ quan trọng nhất của nhà nước để quản lý các quan hệ xã hội. Tuy vậy đối với đời sống xã hội rộng lớn, phức tạp thì còn cần có những công cụ phương tiện khác nữa, trong số đó đầu tiên phải nhắc đến đạo đức. Chính vì vậy, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã khẳng định quan điểm: “Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức”. Đồng thời, pháp luật phản ánh rõ nét tinh thần nhân đạo - tư tưởng đạo đức cơ bản của nhân dân ta. Tính nhân đạo trong hệ thống pháp luật Giáo dục phổ thông được thể hiện rất rõ trong các quy định về các chính sách xã hội của nhà nước, dành sự quan tâm đặc biệt tới con các thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng, trẻ em không nơi nương tựa, và người tàn tật. Đạo đức trong xã hội đã thực sự hỗ trợ, bổ sung, hoàn thiện cho pháp luật, tạo điều kiện cho pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh trong đời sống. Nhà nước ta thừa nhận tập quán có thể thay thế cho pháp luật trong những trường hợp pháp luật chưa quy định và nội dung tập quán không trái với các quy định pháp 14
- luật. Ở chiều ngược lại, pháp luật đã góp phần quan trọng trong việc, gìn giữ và phát huy các quan niệm đạo đức tốt đẹp, hình thành những tư tưởng đạo đức tiến bộ, ngăn chặn sự thoái hóa xuống cấp của đạo đức, loại trừ những tư tưởng đạo đức cũ lạc hậu, phản tiến bộ. Trong chừng mực nhất định, nhà nước pháp luật hóa các quy phạm, nguyên tắc đạo đức thành các quy phạm pháp luật - những quy tắc xử sự tương đối cụ thể cho các chủ thể trong xã hội, xác định rõ hành vi được phép thực hiện, các hành vi buộc phải thực hiện, các hành vi bị ngăn cấm. Bên cạnh đó, trong một số trường hợp thì ranh giới điều chỉnh giữa đạo đức và pháp luật chưa rõ ràng hay sự pháp luật hóa các quy tắc các quan niệm, quan điểm đạo đức không cụ thể dẫn đến khó ứng dụng vào thực tế. Trên thực tế, đánh giá một hành vi nào đó là trái hay không trái với đạo đức xã hội không phải là vấn đề đơn giản, cùng một hành vi những có thể có các đánh giá khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Trong xã hội nhiều quan niệm, tư tưởng, đạo đức cổ hủ, lạc hậu vẫn còn tồn tại mà chưa bị ngăn chặn đúng mức cần thiết. Thí dụ như tư tưởng Giáo dục: tư tưởng địa vị, đẳng cấp, trọng nam khinh nữ vẫn có ảnh hưởng không nhỏ trong đại bộ phận dân cư. Và hệ thống pháp luật hiện hành còn thiếu nhiều quy định cần thiết, đáng có. Nói tóm lại, giữa pháp luật và đạo đức luôn có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau, cả hai đều có vai trò lớn trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông, trong sự điều chỉnh hành vi con người, hướng tới chân-thiện-mỹ cho người học. Đồng thời góp phần vào sự ổn định và đảm bảo cho sự phát triển của xã hội và của cộng đồng. 1.3.4. Các mối quan hệ xã hội trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông chịu sự điều chỉnh của pháp luật và đạo đức 1.3.4.1. Quan hệ giữa thầy trò Ở bất cứ thời đại nào thì người thầy giáo luôn giữ vai trò trung tâm, là “cỗ máy cái” và mang tính chất quyết định trong sự nghiệp giáo dục. Khi đất nước ta đang trên đà phát triển và hội nhập, đây là cơ hội, đồng thời là thách thức đối với những người làm nghề giáo. Thầy giáo, không chỉ nuôi dưỡng tâm hồn, nảy nở ý 15
- chí mà còn gieo mầm tài năng cho mọi thế hệ. Sinh thời, Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Không có thầy giáo thì không có giáo dục không có giáo dục, không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế - văn hóa”. Điều 4. Đạo đức nghề nghiệp 1. Tâm huyết với nghề nghiệp, có ý thức giữ gìn danh dự, lương tâm nhà giáo; có tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng nghiệp trong cuộc sống và trong công tác; có lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, đối xử hoà nhã với người học, đồng nghiệp; sẵn sàng giúp đỡ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người học, đồng nghiệp và cộng đồng. 2. Tận tụy với công việc; thực hiện đúng điều lệ, quy chế, nội quy của đơn vị, nhà trường, của ngành. 3. Công bằng trong giảng dạy và giáo dục, đánh giá đúng thực chất năng lực của người học; thực hành tiết kiệm, chống bệnh thành tích, chống tham nhũng, lãng phí. 3. Thực hiện phê bình và tự phê bình thường xuyên, nghiêm túc; thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục. Điều 5. Lối sống, tác phong 1. Sống có lý tưởng, có mục đích, có ý chí vượt khó vươn lên, có tinh thần phấn đấu liên tục với động cơ trong sáng và tư duy sáng tạo; thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. 2. Có lối sống hoà nhập với cộng đồng, phù hợp với bản sắc dân tộc và thích ứng với sự tiến bộ của xã hội; biết ủng hộ, khuyến khích những biểu hiện của lối sống văn minh, tiến bộ và phê phán những biểu hiện của lối sống lạc hậu, ích kỷ. 3. Tác phong làm việc nhanh nhẹn, khẩn trương, khoa học; có thái độ văn minh, lịch sự trong quan hệ xã hội, trong giao tiếp với đồng nghiệp, với người học; giải quyết công việc khách quan, tận tình, chu đáo. 16
- 4. Trang phục, trang sức khi thực hiện nhiệm vụ phải giản dị, gọn gàng, lịch sự, phù hợp với nghề dạy học, không gây phản cảm và phân tán sự chú ý của người học. 5. Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ; đấu tranh, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật và các quy định nghề nghiệp. Quan hệ, ứng xử đúng mực, gần gũi với nhân dân, phụ huynh học sinh, đồng nghiệp và người học; kiên quyết đấu tranh với các hành vi trái pháp luật. 6. Xây dựng gia đình văn hoá, thương yêu, quý trọng lẫn nhau; biết quan tâm đến những người xung quanh; thực hiện nếp sống văn hoá nơi công cộng. Điều 6. Giữ gìn, bảo vệ truyền thống đạo đức nhà giáo 1. Không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi trái pháp luật, quy chế, quy định; không gây khó khăn, phiền hà đối với người học và nhân dân. 2. Không gian lận, thiếu trung thực trong học tập, nghiên cứu khoa học và thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục. 3. Không trù dập, chèn ép và có thái độ thiên vị, phân biệt đối xử, thành kiến người học; không tiếp tay, bao che cho những hành vi tiêu cực trong giảng dạy, học tập, rèn luyện của người học và đồng nghiệp. 4. Không xâm phạm thân thể, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người học, đồng nghiệp, người khác. Không làm ảnh hưởng đến công việc, sinh hoạt của đồng nghiệp và người khác. 5. Không tổ chức dạy thêm, học thêm trái với quy định. 6. Không hút thuốc lá, uống rượu, bia trong công sở, trong trường học và nơi không được phép hoặc khi thi hành nhiệm vụ giảng dạy và tham gia các hoạt động giáo dục của nhà trường. 7. Không sử dụng điện thoại di động và làm việc riêng trong các cuộc họp, trong khi lên lớp, học tập, coi thi, chấm thi. 8. Không gây bè phái, cục bộ địa phương, làm mất đoàn kết trong tập thể và trong sinh hoạt tại cộng đồng. 9. Không được sử dụng bục giảng làm nơi tuyên truyền, phổ biến những nội dung trái với quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước. 17
- 10. Không trốn tránh trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ, tự ý bỏ việc; không đi muộn về sớm, bỏ giờ, bỏ buổi dạy, cắt xén, dồn ép chương trình, vi phạm quy chế chuyên môn làm ảnh hưởng đến kỷ cương, nề nếp của nhà trường. 11. Không tổ chức, tham gia các hoạt động liên quan đến tệ nạn xã hội như: cờ bạc, mại dâm, ma tuý, mê tín, dị đoan; không sử dụng, lưu giữ, truyền bá văn hoá phẩm đồi trụy, độc hại. Những giáo viên, các bộ quản lý giáo dục nếu vi phạm đạo đức nghề nghiệp có thể bị xử lý kỷ luật theo Luật Cán bộ - Công chức hoặc Luật Viên chức. Tùy thuộc vào mức độ, tính chất nghiêm trọng của hành vi mà cá nhân đó sẽ bị áp dụng các hình thức kỷ luật tương ứng. Trong đó, mức hình thức kỷ luật thấp nhất là khiển trách, cảnh cáo; mức cao nhất là bãi nhiệm hoặc buộc thôi việc (theo Điều 78, Điều 79 Luật Cán bộ - Công chức 2008 và Điều 52 Luật Viên chức 2010). - Vai trò của người thầy xung quanh một số vấn đề về môi trường Giáo dục: Bạo lực học đường là hành vi hành hạ, ngược đãi, đánh đập, xâm hại thân thể, sức khỏe; lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm; cô lập, xua đuổi; và các hành vi cố ý khác gây tổn hại về thể chất, tinh thần của người học xảy ra tại cơ sở giáo dục hoặc lớp độc lập. Với vai trò của người thầy, người làm công tác giáo dục, giáo viên và cán bộ quản lý trường học phải có trách nhiệm phòng chống bạo lực học đường, biến trường học thành một môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện với mỗi học sinh, tạo một môi trường giáo dục, học tập, rèn luyện và phát triển bình đẳng, nhân ái cho mỗi người học. Việc một số giáo viên phổ thông không ngăn chặn và bao che cho hành vi bạo lực học đường, thậm chí bạo hành với học trò là đi ngược lại với trách nhiệm của người làm công tác giáo dục, vi phạm đạo đức nghề nghiệp của nhà giáo. Quy định về đạo đức nhà giáo do Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành ngày 16-4- 2008 cũng quy định lối sống, tác phong của nhà giáo như sau: “Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ; đấu tranh, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật và các quy định nghề nghiệp. Quan hệ, ứng xử đúng mực, gần gũi với nhân dân, phụ huynh học sinh, đồng nghiệp và người học; kiên quyết đấu tranh với các hành vi trái pháp luật”. 18
- Luật Giáo dục cần được viết để xã hội thấy chúng ta đặt việc giáo dục cao hơn việc học, nhất là ở bậc phổ thông, có như thế mới đảm bảo ‘thầy ra thầy trò ra trò; trường ra trường lớp ra lớp’. Các ‘chủ thể’ của nền giáo dục và mối quan hệ giữa họ với nhau cần được làm rõ. Ví dụ trong quan hệ giữa người học, phụ huynh, nhà giáo, nhà trường, hiện nay không có quy định nào về việc cha mẹ phải có nghĩa vụ tôn trọng nhà giáo. 1.3.4.2. Quan hệ giữa bạn học Nghị định 80/2017/NĐ-CP đã quy định về môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện, phòng chống bạo lực học đường. Chính trẻ em và trẻ thành niên học tập trong môi trường Giáo dục phổ thông cũng có nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm những quyền cơ bản của chính những người bạn học của mình. Điều 19: Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật. Điều 20: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm Điều 21: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình Theo Điều 2 Nghị định 80/2017/NĐ-CP, bạo lực học đường là hành vi hành hạ, ngược đãi, đánh đập, xâm hại thân thể, sức khỏe; lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm; cô lập, xua đuổi; và các hành vi cố ý khác gây tổn hại về thể chất, tinh thần của người học xảy ra tại cơ sở giáo dục hoặc lớp độc lập. Tuy nhiên chưa có những quy định cụ thể quy định cho người học nếu như vi phạm mà chủ yếu dựa vào những giá trị đạo đức và môi trường mang lại. 1.4. Vai trò của pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực Luật Giáo dục phổ thông 1.4.1. Vai trò của pháp luật trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông Pháp luật có vai trò bảo vệ các giá trị tốt đẹp, đặc biệt trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông là lĩnh vực mà các giá trị tình cảm, giá trị và đạo đức được thể 19
- hiện rõ nét, pháp luật tạo hành lang pháp lý bảo đảm cho các giá trị chuẩn mực đạo đức được duy trì và phát triển, trên cơ sở phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, pháp luật về Giáo dục phổ thông quy định về quyền lợi, nghĩa vụ của các vị trí trong nền giáo dục nhằm mục đích đào tạo con người có giá trị, năng lực và nhân cách. Trên tinh thần bảo vệ quyền con người, pháp luật Việt Nam nói chung và luật Giáo dục phổ thông nói riêng bảo vệ quyền của mỗi cá nhân, khi nghiên cứu về lĩnh vực Giáo dục phổ thông, ngoài luật Giáo dục phổ thông cần phải xem xét các bộ luật như: Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, luật phòng chống bạo lực, luật bảo vệ trẻ em. Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay được xây dựng dựa trên cơ sở các giá trị đạo đức mới, tiến bộ, phù hợp với thực tế. Pháp luật góp phần quan trọng trong việc xây dựng và phát triển những giá trị đạo đức mới, tiến bộ, phù hợp với chuẩn mực đạo đức tốt đẹp của dân tộc, phù hợp với xu thế của thế giới. Những quy định của pháp luật về việc giảng dạy cho học sinh, nhân cách phẩm chất của các giáo viên Pháp luật trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của nhóm yếu thế trong xã hội đặc biệt là trẻ em và trẻ vị thành niên. 1.4.2. Vai trò của đạo đức trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông Đạo đức có vai trò rất lớn trong đời sống xã hội, đời sống của con người, đạo đức là vấn đề thường xuyên được đặt ra và giải quyết nhằm đảm bảo cho cá nhân và cộng đồng tồn tại phát triển. Giáo dục phổ thông cũng không nằm ngoài điều đó Trong sự vận động phát triển của Giáo dục phổ thông suy cho cùng nhân tố nền tảng kinh tế là nhân tố vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa cái “chủ yếu” này thành cái “duy nhất” thì sẽ dẫn tư duy và hành động đến những lầm lạc đáng tiếc. Sự tiến bộ của Giáo dục phổ thông không thể thiếu vai trò của đạo đức. Đạo đức đã trở thành mục tiêu đồng thời cũng là động lực để phát triển Giáo dục Vai trò của đạo đức còn được biểu hiện thông qua các chức năng cơ bản của đạo đức: Chức năng điều chỉnh hành vi, chức năng giáo dục, chức năng nhận thức như đã trình bày ở phần trên. 20
- Chức năng điều chỉnh hành vi. Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi. Sự điều chỉnh hành vi làm Giáo dục phổ thông ngày càng phát triển và hiệu quả, bảo đảm của các mối quan hệ trong Giáo dục. Đạo đức đòi hỏi từ tối thiểu đến tối đa đối với các hành vi cá nhân. Phương thức điều chỉnh là bằng dư luận xã hội và lương tâm. Những chuẩn mực đạo đức bao gồm cả chuẩn mực ngăn cấm và cả chuẩn mực khuyến khích. Chức năng giáo dục. Con người vươn lên “chân - thiện - mỹ”. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể của lịch sử. Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy. Con người sinh ra bắt gặp hệ thống đạo đức của xã hội. Hệ thống ấy tác động đến con người và con người tác động lại hệ thống. Hệ thống đạo đức do con người tạo ra, nhưng sau khi ra đời hệ thống đạo đức tồn tại như là cái khách quan hoá tác động, chi phối con người. Chức năng nhận thức. Đạo đức có chức năng nhận thức thông qua sự phản ánh tồn tại xã hội. Nếu xét dưới góc độ bản thể luận, đạo đức là hệ thống tinh thần, được quy định bởi tồn tại xã hội. Nhưng xét dưới góc độ xã hội học thì hệ thống tinh thần (nhận thức đạo đức) không tách rời thực tiễn – hành động của con người. Do vậy, đạo đức là hiện tượng xã hội vừa mang tính tinh thần vừa mang tính hành động hiện thực. Ngày nay để xây dựng xã hội mới, chúng ta đang cần có những con người mới. Những con người phát triển toàn diện cả đức và tài. Tuy nhiên, cần chú ý trong quan hệ giữa đức và tài hôm nay, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn lưu ý, nhắc nhở chúng ta phải coi trọng cả tài và đức nhưng phải lấy đức là gốc. Bởi lẽ tài năng chỉ có thể phát triển lâu bền trên nền của đức và tài năng chỉ có thể hướng thiện trên gốc của đức. Như vậy gốc của Giáo dục cũng là đạo đức làm người và giá trị đạo đức của từng chủ thể tham gia trong các mối quan hệ lĩnh vực Giáo dục phổ thông. 21
- 1.4.3. Vai trò của mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật đối với lĩnh vực Giáo dục phổ thông. Pháp luật góp phần quan trọng trong việc xây dựng và phát triển những giá trị đạo đức mới, tiến bộ, phù hợp với chuẩn mực đạo đức tốt đẹp của dân tộc, phù hợp với xu thế của thế giới. Đạo đức là nền tảng cơ sở để xây dựng hệ thống pháp luật, dựa trên các giá trị đạo đức được cộng đồng thừa nhận, pháp luật có những quy định phù hợp với các giá trị đạo đức, tôi cho rằng trong một xã hội hiện đại, pháp luật và đạo đức có xu thế xích lại gần nhau, pháp luật được xây dựng trên nền tảng những tư tưởng đạo đức tiến bộ, những giá trị đạo đức được coi là chuẩn mực sẽ là nội dung cốt lõi trong các quy định của pháp luật. Những giá trị chuẩn mực đạo đức tốt đẹp của dân tộc là tinh thần then chốt của hệ thống pháp luật, trong đó tính nhân đạo, nhân văn là cốt lõi của đạo đức, đồng thời cũng là mục tiêu mà pháp luật hướng tới bởi vì “có pháp luật nhưng không có đạo đức, không có lương tâm thì sẽ bất chấp pháp luật, xuyên tạc luật, lợi dụng luật”, [15, tr.67]. Những giá trị đạo đức tiến bộ là định hướng trong xây dựng hệ thống pháp luật, việc tôn trọng lẫn nhau giữa các cá nhân trong cộng đồng, cùng với tư tưởng bình đẳng, tự do, bác ái chính là nền tảng bảo vệ quyền con người. Phạm trù quyền con người rất rộng, khó định lượng, khi xem xét về vấn đề quyền con người thì chúng ta sẽ nhận thấy ở khía cạnh này có những mặt mà cả đạo đức và pháp luật chưa thể hiện đầy đủ quyền con người nếu xét riêng biệt từng lĩnh vực. Ví dụ trong tư duy đạo đức của người Việt, đạo làm con phải hiếu thảo, vâng lời ông bà cha mẹ, nghe theo sự chỉ dạy của ông bà cha mẹ, sự tác ộđ ng của các bậc cha mẹ trong vấn đề hướng nghiệp, nhưng nếu mọi lời nói của cha mẹ mà con cái phải nghe theo thì điều đó trở thành sự áp đặt, quyền con người cũng bị hạn chế. Trong khi đó pháp luật quy định mỗi cá nhân có quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp của mình. Như vậy trong một quan hệ đã có sự mâu thuẫn giữa pháp luật và đạo đức khi cùng điều chỉnh một vấn đề, nhiệm vụ đặt ra là làm thế nào để giải quyết tốt mâu thuẫn giữa pháp luật và đạo đức khi điều chỉnh cùng một vấn đề thuộc Giáo dục phổ thông tạo ra sự mềm dẻo trong các quy định. 22
- Nội dung các quy định pháp luật có sự thống nhất, không mâu thuẫn với các giá trị đạo đức, hiện nay để quản lý xã hội theo trật tự nhất định bằng pháp luật, nhà nước luôn tìm cách dung hòa pháp luật với đạo đức để người dân dễ tiếp cận, dễ chấp nhận và Nhà nước cũng dễ dàng hơn trong công tác quản lý. Ngoài ra việc kết hợp giữa đạo đức và pháp luật nhằm mục đích bổ xung cho nhau, tạo sự ổn định trật tự xã hội, mặt khác trong xã hội hiện đại, sự hòa hợp giữa pháp luật và đạo đức trong Giáo dục phổ thông là biểu hiện của một xã hội tiến bộ “pháp luật và đạo đức phải được vận dụng kết hợp với nhau và với các quy phạm xã hội khác mới cho hiệu quả điều chỉnh cao nhất” [26, tr.296]. Trong công tác nghiên cứu, sự phân định giữa đạo đức và pháp luật trong lĩnh ự v c Giáo dục phổ thông là cần thiết, song không phải phân định để tách bạch riêng ra mà việc phân định để tìm đến điểm chung nhất, để thấy được đặc điểm riêng có của từng loại, so sánh để thấy ưu nhược điểm của mỗi lĩnh vực khi điều chỉnh một vấn đề để từ đó có những cân nhắc, lựa chọn hợp lý trong công tác xây dựng pháp luật “giữa đạo đức và pháp luật có sự thống nhất bao hàm sự khác biệt, không đồng nhất, không thay thế nhau” [23, tr.43], khi nghiên cứu về lĩnh vực này chúng ta không thể đánh đồng đạo đức và pháp luật là một mặc dù hai lĩnh vực này cùng có nội dung giống nhau khi điều chỉnh về một vấn đề cụ thể nào đó “cho dù xã hội phát triển đến đâu cũng không thể đạt đến sự xóa nhòa đường biên, ranh giới giữa đạo đức và pháp luật” [25, tr.6]. Khi nghiên cứu về đạo đức và pháp luật, chúng ta không nên đề cao mặt này và xem nhẹ mặt kia, bởi lẽ mỗi phương diện đều có ưu, nhược điểm nhất định khi điều chỉnh cùng một vấn đề “đạo đức là gốc pháp lý” nhưng pháp lý “là chuẩn của đạo đức”, [12, tr.25], với tinh thần đạo đức là nền tảng của pháp luật, khi pháp luật và đạo đức có sự kết hợp hài hòa trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông sẽ mang lại hiệu quả quản lý trong lĩnh vực này. Sự thể hiện của các giá trị đạo đức trong hệ thống pháp luật là biểu hiện của sự hòa hợp, bởi lẽ khi các quy định của pháp luật có sự kế thừa hợp lý các giá trị đạo đức mới, phù hợp với xu hướng phát triển của lịch sử và nhân loại thì sẽ tạo điều kiện cho pháp luật dễ dàng đi vào cuộc sống, pháp luật và đạo đức 23
- cùng thống nhất về nội dung khi điều chỉnh một vấn đề thì mỗi khía cạnh sẽ phát huy vai trò, ý nghĩa của mình, giúp cho việc thực hiện pháp luật có hiệu quả. Các giá trị đạo đức mới, tiến bộ được xã hội thừa nhận, nhà nước ghi nhận các giá trị đạo đức ấy và thể hiện các giá trị ấy trong các quy định của pháp luật, điều đó thể hiện sự khéo léo trong quản lý xã hội, bởi lẽ các giá tri đạo đức vốn đã được cộng đồng thừa nhận sẽ tăng thêm giá trị bảo đảm khi được quy định rõ rang trong luật, đó chính là “giá trị pháp lý”. Khi hai lĩnh vực này kết hợp nhuần nhuyễn với nhau sẽ tạo ra sự bổ trợ những khiếm khuyết của mỗi lĩnh vực, cụ thể là pháp luật sẽ khắc phục được hạn chế là “bắt buộc cá nhân phải phục tùng” còn đạo đức sẽ khắc phục được hạn chế “không có chế tài để đảm bảo việc thực hiện”. Trong thực tế, để pháp luật thực sự mang lại hiệu quả trong công tác quản lý và dễ dàng đi vào cuộc sống thì các nhà làm luật cần nghiên cứu chuyên sâu về đạo đức, lựa chọn các giá trị đạo đức tiến bộ lồng ghép vào các quy định của pháp luật. 1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông. Thứ nhất, yếu tố pháp luật trong đó các quy định của hệ thống pháp luật nói chung và những quy định pháp luật Giáo dục phổ thông nói riêng có ảnh hưởng rất lớn đến mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật bởi lẽ pháp luật là công cụ chính thống, có giá trị cao nhất, được nhà nước thừa nhận và đảm bảo thực hiện, dùng để điều chỉnh và quản lý các quan hệ xã hội, nếu yếu tố pháp luật không mâu thuẫn với các quan niệm, các giá trị đạo đức thì pháp luật và đạo đức vẫn cùng tồn tại khi điều chỉnh các quan hệ xã hội, ngược lại nếu yếu tố pháp luật thể hiện sự xa rời thực tiễn, pháp luật phi đạo đức sẽ dẫn đến sự áp đặt, sự triệt tiêu các giá trị đạo đức tốt đẹp. Hiện nay trong thời kỳ hội nhập, lĩnh vực Giáo dục phổ thông ngày càng phát sinh nhiều vấn đề phức tạp, đòi hỏi pháp luật kịp thời đáp ứng đòi hỏi thực tế, song pháp luật đầy đủ không có nghĩa là pháp luật quy định luôn tất cả các khía cạnh trong Giáo dục phổ thông mà cần phải có giới hạn nhất định, tránh sự trùng lắp, thiếu tính khả thi khi đi vào thực tế. 24
- Trình độ nhận thức và hiểu biết pháp luật Giáo dục phổ thông của cán bộ quản lý và đội ngũ giảng viên góp phần lớn trong việc quản lý phát triển đội ngũ giảng viên và học sinh. Phát huy được thế mạnh của giảng viên trong giảng dạy và tham gia các hoạt động của nhà trường tạo điều kiện để nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề, đồng thời cũng góp phần tích cực cho công tác quản lý phát triển đội ngũ giảng viên trường phổ thông với nhiệt tình và tự giác của đội ngũ giảng viên. Thứ hai, yếu tố thiết chế đóng vai trò quan trọng trong mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật nói chung, đặc biệt trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông yếu tố thiết chế có ảnh hưởng lớn tới mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật. Các thiết chế của Nhà nước có tác động không nhỏ đến việc thực thi pháp luật và tuân thủ các chuẩn mực đạo đức, thiết chế chặt chẽ, phù hợp với thực tế sẽ giúp cho việc thực hiện pháp luật và tuân thủ các giá trị đạo đức được thực hiện nghiêm chỉnh, yếu tố thiết chế góp phần làm cho pháp luật và đạo đức có quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng hướng đến việc tìm ra những điểm tương đồng nhất khi điều chỉnh về cùng một vấn đề, làm giảm mâu thuẫn giữa pháp luật và đạo đức khi tham gia điều chỉnh các quan hệ xã hội. Thứ ba, yếu tố văn hóa ảnh hưởng rất lớn đến sự tiếp cận các giá trị đạo đức và các quy định của pháp luật, yếu tố văn hóa càng phát triển thì các cá nhân có sự nhận thức đúng về quy định của pháp luật, quy chuẩn của đạo đức, từ đó có hành động hợp lý. Ngược lại, khi văn hóa không được quan tâm đúng mức sẽ dễ dẫn đến vi phạm pháp luật, vi phạm các giá trị chuẩn mực đạo đức. Trong thực tế, lối sống truyền thống chi phối rất lớn trong quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, ở khía cạnh truyền thống người dân thường có xu hướng thiên về các quan niệm đã có từ lâu và ảnh hưởng đến tư tưởng của họ, đôi khi những quan niệm mang tính truyền thống không còn phù hợp với thực tế hiện nay nhưng nếu người dân cứ bảo thủ thực hiện các quan niệm đã lỗi thời ấy thì sẽ không làm cho mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật tốt hơn. Môi trường sư phạm, bầu không khí dân chủ cởi mở trong nhà trường có tác động đến công tác phát triển đội ngũ giảng viên và quá trình học tập của sinh viên. Nó tác động đến tâm tư, tình cảm, lý trí và hành vi của các thành viên nhà trường. Bầu không khí làm việc trong nhà trường tốt sẽ là động lực thúc đẩy mọi 25
- hoạt động trong nhà trường nhất là phát triển đội ngũ giảng viên và sự tiếp thu tri thức của các em học sinh trong nhà trường. Thứ tư, yếu tố kinh tế tác động không nhỏ đến mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, khi kinh tế phát triển, xã hội văn minh, đời sống của người dân được nâng cao, các cá nhân có điều kiện tiếp thu các giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của dân tộc, đồng thời cũng sẽ có cơ hội tìm hiểu và tiếp cận pháp luật, người dân hiểu luật và tuân thủ các giá trị đạo đức một cách tự giác, ngược lại khi kinh tế khó khăn, người dân ít có điều kiện quan tâm đến pháp luật, xa rời các giá trị chuẩn mực đạo đức sẽ dẫn đến những vi phạm trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông. Yếu tố kinh tế có ảnh hưởng không nhỏ đến việc tuân thủ các giá trị đạo đức và thực hiện các quy định của pháp luật, để mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông hài hòa, cần có sự quan tâm đặc biệt đến kinh tế, coi phát triển kinh tế là một trong những mục tiêu quan trọng. 26
- CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC LĨNH VỰC GIÁO DỤC PHỔ THỐNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐẢM BẢO THỰC HIỆN 2.1. Thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong hệ thống pháp luật Việt Nam về Giáo dục phổ thông 2.1.1. Những điểm tiến bộ của hệ thống pháp luật nói chung khi điều chỉnh các vấn đề thuộc lĩnh vực Giáo dục phổ thông. Giáo dục và đào tạo có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Với vị trí quốc sách hàng đầu, Giáo dục và đào tạo có vai trò là nền tảng, động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Khi nguồn lực con người được coi là yếu tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia thì phát triển giáo dục và đào tạo là phương tiện chủ yếu để quyết định chất lượng con người, là nền tảng của chiến lược con người. Con người vừa là trung tâm của mọi sự phát triển, vừa là mục tiêu, động lực của sự phát triển. Với tư cách là động lực cho sự phát triển, Giáo dục và đào tạo chuẩn bị cho con người sự phát triển bền vững trên tất cả các lĩnh vực, cho lợi ích hiện tại và tương lai của đất nước. Nước ta ngày càng chú trọng đến pháp luật và có những tiến bộ nhất định trong các quy định pháp luật về Giáo dục phổ thông. - Hiến pháp năm 2013 quy định về Giáo dục: Điều 39: Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập. Điều 61: 1. Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. 2. Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý. 27
- 3. Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề. Tinh thần về Giáo dục nước ta còn được thể hiện qua các quy định trong Luật Giáo dục và các Nghị quyết của Nhà nước: - Luật Giáo dục 2005 quy định: Điều 10. Quyền và nghĩa vụ học tập của công dân Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân. Mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nam nữ, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ hội học tập. Nhà nước thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để người nghèo được học tập, tạo điều kiện để những người có năng khiếu phát triển tài năng. Nhà nước ưu tiên, tạo điều kiện cho con em dân tộc thiểu số, con em gia đình ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi, người tàn tật, khuyết tật và đối tượng được hưởng chính sách xã hội khác thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập của mình Điều 9. Phát triển giáo dục Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ khoa học, công nghệ, củng cố quốc phòng, an ninh; thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa; bảo đảm cân đối về cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền; mở rộng quy mô trên cơ sở bảo đảm chất lượng và hiệu quả; kết hợp giữa đào tạo và sử dụng. Những quy định trong Luật Giáo dục 2005 và Luật Giáo dục sửa đổi đã kế thừa và cụ thể hóa các quy định trong Hiến pháp nước ta, đảm bảo quyền và lợi ích được cho công dân trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông - Một số nghị định quy định về Giáo dục phổ thông: 28
- Nghị định số 127/2018/NĐ-CP ngày 21/9/2018 quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục: Yêu cầu đối với việc quy định trách nhiệm quản lý Nhà nước về giáo dục là đảm bảo tính thống nhất, thông suốt và nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước về giáo dục; bảo đảm tương ứng giữa nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm với nguồn lực tài chính, nhân sự, điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục và các điều kiện cần thiết khác để thực hiện nhiệm vụ được giao; xác định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm quản lý của các Bộ, Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan có liên quan. 2.1.2. Chương trình giáo dục phổ thôngmới . Có thể nêu lên một số điểm của chương trình giáo dục phổ thông hiện hành được kế thừa trong chương trình giáo dục phổ thông mới: - Về mục tiêu giáo dục phổ thông: chương trình mới tiếp tục mục tiêu giáo dục phát triển con người toàn diện “đức, trí, thể, mỹ”; hài hòa về thể chất và tinh thần; chú trọng các yêu cầu học đi đôi với hành, lý thuyết gắn liền với thực tiễn, nhà trường gắn liền với xã hội - Về nội dung giáo dục: chương trình giáo dục phổ thông mới tiếp tục tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hoá, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại; bảo đảm yêu cầu cơ bản, hiện đại, phù hợp với đặc điểm tâm – sinh lý lứa tuổi của học sinh các cấp học. Nhìn chung hệ thống các lĩnh vực giáo dục và hệ thống các môn học của chương trình hiện hành được kế thừa từ tên gọi đến nội dung các mạch kiến thức lớn, thời lượng cho các môn học. Kiến thức cơ bản của tất cả các môn học ở bậc phổ thông, nhất là một số môn học truyền thống của việt nam có thế mạnh, có chất lượng và hiệu quả (được chứng tỏ qua các kỳ đánh giá quốc gia và quốc tế) đều được kế thừa trong chương trình mới, chỉ bớt đi những kiến thức quá chuyên sâu, chưa hoặc không phù hợp với yêu cầu học vấn phổ thông và tâm – sinh lý lứa tuổi, không phục vụ nhiều cho việc phát triển phẩm chất và năng lực. Nội dung các hoạt động giáo dục của chương trình hiện hành cũng được kế thừa trong hoạt động trải nghiệm sáng tạo của chương trình mới như chào cờ, sinh hoạt lớp, hoạt động đoàn đội, hoạt động ngoài giờ lên lớp v.v 29
- - Về phương pháp dạy học: phương pháp dạy học của chương trình mới thể hiện rõ tính kế thừa ở chủ trương: tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo định hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh tất cả các phương pháp dạy học truyền thống và hiện hành đều được kế thừa trong chương trình mới với một tinh thần và định hướng mới. Đó là vận dụng linh hoạt, kết hợp nhuần nhuyễn các ppgiáo dục phù hợp với đối tượng, hoàn cảnh và đều tập trung hình thành, phát triển năng lực người học. - Về thi, kiểm tra – đánh giá: tính kế thừa thể hiện ở chỗ dù mục tiêu kiểm tra đánh gía hướng tới năng lực và phẩm chất nhưng vẫn phải dựa trên cơ sở hệ thống kiến thức, kĩ năng cơ bản thông qua các môn học và hoạt động giáo dục. Các hình thức và công cụ đánh giá như kiểm tra miệng, kiểm tra viết, câu hỏi trắc nghiệm, câu hỏi tự luận, đề theo hướng mở, kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kỳ, đều được kế thừa trong chương trìnhgiáo dục mới, kết hợp và bổ sung thêm những hình thức và công cụ mới nhằm đánh giá đúng phẩm chất và năng lực của học sinh. - Về quy trình xây dựng chương trình: chương trình giáo dục phổ thông mới tiếp thu và kế thừa tất cả các ưu điểm về quy trình phát triển chương trình giáo dục phổ thông trước đây, từ việc đánh giá và xác định nhu cầu đổi mới; tiến hành các nghiên cứu cơ bản, đề xuất các căn cứ khoa học cho đến đề xuất các định hướng đổi mới bảo đảm các bước thiết kế chương trình phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế. Quy trình xây dựng từ dự thảo chương trình, xin ý kiến công luận đến tiếp thu, sửa chữa, thẩm định và phê duyệt đều kế thừa kinh nghiệm của lần đổi mới chương trình năm 2000. 2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật và tuân thủ các giá trị đạo đức trong lĩnh vực Giáodục phổ thông ở nước ta hiện nay 2.2.1. Thực trạng thực hiện pháp luật và tuân thủ các giá trị đạo đức của đội ngũ giáo viên, cán bộ, công chức. Sức mạnh của một trường học phụ thuộc chủ yếu vào đội ngũ giáo viên - nhân tố quan trọng quyết định chất lượng giáo dục. Họ là những người trực tiếp giảng dạy, giáo dục, hướng dẫn và truyền thụ kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm 30
- cho học sinh. Bởi vậy, xây dựng được đội ngũ giáo viên có đủ phẩm chất và năng lực sẽ là yếu tố then chốt để thực hiện cải cách, đổi mới giáo dục. Nhìn chung số lượng, chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ, công chức đã cơ bản đáp ứng được các yêu cầu nhiệm vụ. Đội ngũ giáo viên, cán bộ, công chức tham gia công tác quản lý, lãnh đạo các cấp phát huy tốt vai trò và khả năng của mình, không ngừng nâng cao hiệu quả lãnh đạo, quản lý, điều hành, góp phần quan trọng vào sự đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị. Đa phần giáo viên, cán bộ, công chức đã đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ dặt ra, có tinh thần trách nhiệm trong công việc, giữ vững đạo đức, phẩm chất, có ý thức tổ chức kỷ luật và chấp hành sự phân công của tổ chức, có lối sống lành mạnh và góp to lớn vào sự nghiệp Giáo dục của nước ta. Tuy nhiên, nhìn vào thực tế hiện nay, năng lực đội ngũ giáo viên phổ thông đang là vấn đề đáng lo ngại trước yêu cầu của giáo dục vì những quy định pháp luật về tiêu chuẩn giáo viên chưa được quy định rõ ràng và áp dụng triệt để vào thực tế. Trong quá trình kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh như giữa kỳ, cuối kỳ còn có sự đuổi theo thành tích mà chưa đánh giá đươc năng lực thực sự của từng người. Ngoài ra với kì thi quan trọng như trung học phổ thông quốc gia để lấy điểm vào Đại học còn có tình trạng gian dối trong chấm và kết quả điểm thi của các học sinh. Giờ đây, cũng như nhiều ngành nghề khác, nghề dạy học đang phải đối mặt với nhiều thách thức từ một số biểu hiện lệch lạc, bất cập trong đời sống xã hội làm suy giảm truyền thống đạo đức nghề nghiệp, gây ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức người thầy. Giáo viên bị áp lực từ việc hoàn thành các nhiệm vụ giảng dạy, thực hiện các yêu cầu của lãnh đạo và cấp trên, áp lực lương thấp. Hiện tượng đề cao lợi ích vật chất, lối sống thực dụng, các tệ nạn xã hội dường như ngày càng lấn át phẩm giá của con người, tác động xấu đến tình cảm, nguyện vọng của những người làm nghề sư phạm, làm một bộ phận nhà giáo sa sút, thậm chí bị suy thoái đạo đức lối sống. Vì vậy, vấn đề bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức nhà giáo cần phải được xem là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, có tính chiến lược không chỉ trong 31
- nhận thức mà quan trọng quyết định hơn là mỗi nhà giáo phải tự xây dựng kế hoạch triển khai tự rèn luyện nâng cao đạo đức của mình. 2.2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật và tuân thủ các giá trị đạo đức của các học sinh. Trong những năm gần đây, nước ta chịu ảnh hưởng rất lớn bởi nền văn hóa phương Tây, tiếp cận với nền kinh tế thị trường nên sẽ có nhiều mặt tiêu cực tác động đến đạo đức, tư duy và lối sống của nhân dân. Đặc biệt, sự tác động của chúng ảnh hưởng đến lối sống, đạo đức của một bộ phận không nhỏ thế hệ trẻ của Việt Nam, nhất là các em học sinh. Cụ thể, đạo đức trong học đường đang có nguy cơ xuống cấp. Học sinh rơi vào những tệ nạn xã hội, bạo lực học đường; không kính trọng thầy cô, xem thường bạn bè, mọi người xung quanh; không hiếu thảo với ông bà cha mẹ; thiếu tính nhân đạo; các em mê games bỏ học hoặc tự tử vì games; Từ đó làm suy thoái những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Vì vậy việc giáo dục pháp luật và đạo đức trong học sinh phổ thông là điều rất cấp thiết để thúc đẩy sự hoàn thiện con người nói riêng và đẩy nhanh sự phát triển của đất nước nói chung. Một hiện trạng dễ thấy đó là đạo đức học sinh đang trên đà suy thoái trầm trọng. Học sinh ngày càng trở nên thiếu lễ độ với người khác. Hiện tượng học sinh bỏ học, đánh nhau, nói tục chửi thề, ngang ngược, bướng bỉnh, vi phạm pháp luật trở nên phổ biến. Dù nhà trường, gia đình, xã hội đã vận dụng nhiều biện pháp giáo dục, tuyên truyền, vận động song không mang lại hiệu quả. Hành vi xấu của học sinh có xu hướng lan nhanh trong các trường học. Số học sinh vi phạm kĩ luật nhà trường ngày càng tăng. Số vụ vi phạm pháp luật ở lứa tuổi học sinh có xu hướng tăng cao. Giáo dục đạo đức, nhân cách, nhân phẩm, ý thức trách nhiệm trong thời đại mới cho học sinh trở thành vấn đề quan tâm của toàn xã hội. Chương trình giáo dục nặng nề, thiên về lý thuyết hơn thực hành. Điều đó, khiến học sinh càng học càng thấy khó, càng học càng thấy chán. Chế độ thi cử gây nhiều áp lực. Lại thêm tâm lí chạy đua thành tích trong học tập, khiến cho học sinh không còn hứng thú học tập. Học sinh cũng không say mê nghiên cứu 32
- hay sáng tạo. Học là để thi, để lên lớp, lấy bằng cấp mà thôi. Kéo theo đó, học sinh cũng không ý thức rèn luyện đạo đức, tác phong của bản thân. Xem đó chỉ là hình thức giao tiếp nhằm làm hài lòng người khác chứ không phải là văn hóa ứng xử. Phương pháp giáo dục đạo đức theo kiểu “tầm chương trích cú” không còn phù hợp, cần phải đưa học sinh vào các xử lý tình huống thực tế. Giáo dục đạo đức trong nhà trường cần giảm thiểu những vấn đề cao xa, lớn lao, thay vào đó cần kiên trì bồi đắp lòng nhân ái, tính trung thực, lòng tự trọng, nếp nghĩ và lối sống lành mạnh, trọng đạo lý, sống có kỷ luật. Một xã hội phát triển là một xã hội ở đó có nhiều người tốt, đạo đức được đề cao, con người sống bằng tình thương, lòng nhân ái. Dù có cứng rắn trong hành động giáo dục đạo đức, giúp học sinh tiến bộ song phải xuất phát từ tấm lòng bao dung, độ lượng, vị tha vì con người. Khi các giá trị đạo đức đã định hình, học sinh sẽ tìm thấy động lực học tập, trở thành người hữu ích cho xã hội. 2.3. Những kết quả đạt được và những tồn tại cần khắc phục của pháp luật và đạo đức khi điều chỉnh các vấn đề thuộc lĩnh vực Giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay. 2.3.1. Những kết quả đạt được của pháp luật khi điều chỉnh các vấn đề thuộc lĩnh vực Giáo dục phổ thông. Giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước ta. Cụ thể là: 1. Hệ thống trường lớp và quy mô giáo dục phát triển nhanh, thực hiện nền giáo dục toàn dân, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân và nâng cao được trình độ đào tạo, trình độ và kĩ năng nghề nghiệp của người lao động. Từ một hệ thông giáo dục chỉ có các trường công lập và chủ yếu là loại hình chính quy, đến nay đã có các trường ngoài công lập, có nhiều loại hình không chính quy, có các trường tư thục, dân lập, có phương thức đào tạo từ xa, phương thức liên kết đào tạo với nước ngoài Đó là một trong những thành tựu lớn mà nền giáo dục nước ta đã đạt được. 33
- Quy mô giáo dục tăng nhanh ở các vùng, các ngành học và các cấp học. Quy mô phát triển giáo dục trước hết thể hiện ở số lượng người học. Cùng với số lượng người học, quy mô giáo dục còn được đánh giá qua mạng lưới trường học theo địa bàn dân cư, số lượng nhà giáo, trang thiết bị dạy học. Nhìn chung, số học sinh trong toàn bộ hệ thống giáo dục không ngừng được tăng lên, số học sinh trong các trường ngoài công lập tăng nhanh: ốS trẻ em tăng bình quân 7%/năm; mẫu giáo tăng bình quân 5,2%/năm. 2. Công bằng xã hội trong tiếp cận giáo dục có nhiều tiến bộ, nhất là đối với người dân tộc thiểu số, lao động nông thôn, các đối tượng chính sách và người có hoàn cảnh khó khăn, bình đẳng giới cơ bản được bảo đảm. Trong nhiều năm qua, công bằng xã hội trong giáo dục được quan tâm thực hiện, các trường đại học, cao đẳng và các địa phương đã có nhiều biện pháp giúp đỡ, tạo điều kiện học tập cho con em gia đình thuộc diện chính sách, con em đồng bào dân tộc và học sinh nghèo vượt khó. Nhìn chung, công bằng xã hội trong giáo dục về cơ bản được đảm bảo, giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số có những chuyển biến tích cực. Cả nước đã hoàn thành công tác xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và đang thực hiện phổ cập trung học cơ sở. Gần 94 % dân cư từ 15 tuổi trở lên biết chữ; số năm đi học trung bình đạt 7,3. Về có bản, nước ta đã đạt được sự bình đẳng nam nữ trong giáo dục 3. Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên, góp phần đáp ứng yêu cầu nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế- xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chất lượng giáo dục có chuyển biến trên một số mặt. Trình độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của một bộ phận học sinh, sinh viên được nâng cao; giáo dục trung học phổ thông chuyên đạt trình độ cao của khu vực và thế giới, số học sinh phổ thông đạt giải quốc gia và quốc tế ở một số môn học ngày càng tăng. Số đông sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng có hoài bão lập thân, lập nghiệp và có tinh thần tự lập, năng ộng;đ Chất lượng đào tạo của một số ngành khoa học cơ bản và khoa học công nghệ đã được nâng cao một bước. Giáo dục đại học đã từng bước vươn lên, đào tạo được một đội ngũ đông đảo cán bộ khoa học kỹ thuật từ cử nhân, thạc sỹ cho đến tiến sĩ, đã 34
- và đang công tác và có những cống hiến quan trọng trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế, xã hội. 4. Công tác quản lí giáo dục có bước chuyển biến tích cực. 5. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục tăng nhanh về số lượng, trình độ đào tạo được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục. 6. Cơ sở vật chất - kĩ thuật của hệ thống giáo dục và đào tạo được tăng thêm và từng bước hiện đại hoá. 7. Xã hội hoá giáo dục và hợp tác quốc tế được đẩy mạnh, đạt nhiều kết quả quan trọng. Hưởng ứng chủ trương xã hội hoá giáo dục, ở hầu hết các địa phương đều đã có phong trào xây dựng quỹ khuyến học, đóng góp công sức tiền của để phát triển giáo dục. Trong những năm gần đây, phần kinh phí do nhân dân đầu tư, trang trải cho các hoạt động giáo dục ước tính khoảng trên dưới 40%. Các nguồn lực thông qua con đường xã hội hóa, cùng với nguồn lực của Nhà nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp thúc đẩy sự nghiệp giáo dục – đào tạo, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và nhu cầu học tập của các tầng lớp nhân dân. 2.3.2 Những hạn chế của pháp luật khi điều chỉnh các vấn đề thuộc lĩnh vực Giáo dục phổ thông. 2.3.2.1. Những hạn chế trong các văn bản pháp luật về Giáo dục phổ thông Luật chưa thể hiện tinh thần và cụ thể hóa được Hiến pháp 2013, nhất là Điều 39 và Điều 61. Ví dụ, Điều 39 nêu ‘công dân có quyền và nghĩa vụ học tập’, muốn vậy luật phải định hướng việc thiết kế nền giáo dục sao cho nhu cầu học là nhu cầu thực và bức thiết hằng ngày như ăn, như thở, khi đó tự khắc mọi công dân sẽ đều có nhu cầu ‘học tập suốt đời’, việc học tập mới không còn tính trang trí hình thức. Bên cạnh đó, để làm được điều đã khẳng định tại Điều 61, ‘phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài’, chưa làm rõ các nội hàm thực sự của ‘quốc sách hàng đầu’ và ‘bồi dưỡng nhân tài’ là những gì. Việc quy hoạch, sắp xếp mạng lưới trường lớp học ở một số địa phương còn chưa phù hợp, chậm hướng dẫn triển khai; thiếu trường, lớp ở các khu đô 35
- thị, khu công nghiệp, khu chế xuất; tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ vẫn chưa được giải quyết. Năng lực nghề nghiệp của một bộ phận giáo viên còn yếu, phương pháp giảng dạy chậm đổi mới; năng lực quản trị của một bộ phận cán bộ quản lý trường học còn yếu, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới. Tính kế thừa chưa cao, mỗi khi thay đổi chính sách cần phải tổng kết chính sách cũ. Chúng ta cần làm rõ về nhu cầu cấp bách chỉnh sửa, bổ sung luật cũ hay thậm chí là xây dựng luật mới, căn cứ trên một báo cáo tổng kết phản ánh đúng với thực tế, trung thực, khách quan về các kết quả đã đạt được cũng như các tồn tại, vướng mắc, hạn chế mà nền Giáo dục đang phải đối mặt. Với từng mặt tồn tại, yếu kém của giai đoạn trước (ví dụ, các hạn chế trong hệ thống giáo dục quốc dân, quy hoạch mạng lưới, cân đối trong cơ cấu, trình độ, mục tiêu phát triển năng lực cá nhân, sự mất cân đối giữa dạy chữ với dạy người, v.v ) cần chỉ ra giải pháp sửa chữa, bổ sung, hoàn thiện trong luật mới, được thể hiện cụ thể và thiết thực. Đặc biệt cần làm rõ hơn trách nhiệm của nhà nước, xã hội, người học và gia đình họ để đạt được mục tiêu của Giáo dục và đào tạo. Luậtgiáo dục chưa được coi là luật gốc, là nền tảng, là cơ sở, để từ đó xây dựng các luật về phổ thông, luật về giáo dục nghề nghiệp, luật nhà giáo, v.v . hình thành Bộ Luật về giáo dục trong tương lai. Đồng thời, phải bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất giữa Luật Giáo dục phổ thông và các Luật khác trong hệ thống pháp luật của chúng ta, như Bộ Luật Lao độn, Luật Bình đẳng giới, Luật Giáo dục nghề nghiệp, v.v Công tác tự chủ, trách nhiệm giải trình với xã hội của các cơ sở đào tạo còn hạn chế; việc thực hiện tự chủ các cơ sở tư nhân chưa gắn liền với đổi mới quản trị nhà trường. Các điều kiện đảm bảo chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Việc ban hành văn bản còn chậm, chưa đồng bộ; công tác xử lý vi phạm sau thanh tra ở một số địa phương chưa nghiêm. 2.3.2.2. Những hạn chế trong chất lượng và các khía cạnh khác của Giáo dục phổ thông. Bên cạnh các kết quả đạt được, công tác giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, giáo dục thể chất cho học sinh còn hạn chế; việc xây dựng môi 36
- trường giáo dục dân chủ trong một số cơ sở giáo dục chưa được chú trọng; cá biệt có một số giáo viên, học sinh có hành vi ứng xử thiếu văn hóa gây mất niềm tin của cha mẹ học sinh, bức xúc trong xã hội. Công tác giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông thực hiện chưa được hiệu quả, nhiều nơi còn làm hình thức, gây băn khoăn trong dư luận xã hội. Trong quá trình thực hiện, giáo dục cũng nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc. Quy mô, số lượng học sinh tiểu học, THCS dần dần ổn định nhưng sức ép số lượng ở cấp THPT còn rất lớn do khả năng phân luồng học sinh hạn chế; sự phát triển kinh tế và nhu cầu nguồn nhân lực không đồng đều ở các vùng miền cho nên có nhiều khó khăn trong giải quyết việc làm; phát triển các trường lớp ngoài công lập, phi chính quy, dạy thêm học thêm chưa theo quy hoạch và thiếu quản lý chặt chẽ dẫn đến giảm sút chất lượng, có dấu hiệu vi phạm, tiêu cực gây bức xúc trong nhân dân và xã hội; xuất hiện sự mất cân đối, mâu thuẫn, không hài hòa, chưa tương xứng giữa quy mô, chất lượng và điều kiện đáp ứng của nền kinh tế trong khi công tác xã hội hóa giáo dục chưa đạt hiệu quả mong muốn. Học sinh có xu hướng học lệch, học tủ, phụ huynh muốn con em học thêm nhiều vì mục tiêu trước mắt, chạy theo những bộ môn khoa học tự nhiên, coi nhẹ các bộ môn khoa học xã hội và những lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, chạy theo những ngành nghề dễ kiếm việc làm, sớm có thu nhập và thu nhập cao Vì vậy, khả năng phân luồng và định hướng nghề nghiệp kém hiệu quả. Nội dung kiến thức phổ thông có phần quá tải, nặng lý thuyết kinh viện, thiếu thực hành ứng dụng; thời lượng học trên lớp và làm bài tập ở nhà quá nhiều, học sinh thiếu thời gian để rèn luyện thể chất, vui chơi giải trí và ứng dụng vào thực tế những điều đã học, ít có điều kiện hòa nhập cuộc sống cộng đồng, xã hội. Chất lượng giáo dục phổ thông chỉ có thể đánh giá chủ yếu trên kết quả xếp loại, kết quả thi tốt nghiệp, tuyển sinh vào Cao đẳng, Ðại học; thi học sinh giỏi quốc gia, quốc tế. Trong khi đó hình thức thi cử, kiểm tra đánh giá còn nặng nề, chú trọng đầu vào, thả lỏng đầu ra, chưa theo một quy trình chặt chẽ nghiêm túc, khoa học, khách 37
- quan cho nên trong một số trường hợp cho ta một số kết quả theo lối chạy theo thành tích, chưa đánh giá đúng thực tế chất lượng học sinh. Chất lượng giáo dục phổ thông còn đang được đánh đồng với kết quả tiếp thu kiến thức, kỹ năng làm bài của học sinh mà chưa chú trọng đến việc phát triển phẩm chất và năng lực học sinh; việc giáo dục kỹ năng sống, giá trị sống, năng lực thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn chưa được quan tâm đúng mức thông qua tổ chức dạy học các môn học và hoạt động giáo dục: – Hiện nay giáo dục chú trọng quan tâm đến số lượng nhiều hơn chất lượng – Nội dung, chương trình giảng dạy còn lạc hậu, lỗi thời, chưa đổi mới, cải tiến hiệu quả. Chưa áp dụng thực tiễn nhiều, chưa phát huy được tính sáng tạo, năng lực thực hành cho học sinh – Giáo dục Việt Nam hiện nay chỉ quan tâm đến việc dạy “chữ” cho học sinh. Thế nhưng việc dạy “nhân” và “nghĩa” thì lại bị buông lỏng, giảm sút, nhất là các mặt đạo đức, lối sống. Việc cho học sinh có thể thực hành được các bài học vẫn chưa được đẩy mạnh, khiến cho kĩ năng thực hành, tư duy sáng tạo của học sinh sinh viên bị hạn chế rõ rệt. – Hệ thống giáo dục các cấp bậc phổ thông còn thiếu đồng bộ, chưa có sự cân đối. Ở phổ thông, các học sinh được học các môn học khoa học mang tính lý thuyết rất nhiều, nhưng khi lên cấp bậc đại học thì những lý thuyết ở phổ thông không thể đem áp dụng ra được, khiến các sinh viên phải học lại từ đầu, như thế phải mất thêm một khoảng thời gian nữa – Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên còn rất nhiều bất cập, như việc phân phối cán bộ giảng dạy vẫn còn chưa hợp lý về các trường học. Bên cạnh đó còn có nhiều cán bộ giảng dạy không có tâm đối với học trò của mình – Việc định hướng và liên kết với nước ngoài trong chương trình giáo dục còn lúng túng, mơ hồ, chưa có mục tiêu, phương hướng rõ ràng – Tư duy của nền giáo dục còn chậm đổi mới, chưa theo kịp tốc độ phát triển, đổi mới của đất nước trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, phát triển và hội nhập với thế giới. Việc thực hành cần được áp dụng từ ngay khi còn học phổ 38
- thông, để các em có thể phát triển tư duy, sáng tạo, chọn lựa cho mình những ngành nghề phù hợp nhất với bản thân mình. 2.3.3. Những vấn đề cần đổi mới trong nền Giáo dục phổ thông nước ta Thứ nhất: phải thay đổi triết lý để chuyển một nền giáo dục lấy trang bị kiến thức chuyên môn làm mục tiêu chủ yếu sang một nền giáo dục chỉ dạy những kiến thức chuyên môn căn bản ở mức tối thiểu. Dành nhiều thời gian dạy người học về phương pháp, kỹ năng, cách tự học, dạy cách sử dụng, khai thác các thiết bị và dạy làm người với mục đích người được đào tạo có khả năng thích ứng nhanh với hoàn cảnh, có khả năng học tập suốt đời và có trách nhiệm cao với gia đình, xã hội và Tổ quốc. Đi theo sự đổi mới này sẽ là hàng loạt những thay đổi căn bản. Từ chương trình, giáo trình, sách giáo khoa, người thày và cách thức giảng dạy. Theo triết lý mới này cách dạy và học sẽ chuyển từ học để nhớ sang chuyển sang học để hiểu. Cho đến nay hiện tượng quá tải như một căn bệnh không thể chữa và thay đổi sách giáo khoa diễn ra liên năm chính là do triết lý lấy dạy chuyên môn là mục tiêu quan trọng đẻ ra. Thứ hai: phải thay đổi một cách căn bản hệ thống đánh giá từ kiểm tra kiến thức sang đánh giá năng lực. Đầu vào thì đánh giá năng lực có học được (cấp học, chương trình học ấy) không. Trong quá trình thì đánh giá năng lực hiểuà v tiếp thu sáng tạo những điều đã học. Đầu ra thì đánh giá năng lực vận dụng những điều đã học tập, rèn luyện vào môi trường sắp tới Tóm lại phải thay đổi căn bản những gì đang làm hiện nay trong việc thi cử, đánh giá. Sự thay đổi này sẽ mở đường cho một giai đoạn mới, người thi sẽ được sử dụng các thiết bị công nghệ thông tin (như máy tính chẳng hạn), sử dụng mạng internet Việc tổ chức thi sẽ nhẹ nhàng, đơn giản và chắc chắn sẽ chấm dứt việc phải nhờ cậy đến lực lượng công an để bảo vệ đề, phải nhốt thầy ra đề trong khách sạn vừa tốn kém, vừa bức xúc và nhất là sẽ không còn hiện tượng học vẹt, học tủ và quay cóp nữa. Thứ ba: việc xây dựng các chương trình giảng dạy phải có chuẩn đầu ra. Chuẩn đầu ra ở đây là phải lấy thực tế khách quan và yêu cầu của xã hội làm căn cứ, chứ không không phải là “chuẩn” nhưng do nhà trường tự quy định như 39
- nhiều cơ sở đào tạo đang làm. Như vậy chuẩn đầu ra phải hiểu là đáp ứng nhu cầu rất đa dạng cả về chủng loại và chất lượng. Giáo dục đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực các loại cho xã hội. Sự đa dạng yêu cầu về chủng loại và chất lượng lao động sẽ quy định chủng loại và sự phân tầng của các cơ sở đào tạo. Bên cạnh những yêu cầu chất lượng rất cao của các cơ sở hàng đầu, có yêu cầu vừa phải của các cơ sở không có nhu cầu đến mức ấy. Đây chính là luận lý căn bản để phải có cách nhìn phân tầng đối với giáo dục đại học. Trong ý nghĩa này nhất loạt hô khẩu hiệu “chất lượng cao” là duy ý chí, không thực tế và cũng không phù hợp với thực tiễn. Thứ tư: cần phải có sự phân biệt căn bản giữa giáo dục phổ thông và giáo dục đại học (bao gồm cả sau đại học). Trong một thời gian dài sự phân biệt này chỉ là hình thức. Không phải vô cớ mà nhiều bậc trí giả ví von một cách hài hước, nhưng lại rất chính xác là đại học Việt Nam là phổ thông cấp 4. Quả thực, trên đại học, sinh viên chỉ học những kiến thức chuyên môn chưa học ở các lớp phổ thông, còn cách dạy cách học không khác mấy so với học phổ thông (cũng giống như lớp 10 học những kiến thức chưa học ở lớp 9). Điều khác căn bản giữa giáo dục phổ thông và giáo giáo dục đại học là ở chỗ giáo dục phổ thông là dạy những kiến thức đã ổn định, trang bị nền tri thức và rèn luyện những phẩm chất cơ bản cho công dân, còn giáo dục đại học chủ yếu lại là đào tạo nguồn nhân lực có năng lực sáng tạo và ngay trong quá trình học tập đã tham gia sáng tạo tri thức mới. Ở các nước tiên tiến, những phát minh và giải thưởng khoa học quốc tế lớn đều từ các trường đại học là do đặc điểm này của đại học. Chính từ thuộc tính này mà quyền tự chủ của các đại học, trước hết là tự chủ về học thuật, là điều kiện tiên quyết để giáo dục đại học phát triển. Tự chủ phải gắn liền với tự chịu trách nhiệm. Hãy để đại các trường đại học tự chăm lo lấy thương hiệu và uy tín của mình. Không nên lo “làm bậy” mà phải quản thật chặt. Quản lý nhà nước là vô cùng quan trọng và cần thiết, nhưng nếu không xác định được đầy đủ nội hàm của công tác này mà tăng cường quản lý của Nhà nước với rất nhiều những quy trình khắt khe thì chưa chắc đã đem lại kết quả như mong muốn. Quản lý chặt đến đâu cũng có kẽ hở (đấy là chưa kể tới 40
- ngay cả đội ngũ những người làm quản lý cũng không phải tất cả đều giỏi việc và trong sáng vô tư). Không cẩn thận sẽ khiến cho các cơ sở đào tạo ỷ lại, ỷ thế rồi khéo léo lách qua những quy định khi ấy toàn bộ trách nhiệm lại được đổ lên các cơ quan quản lý. Thứ năm: để có thể tiến hành đổi mới một cách căn bản thì giải pháp phải đồng bộ và toàn diện. Trước hết là những đổi mới về cơ chế, chính sách. Trong hoàn cảnh khóa khăn hiện nay của đất nước, không nên đặt vấn đề tăng thêm ngân sách cho giáo dục và đào tạo mà có chính sách phân phối nguồn lực cho hợp lý. Trong quá trình này, đầu tư tập trung và đầu tư hiệu quả được coi là ưu tiên. Cần chấm dứt việc đầu tư giàn trải và kém hiệu quả như hiện nay. Ngoài những cơ chế chính sách về tài chính, phải đổi mới hàng loạt các cơ chế chính sách khác có liên quan đến giáo dục, đào tạo, sao cho thực sự là quốc sách hàng đầu. Vấn đề quyết định cho thành công của sự nghiệp đổi mới giáo dục là chính sách cán bộ. Chọn đúng người, giao đúng việc và có những chính sách thu hút người giỏi vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo sẽ đưa giáo dục nước nhà bước vào một thời kỳ phát triển mới. 2.4. Một số quan điểm Giáo dục phổ thông trên thế giới - Giáo dục ở Nhật Bản: Đạo đức là cốt lõi: Nhật Bản trở thành một nước có nền giáo dục tiên tiến là nhờ thực hiện tiêu chí “con người = đạo đức”, đề cao tính tự lập và tinh thần kỷ luật. Tư tưởng của người Nhật vẫn còn mang đậm dấu ấn văn hóa truyền thống của dân tộc mình, đạo đức là cốt lõi là điều mà một học sinh phải biết đến đầu tiên. Giáo dục Nhật Bản vận hành theo nguyên lý: “mỗi người học sẽ trở thành một cá nhân hoàn thiện đạo đức”. Tư duy ‘tự lập’: Giáo dục Nhật Bạn cũng hướng đến tính tự lập cho học sinh, mỗi học sinh có thể tự chủ trong học tập, không ỷ lại để có thể hòa nhập môi trường hội nhập đầy biến động các giá trị văn hóa và tri thức - Giáo dục ở Mỹ: Tự do và tôn trọng tự do của người khác 41
- Nền giáo dục Mỹ hướng con người đến tự do, có thể dễ dàng thích nghi với cuộc sống đang biến động hàng ngày, nếu bó buộc học sinh sẽ làm mất tính sáng tạo của trẻ. Các chương trình học tại các trường ở Mỹ rất giàu tính trải nghiệm, kích thích sự phát hiện, khuyến khích trẻ đưa ra tất cả suy nghĩ “xung quanh một câu hỏi”. Tự do của người Mỹ là tự do về tư tưởng, giữ quan điểm của mình đồng thời tôn trọng quan điểm ý kiến của người khác. - Giáo dục ở Đức: Bình đẳng: Một trong những đặc tính của giáo dục Đức đó là tính bình đẳng giữa các học sinh, trong lớp học không có lớp trưởng, lớp phó hay tổ trưởng, tổ phó, mà chỉ có “phát ngôn viên” để chuyển thông điệp của thầy cô đến học sinh và ngược lại.“Phát ngôn viên” còn đưa ra các giải pháp, phong trào nhằm cải thiện tình hình học tập, giúp các bạn học lực yếu, phát huy các tài năng văn nghệ, thể thao trong lớp Chú trọng trải nghiệm thực tế: Người Đức cho rằng trói buộc những đứa trẻ trong lớp học mà thiếu tính trải nghiệm thực tế sẽ dẫn đến những sản phẩm bị lỗi thời về mặt nội dung. Thầy cô đứng lớp còn quan niệm phải mất cả năm trời, thậm chí là vài năm người ta mới có thể xuất bản một quyển sách hạn hữu trong khi thế giới to lớn, vĩ đại đang vận động hàng giây. Thế nên kiến thức sách vở, phần lớn đã lỗi thời trước khi được trưng bày trên kệ sách. Đối mặt với những khó khăn và thách thức lớn khiến nền giáo dục nước ta bị trì trệ và chậm phát triển. Chúng ta phải nhìn nhận lại những vấn đề đang gây cản trở và có biện pháp tốt hơn, một số điều tôi nhận thấy chúng ta cần phải học hỏi từ các nước bạn: - tập Nhật Bản lấy giáo dục đạo đức và nhân cách làm nền tảng cơ bản. - Học tập Phần Lan “học ít thực hành nhiều” để học sinh có thể ứng dụng vào cuộc sống. - Học tập Mỹ tạo sự tự do, công bằng trong giáo dục. - Học tập Úc thúc đẩy sự sáng tạo, khác biệt trong giáo dục. 42
- - Học tập Singapore đầu tư vào công nghệ và chất lượng giáo viên. Việc so sánh giáo dục Việt Nam và giáo dục thế giới giúp chúng ta thấy được những hạn chế cần phải sửa chữa, để làm hành trang cho những cải cách hoàn thiện hơn. Giáo dục chính là cơ sở để đánh giá được trình độ dân trí cũng như sự phát triển của một quốc gia. 2.5. Một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông hiện nay 2.5.1. Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc tạo mối quan hệ hài hòa, chặt chẽ giữa đạo đức và pháp luật trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông Đạo đức và pháp luật có mối liên hệ khăng khít với nhau. Pháp luật sẽ bị vi phạm nếu xã hội có môi trường đạo đức tha hóa. Ngược lại, pháp luật không nghiêm chỉnh cũng ảnh hưởng xấu đến đời sống môi trường đạo đức. Nếu Giáo dục phổ thông có thể hòa được đạo đức và pháp luật thành một mối quan hệ biện chứng, chặt chẽ với nhau, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau. Một nền Giáo dục có nền tảng đạo đức tốt sẽ là cơ sở để pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và tự giác. Mặt khác, pháp luật nghiêm sẽ hỗ trợ đắc lực cho việc giữ gìn, phát triển nền đạo đức xã hội tốt đẹp 2.5.2. Hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực Giáo dục phổ thông Chúng ta cần phải xây dựng đồng bộ và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Phương châm chỉ đạo của Đảng ta là: “Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật”(8). Vấn đề này có liên quan chặt chẽ với việc nghiên cứu các giá trị, đặc biệt là các giá trị truyền thống. Thông qua quá trình đó, chúng ta có thể lựa chọn các chuẩn mực, các giá trị phù hợp để luật hóa chúng, biến thành những quy phạm chung của xã hội mà mỗi công dân đều có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh. Có thể nói, đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và thực sự cấp bách trong quá trình xây dựng một xã hội tiến bộ, văn minh ở nước ta hiện nay. Để nâng cao vai trò và hiệu quả của hệ thống pháp luật, ngoài các biện pháp trên, cần phải quan tâm đến chất lượng của các cơ quan làm luật và đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật. Thực tế những năm vừa qua cho thấy, đội ngũ cán bộ 43
- trực tiếp thực thi pháp luật không những còn thiếu và yếu về năng lực, thiếu ý thức trách nhiệm, mà còn thiếu cả cái tâm của con người. Đã có không ít trường hợp cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm những việc trái với chính sách và pháp luật, xử lý không nghiêm những trường hợp vi phạm, thậm chí chính bản thân họ cũng vi phạm pháp luật. Do vậy, việc nâng cao chất lượng của các cơ quan này cũng như xây dựng đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đang là đòi hỏi cấp bách hiện nay. 2.5.3. Bảo vệ và phát huy các giá trị chuẩn mực đạo đức truyền thống Giáo dục kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng cùng chăm lo giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viê. Trước hết gia đình là nơi lưu giữ các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, là môi trường đầu tiên hình thành đạo đức cho học sinh, sinh viên. Gia đình là nơi mà tình yêu quê hương, đất nước, yêu thương con người được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Do đó trong gia đình, ông bà, cha mẹ phải thật sự mẫu mực, làm gương về đạo đức, yêu thương, chăm lo bồi dưỡng thế hệ trẻ. Để giáo dục đạo đức cho thanh niên, mỗi gia đình cần giữ gìn đạo đức, nề nếp gia phong, phát huy các giá trị đạo đức truyền thống, làm cho các giá trị đó ngày càng toả sáng, góp phần bồi dưỡng tư tưởng tình cảm cao đẹp cho thế hệ con cháu. Nhà trường không chỉ dạy chữ, dạy nghề mà còn là nơi dạy người. Giáo dục lý tưởng, đạo lý làm người là nội dung giáo dục hàng đầu trong nhà trường hiện nay và phải đặc biệt coi trọng. Một số nhà trường mới chỉ quan tâm trang bị kiến thức chuyên môn, tay nghề mà xem nhẹ hoặc thiếu quan tâm giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên. Học sinh, sinh viên ngày nay đang sống trong thời kỳ bùng nổ thông tin, kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ, giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng. 2.5.4. Kết hợp Giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông. 44
- Cần tổ chức tốt việc đưa pháp luật vào đời sống thông qua hoạt động giáo dục pháp luật. Bởi vì, một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh vẫn chưa thể đem lại hiệu quả cao nếu những quy định của nó không được mọi người biến thành hành động trong thực tế. Trước đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở: việc công bố đạo luật chưa hảip là đã xong, mà còn phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt. Theo Người, việc giáo dục pháp luật là một trong những “công đoạn” hết sức quan trọng. Nó không chỉ giúp nâng cao ý thức pháp luật cho người dân, mà còn tạo ra khả năng hình thành những nhu cầu, tình cảm, những chuẩn mực mới; đồng thời, góp phần củng cố ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đạo đức; ngăn chặn các biểu hiện xâm phạm lợi ích chính đáng của người khác; khuyến khích những hành vi hợp pháp và hợp đạo lý trong Giáo dục ổph thông. 2.5.5. Kiểm tra, xử lý kịp thời, công bằng mọi hành vi vi phạm pháp luật về Giáo dục phổ thông. Để tăng cường vai trò của pháp luật thì việc thực thi pháp luật phải nghiêm minh, công bằng đặc biệt khi có những hành vi vi phạm trong Giáo dục phổ thông. Đứng trước pháp luật, mọi công dân đều bình đẳng cả về quyền và nghĩa vụ. Tất cả mọi hành động vi phạm pháp luật đều phải bị xử lý nghiêm khắc. Trước đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng, hiệu lực của pháp luật chỉ có được khi mọi người nghiêm chỉnh chấp hành. Trong thực thi pháp luật, về phía nhà nước, việc tổ chức thực hiện phải nghiêm minh, thưởng phạt phải rõ ràng; về phía công dân, tất cả mọi người không loại trừ ai đều có nghĩa vụ, trách nhiệm thực hiện đúng pháp luật, có ý thức tôn trọng pháp luật. 2.5.6. Tạo lập dư luận xã hội trong phòng chống vi phạm đạo đức trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông Hiện nay chúng ta không thể phủ nhận sức mạnh của dư luận xã hội trong việc tác động và gây ảnh hưởng đến việc để Nhà nước phải vào cuộc và có trách nhiệm hơn trong những hành vi vi phạm đạo đức và pháp luật trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông. Dư luận xã hội có sự tác động đối với lĩnh ựv c pháp luật, nhưng đồng thời pháp luật cũng có sự tác động trở lại với dư luận xã hội. Nhất là trong tình hình 45
- hiện nay, tính dân chủ, bình đẳng của con người ngày càng được nâng cao và coi trọng, nên các vấn đề dư luận xã hội cũng ngày càng trở nên phức tạp. 2.6. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông Giáo dục và đào tạo nước ta còn yếu kém, bất cập cả về quy mô, cơ cấu, nhất là về chất lượng và hiệu quả; chưa đáp ứng được những đòi hỏi lớn và ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi mới. Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI đã chỉ rõ chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu. Liên quan đến vấn đề tổ chức và quản lý giáo dục - đào tạo, có thể thấy, sự phối hợp liên ngành còn yếu, các giải pháp còn thiếu đồng bộ. Chính vì vậy, để khắc phục những yếu kém nói trên, vận dụng quan điểm hệ thống vào việc tổ chức, quản lý lĩnh vực giáo dục - đào tạo là vô cùng quan trọng và cần thiết. Nghị quyết Trung ương 8 khẳng định: “Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp” Từ những phân tích trên, đổi mới lĩnh vực giáo dục và đào tạo theo hướng căn bản và toàn diện như quan điểm của Nghị quyết 29 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI, theo chúng tôi, cần quán triệt một số quan điểm, giải pháp sau: - Thứ nhất, về phương pháp luận cần nhận thức đúng và từ đó có những biện pháp giải quyết phù hợp mối quan hệ giữa các mục tiêu dân trí, nhân lực, nhân tài trong phát triển giáo dục và đào tạo. Một nền dân trí rộng là điều kiện cần thiết để đào tạo được nguồn nhân lực thích hợp phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời dân trí vừa là thành tố vừa là cơ sở để nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Một dân tộc dốt là dân tộc yếu”. Mức độ dân trí có thể đạt được tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, không thể mong muốn vào một mức độ dân trí quá cao thoát ly khỏi điều kiện kinh tế, song cũng không chờ có kinh tế phát triển cao mới mở rộng và nâng cao dân trí. 46