Khóa luận Pháp luật của các quốc gia ASEAN chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil Law

pdf 50 trang thiennha21 16/04/2022 4520
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Pháp luật của các quốc gia ASEAN chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil Law", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_phap_luat_cua_cac_quoc_gia_asean_chiu_anh_huong_cu.pdf

Nội dung text: Khóa luận Pháp luật của các quốc gia ASEAN chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil Law

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐINH ĐĂNG DŨNG PHÁP LUẬT CỦA CÁC QUỐC GIA ASEAN CHỊU ẢNH HƯỞNG CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT CIVIL LAW KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH LUẬT HỌC CHẤT LƯỢNG CAO Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-L HÀ NỘI, 2019
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐINH ĐĂNG DŨNG PHÁP LUẬT CỦA CÁC QUỐC GIA ASEAN CHỊU ẢNH HƯỞNG CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT CIVIL LAW KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH LUẬT HỌC CHẤT LƯỢNG CAO Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-L NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TIẾN SỸ LÊ THỊ PHƯƠNG NGA HÀ NỘI, 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan : Khoá luận tốt nghiệp với đề tài “Pháp luật của các quốc gia ASEAN chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil Law” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, không sao chép của bất cứ ai. Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về công trình nghiên cứu của riêng mình ! Hà Nội, ngày 23/04/2019
  4. Mục lục 1. Lý do chọn đề tài 3 2. Mục đích nghiên cứu 3 3. Phương pháp nghiên cứu 4 4. Phạm vi nghiên cứu 4 CHƯƠNG 1. Hệ thống pháp luật civil law và ảnh hưởng của nó đến pháp luật các quốc gia ASEAN 4 I. Khái niệm và đặc điểm hệ thống pháp luật 4 II. Các hệ thống pháp luật trên thế giới 6 III. Lịch sử phát triển của hệ thống Civil Law 7 IV. Đặc trưng của hệ thống pháp luật Civil Law 9 1. Nguồn luật, vị trí án lệ 9 2. Vị trí vai trò Tòa án 16 3. Cách thức tổ chức Tòa án 16 4. Tính chất pháp điển hóa 17 5. Phân chia luật công luật tư 18 V. Nguyên nhân ảnh hưởng của Civil Law đến các quốc gia ASEAN 18 CHƯƠNG 2: Thực tiễn hệ thống pháp luật các quốc gia chịu ảnh hưởng của Civil Law 22 I. Việt Nam 22 II. Lào 26 1
  5. III. Campuchia 28 IV. Indonesia 31 V. Thái Lan 37 CHƯƠNG 3: Xu hướng phát triển và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 42 I. Sự phát triển của Civil law trong thời kì hiện đại 42 II. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 43 Danh mục tài liệu tham khảo 44 2
  6. 1. Lý do chọn đề tài Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, sự trao đổi thông tin ngày càng tăng cùng lúc đó là Việt Nam đang trên đường cải cách hệ thống tư pháp. Đặc điểm của hệ thống pháp luật Việt Nam chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật XHCN( một hệ thống rất gần với Civil Law) và đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của hệ thống Civil Law mà Pháp đã để lại trong thời kỳ đô hộ Việt Nam. Trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, yêu cầu khách quan đặt ra là phải tiến hành cải cách bộ máy nhà nước, điều chỉnh phạm vi nội dung và phương thức hoạt động của Nhà nước cho phù hợp. Nguyên tắc quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa phải được đề cao hơn bao giờ hết. Trong cải cách bộ máy nhà nước, cải cách tư pháp có vị trí rất quan trọng. Hiện nay, để cải cách hệ thống pháp luật vốn có thì Việt Nam đang phải vay mượn pháp luật nước ngoài, ví dụ như pháp luật của Nhật Bản hay pháp luật của Liên Bang Nga. Đây cũng là các nước có chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil Law. Bài nghiên cứu này sẽ cung cấp sơ lược về các đặc điểm của hệ thống pháp luật Civil Law và cách thức tổ chức tòa án tại các quốc gia ASEAN, cũng chính là các quốc gia láng giềng có chung nền văn minh lúa nước, cùng chịu ảnh hưởng bởi hệ thống này để Việt Nam có thể dễ dàng liên hệ và lựa chọn lối đi cho mình. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích của khóa luận là nghiên cứu tổng thể các đặc điểm của hệ thống Civil Law, đặc trưng của hệ thống Civil Law ở các quốc gia trong ASEAN. Đặc trưng đó là nguồn luật và cách thức tổ chức tòa án của các quốc gia mang hệ thông Civil Law trong ASEAN 3
  7. Để đạt được mục đích này, luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu hiến pháp và các đạo luật tổ chức tòa án của 5 nước Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Indonesia. 3. Phương pháp nghiên cứu Để giải quyết vấn đề do đề tài đặt ra, người viết sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp phân tích 4. Phạm vi nghiên cứu Nguyên nhân tại sao Civil Law ảnh hưởng tới các quốc gia này. Các đặc điểm nổi bật của Civil Law. Phân tích các quốc gia cụ thể. Việc phân tích không gồm nêu hệ thống pháp luật quốc gia đó mà trọng tâm vào nguồn luật và tổ chức tòa án. CHƯƠNG 1. Hệ thống pháp luật civil law và ảnh hưởng của nó đến pháp luật các quốc gia ASEAN I. Khái niệm và đặc điểm hệ thống pháp luật Ở Việt Nam các nhà luật tiếp cận khái niệm hệ thống pháp luật dưới các góc độ khác nhau: Hệ thống pháp luật được xem xét dưới góc độ cấu trúc. Hệ thống pháp luật được nghiên cứu dưới dạng là một hệ thống văn bản pháp luật. Hệ thống pháp luật được xem xét ở nghĩa rất rộng: không chỉ là hệ thống bao gồm các ngành luật, chế định pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật mà còn thâu nạp cả các thiết chế thực thi và bảo vệ pháp luật, nghề luật, đào tạo luật, Còn trong luật học so sánh: 4
  8. Thứ nhất, thuật ngữ hệ thống pháp luật được sử dụng khi nói đến pháp luật của quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nào đó. Chăng hạn, thuật ngữ hệ thống pháp luật được sử dụng để nói đên hệ thông pháp luật của Mỹ với hàm ý là quốc gia nhưng cũng có thê ám chỉ hệ thông pháp luật của từng bang trong nhà nước liên bang Mỹ. Michael Bogdan trong cuốn “Luật so sánh” sử dụng thuật ngữ này để chỉ pháp luật của một vùng lãnh thổ như Anh, Mỹ, Pháp, Đức. Với ngữ cảnh này, thuật ngữ hệ thống pháp luật thường được hiểu là tồng thề các quy phạm pháp luật của quốc gia hay vùng lãnh thổ. Thứ hai, Bên cạnh việc sử dụng thuật ngữ “hệ thống pháp luật” để nói đến pháp luật của quốc gia hoặc vùng lãnh thổ, thuật ngữ này còn được sừ dụng để nói đến pháp luật của một nhóm quốc gia hoặc vùng lãnh thồ mà hệ thống pháp luật của chúng có những điểm chung nhất định. René David, trong cuốn: “Những hệ thống pháp luật chính trong thế giới đương đại” “hệ thống pháp luật” khi nói đến nhóm hệ thống pháp luật của các nước thuộc lục địa châu Âu - hệ thống pháp luật La Mã - Giécmanh (The Romano - Germanic system of law). Tưong tự như vậy, nhiều học giả luật so sánh khác cũng sử dụng thuật ngữ hệ thống pháp luật để nói đến pháp luật của nhóm quốc gia hoặc vùng lãnh thổ. Peter de Cruz trong cuốn “Comparative Law in a changing world” (luật so sánh trong thế giới thay đổi) cũng sử dụng thuật ngữ “hệ thống pháp luật” khi nói đến nhóm pháp luật cùa phần lớn các nước Tây Âu, các nước Mỹ Latinh, các nước vùng Đông Á và phần lớn các nước châu Phi (civil law system). Khi sử dụng thuật ngữ “hệ thống pháp luật” để nói đến pháp luật của nhóm quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nào đó, các học giả không có hàm ý rằng nội dung của thuật ngữ này là hệ thông .quy phạm, các chế định pháp luật và các 5
  9. thiết chế pháp lí hoặc bao hàm cả mức độ, phạm vi điều chỉnh pháp luật giống như “hệ thông phap luật” cùa quốc gia hoặc vùng lãnh thổ. Khi sử dụng khái mẹm hẹ thống pháp luật” để nói đến pháp luật của nhóm quôc gia hoặc vùng lãnh thổ, nội hàm của nó đã được mở rộng hơn rất nhiều. Theo đó, hệ thống pháp luật là “triết học pháp luật và kĩ thuật pháp lí” Chung của nhóm quốc gia, vùng lãnh thổ nào đó. II. Các hệ thống pháp luật trên thế giới Trong cuốn sách “Những hệ thống pháp luật chính trong thế giới đương đại” René David đã chia ra thành các hệ thống pháp luật sau Hệ Roman- Giecmanh (Civil law) Hệ này bao gồm nhóm các quốc gia có nền pháp luật dựa trên luật La Mã, phát triển mạnh ở các nước Pháp, Đức và một số nước lục địa Châu Âu. Theo hệ này, việc xác định được những quy phạm đó cần phải như thế nào – đó là nhiệm vụ chính của khoa học pháp lý. Hệ thống pháp luật của các nước này nhìn chung đều chịu ảnh hưởng của Luật La Mã, luật vật chất được coi trọng hơn luật thủ tục, luật tư là lĩnh vực pháp luật được chú trọng hơn cả. Họ pháp luật này coi trọng văn bản qui phạm pháp luật và đã thoát ly khỏi tôn giáo, luân lý, đề cao tự do cá nhân1. Hệ thông luật (Common Law) Hệ thống thông tuật là hệ thống của Anh quốc hoặc các quốc gia đi theo hình mẫu của Anh. Thông luật do tòa án tạo ra để giải quyết các tranh chấp. Quy phạm của thông luật không trừu tượng như Civil law mà hướng đến giải 1 Nguyễn Minh Tuấn, Hai hệ thống pháp luật common law và civil law. Truy cập: 6
  10. quyết các vấn đề cụ thể. Đây là hệ thống pháp luật coi trọng tiền lệ (precedents/ judge made law), phù hợp với quan niệm của người Anh ưa ứng biến phù hợp hoàn cảnh, coi trọng kinh nghiệm2. Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa. Hệ thống pháp luật cua những nước thuộc phe xã hội chủ nghĩa trước đây nằm trong hệ Civil law. Chúng vẫn giữ được những, yếu tố của hệ Civil Law. Qui phạm pháp luật luôn dược xem xét như một quy phạm ứng xử chung. Phần lớn vẫn giữ được cỗ hệ thông pháp luật. Tuy vậy, hệ thống pháp luật XHCN vẫn có những nét khác biệt so với Civil Law. Các nhà lãnh đạo các nước XHCN đặt ra mục tiêu xây dựng chế độ mới tiến đên việc không có nhà nước và pháp luật. Do đó nguồn của pháp luật duy nhất bao gồm những hoạt đông cách mạng nhà nhà lập pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tư liệu sản xuất được công hữu, lợi ích cá nhân xếp sau lợi ích tập thể. Như vậy quan hệ tư giữa các cá nhân sẽ bị thu hẹp lại và luật tư nhường vị trí thống trị cho luật công. Các hệ thống pháp luật khác. Các hệ thống pháp luật khác bao gồm Pháp luật Đạo Hồi, Pháp luật Hindu giáo, Pháp luật Do Thái giáo, Pháp luật Trung Quốc, Pháp luật Nhật Bản III. Lịch sử phát triển của hệ thống Civil Law Lịch sử của hệ thống Civil Law gắn liền với liền với sự phát triển của hệ thống luật La Mã. Các bộ óc thiên tài thành Rome đã phát triển một hệ thống pháp lý đồ sộ mà chủ yếu là luật thành văn, không dùng án lệ. Từ năm 529 2 Nguyễn Minh Tuấn, Hai hệ thống pháp luật common law và civil law. Truy cập: 7
  11. đến năm 534, các bộ sách của Justinianus có tên gọi Bộ luật Justinianus, Tổng luận luật học Justinianus (Digest), Sách sựu tập, các định chế Justinianus lần lượt dược xuất bản ở Ý; Các bộ sách này là những tác phẩm tiêu biểu, cho luật La Mã. Từ thế kỷ VI, phần lớn các bộ lạc Ghec - manh đã có luật của mình ("luật man di"). Quá trình hình thành những đạo luật này tiếp tục cho đến thế kỷ XII bao gồm cả những bộ lạc Xlavơ và Normandi. Sau sự sụp đổ của đế quốc La Mã, với dân chúng thì hệ thống này quá phức tập để áp dụng nên đã thay thế chúng bằng hệ thống luật tục. Người ta không mất công làm sáng rõ những quy phạm pháp luật là gì khi một vụ việc được giải quyết bằng ý trời, lời thề thử thách của tòa án hay tính chuyên quyền của nhà cầm quyền. Xã hội trung cổ vận hành dựa trên các tư tưởng về tôn giáo. Sự hình thành của hệ thống Civil Law như hiện nay liên quan đến thời kỳ phục hưng, khi đó người ta nhận ra rằng chỉ có pháp luật mới duy trì được trật tự và an toàn xã hội. Người ta đã thôi không lẫn lộn giữa đạo đức, tôn giáo với pháp luật nữa. Vai trò độc lập của pháp luật được ghi nhận. Các triết gia, luật gia yêu cầu rằng các mối quan hệ xã hội phải được dựa trên pháp luật, chấm dứt được tình trạng vô luật hoặc chuyên quyền từ các thế kỷ trước. Pháp luật dựa trên yếu tố công lý, không tìm kiếm nó trên các yếu tố siêu nhiên như Chúa. Hạn chế sự can thiệp của nhà cầm quyền trong các quan hệ tư. Các phong trào cách mạng về sau đòi hạn chế quyền lực nhà nước, pháp luật phải bảo vệ công dân và tiến bộ xã hội. Sự hình thành của hệ thống Civil Law hoàn toàn không phải là kết quà của sự thiết lập quyền lực hoặc sự tập trung hóa chính quyền Nhà Vua. Điều này đỗ phân hiệt hệ Civil Law với pháp luật Anh quốc, nơi mà sự phát triển cùa 8
  12. thông luật; gán liền vớì việc củng cố chính quyền của nhà Vua, với sự tồn tại của hệ thống tòa án hoàng gia được tập trung hóa cao độ. Trong hệ thống Civil Law không có điều đó. IV. Đặc trưng của hệ thống pháp luật Civil Law 1. Nguồn luật, vị trí án lệ Luật thành văn Các nước Civil Law đều nhất trí về vai trò hàng đầu của luật thành văn trong hệ thống nguồn luật. Luật thành văn tạo thành bộ xương của hệ thống pháp lý Sự khác nhau trong thực tiễn : Người Pháp thích diễn đạt luật thành văn một cách dễ hiểu nhất Người Đức thích sử dụng thuật ngữ chuyên ngành một cách chính xác. Dòng họ pháp luật civil law nhìn chung rất coi trọng luật thành văn và có trình độ pháp điển hóa cao. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội, mỗi quan hệ xã hội sẽ có các loại văn bản điều chỉnh khác nhau. Theo Rene David: “Các quy phạm của “luật thành văn” do cơ quan lập pháp hoặc hành pháp đưa ra, được các nhà luật học giải thích và áp dụng cho mỗi quyết định của mình về một vụ việc cụ thể, đã tạo thành một hệ thống thứ bậc.” a. Các quy phạm hiến pháp Hiến pháp đứng ở cấp cao nhất của hệ thống này, mang tính chất tối thượng về 2 mặt là chính trị và pháp lý. Về tính chất chính trị, để thay đổi một bản hiển pháp cần những trình tự đặc biệt. Ví dụ, để thay đổi hiến pháp Thái Lan cần phải tuân thủ các trình tự Đề nghị sửa đổi phải được đề xuất bởi Hội đồng Bộ trưởng, hoặc từ một phần năm Thành viên của Hạ viện, hoặc từ một phần năm tổng số thành 9
  13. viên của 2 viện. Quốc hội sẽ xem xét dự thảo sửa đổi qua 3 lần. Lần bỏ phiếu thứ nhất được thông qua nếu có sự chấp thuận của hơn một phần hai thành viên 2 viện với điều kiện một phần ba thành viên Thượng viện chấp nhận. Lần bỏ phiếu thứ hai để thông qua từng phần của dự thảo, được quyết định bởi đa số phiếu. Lần bỏ phiếu thứ ba, việc ban hành hiến pháp được thông qua nếu có sự chấp thuận của hơn một phần hai thành viên 2 viện cộng với điều kiện thành viên của Hạ viện đến từ các đảng không có thành viên giữ chức vụ chức vụ Bộ trưởng, Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Hạ viện phải bỏ phiếu phê chuẩn với số lượng không dưới 20% tổng số gồm các thành viên tương tự như vậy trong hạ viện đồng thời phải được một phần ba thượng viện chấp thuận. Khi dự thảo sửa đối hiến pháp sửa đổi Chương I Quy định chung, Chương II Vua hoặc Chương XV sửa đổi Hiến pháp, hoặc liên quan đến sự vận hành của Tòa án hoặc các cơ quan độc lập thì phải tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý trước khi tiến hành các thủ tục tiếp theo Về tính chất pháp lý thì đây là văn bản pháp lý cao nhất, mọi văn bản luật khác đều không được trái với văn bản này. b. Công ước quốc tế Khi ký kết điều ước quốc tế thì điều ước đó không được trái với hiến pháp quốc gia. Vì để thi hành các điều ước quốc tế thì điều ước đó cần phải được nội luật hóa nhưng trong phạm vi quốc gia, hiến pháp là tối thượng nên các luật khác không được trái với văn bản này. Trong trường hợp cần thiết thì sửa đổi hiến pháp trước khi ký kết điều ước quốc tế. c. Các bộ luật Về nguyên nghĩa ban đầu thì bộ luật( code) mang ý nghĩa là tuyển tập các luật khác nhau. Thậm chí, người ta còn cho rằng gọi một luật bằng bộ 10
  14. luật do những luật này đã vượt ra khuôn khổ của quốc gia, có ảnh hưởng to lớn đến pháp luật của khu vực. Ngày nay, thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi để chỉ các văn bản luật tổng hợp, trình bày một cách có hệ thống các quy phạm thuộc một lĩnh vực nhất định d. Các luật và các đạo luật Đây là các văn bản do cơ quan lập pháp ban hành, việc xây dựng chúng được tiến hành theo các trình tự, thủ tục nhất định. Về giá trị pháp lý thì các luật và các đạo luật không thấp hơn các bộ luật. Nhưng thông thường, một bộ luật sẽ điều chỉnh cả một ngành luật còn một luật sẽ điều chỉnh một phần của ngành luật e. Các quy chế, sắc lệnh Các quy phạm này không do cơ quan lập pháp ban hành mà do cơ quan Nhà nước khác đưa ra. Đây là các quy phạm được lập ra để chỉ dẫn, thực thi các luật đã ban hành. Trong một số trường hợp, việc ban hành quy định cụ thể là do cơ quan lập pháp ủy quyền cho cơ quan hành chính thực hiện. Các văn bản mang tính khái quát cao để điều chỉnh chung. Do tính chất khái quát và lại đề cao vị trí của luật thành văn cùng hạn chế của cơ quan có thẩm quyền giải thích, “làm luật” cho thẩm phán nên các quốc gia theo civil law thường có hệ thống văn bản luật và dưới luật nhiều để luật có thể áp dụng vào thực tiễn được. f. Các thông tư hành chính Tại các nước theo truyền thống pháp luật civil law, có sự phân biệt giữa văn bản luật và những thông tư hành chính thể hiện cách hiểu và hướng dẫn áp dụng luật của cơ quan hành chính 11
  15. Thói quen, tập quán pháp Thói quen thường được nhắc đến trong luật dân sự như một sự ngụ ý của ý chí. Với tập quán pháp, thói quen là yếu tố khách quan của nó. Tập quán pháp là cách xử sự có ý nghĩa về mặt pháp lý mà sự cần thiết và phạm vi của nó được chủ thể pháp luật công nhận một cách tự phát, không cần một văn bản mang tính bắt buộc nào. Tuy nhiên, các bộ luật nói chung thường thừa nhận nguồn này trong văn bản thành văn, manh lại tính chính danh cho nó. Bản chất của tập quán pháp được dựa trên hai yếu tố: Yếu tố khách quan: việc các xử sự, thái độ, hành vi đã trở thành thói quen một cách tự nhiên. Yếu tố chủ quan: chủ thể pháp luật cho rằng thói quen đó mang tính bắt buộc (chấp nhận nó là luật). Phán quyết của toà án Án lệ được hiểu là các bản án, quyết định của toà án, trọng tài; là lời giải thích các quy phạm pháp luật của thẩm phán. Các bản án của thẩm phán Pháp thường ngắn gọn, súc tích nhưng khó hiểu. Các bản án của thẩm phán Đức dài, gần giống như bài luận về khoa học luật, dễ hiểu, có trích dẫn các đạo luật, các phán quyết trước đây và các nguồn luật khác. Các nguyên tắc, giải pháp pháp lý rút ra từ án lệ không có giá trị như luật thành văn vì chúng không chắc chắn, có thể bị huỷ bỏ hoặc sửa đỏi bất cứ lúc nào. 12
  16. Vị trí của án lệ trong hệ thống nguồn luật chính là đặc điểm dùng để phân biệt giữa dòng họ Civil Law, dòng họ Common Law và dòng họ pháp luật XHCN. Các nhà làm luật ở Pháp không chấp nhận mô hình án lệ kiểu Anh, mô hình theo nguyên tắc “stare decisis” – phán quyết phải được tuân thủ như tiền lệ, vì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lực lập pháp, mà theo thuyết tam quyền phân lập của Montesquieu là đặc quyền của Quốc hội. Đối với nhánh quyền lực tư pháp, học thuyết này nhấn mạnh rằng “vai trò của tòa án là giải quyết những xung đột được mang ra tòa, chứ không phải làm ra luật lệ hay quy tắc”.3 Mô hình dựa trên nguyên tắc “jurisprudence constante” ra đời, theo đó tòa án có thể tham chiếu đến một phán quyết trong quá khứ chỉ khi có đủ sự nhất quán thể hiện qua thời gian, tức các vụ án tương tự sau đó cũng được xử tương tự. Xử án không thể chỉ dựa trên một phán quyết đã có, và cũng không có lý do gì để các vụ án tương tự không được giải quyết tương tự. Khi án lệ đã đạt được sự nhất quán, tòa án coi án lệ là một nguồn luật đầy thuyết phục và tham chiếu đến khi cần. Mức độ nhất quán càng cao, đồng nghĩa với việc số lượng các vụ án được xử tương tự càng nhiều, án lệ càng có sức thuyết phục cao đối với thẩm phán. Giải thích nguyên tắc “jurisprudence constante” nhằm nhấn mạnh giá trị thuyết phục của phán quyết chứ không phải tính pháp quy tiền lệ bắt buộc của nó. Nếu án lệ hình thành chỉ sau một phán quyết, điều này không có ý nghĩa nào khác ngoài phán quyết đó chính là luật, mà điều này là đi ngược lại truyền thống pháp luật Civil Law và nguyên tắc tam quyền phân lập chặt chẽ 3Vincy Fon and Francesco Parisi, ‘Judicial Precedents in Civil Law Systems: A Dynamic Analysis’ (2006) 26 International Review of Law and Economics 26 (2006), 522. 13
  17. tại Pháp. Do đó, một nguyên tắc dùng cho xét xử có thể hình thành chỉ từ một phán quyết, nhưng chỉ một phán quyết đó thì không hình thành cái gọi là án lệ. Chỉ khi một cơ số các phán quyết sau đó có cùng đường lối xét xử và cùng với phán quyết ban đầu tạo thành một chuỗi các phán quyết tương tự cho những vụ việc tương tự, án lệ mới hình thành. Khi tranh cãi về vấn đề “án lệ có là một nguồn luật” trong BLDS Pháp, nhiều học giả đưa ra các ý kiến trái chiều4. Theo BLDS, không có nguồn “án lệ”. Điều 5 BLDS cũng khẳng định: Điều 5: “Cấm các thẩm phán đặt ra những quy định chung có tính chất pháp quy để tuyên án với những vụ kiện được giao xét xử.” Những người ủng hộ cho rằng: các thẩm phán, vừa có nhiệm vụ giải thích pháp luật, đồng thời có quyền hạn tạo ra những quy tắc pháp luật, miễn là những quy tắc đó không trái với pháp luật thành văn. Những người phản đối cho rằng: quyền hạn chỉ thẩm phán chỉ giới hạn trong việc áp dụng pháp luật và cân nhắc các tập quán thôi, các phán quyết của họ chỉ có hiệu lực gián tiếp được dựa trên những nguồn luật trực tiếp khác (tức luật thành văn).5 Về phía các thẩm phán, họ khẳng định một cách nhất quán rằng, các quy tắc được nêu trong các phán quyết của họ chỉ mang tính chất bổ trợ cho luật thành văn.6 Réne David cũng nhận định: “Các quyết định tư pháp không phải là nguồn luật ở Pháp. Nói cách khác, nó không bao giờ tạo ra các quy tắc pháp luật. Vai trò của các quyết định tư pháp luôn được hiểu là sự áp dụng các quy định 4 Từ đây đến hết phần phân tích về án lệ Pháp tham khảo tại NCKH Án lệ trong dân luật Pháp và hướng áp dụng tại Việt Nam, tác giả: Nguyễn Lữ Quỳnh Anh, Phạm Hồ Nam (2017, Khoa Luật, ĐHQGHN) 5Henri et Léon Mazeaud, Jean Mazeaud and Francois Chabas (n 9) 177. 6ibid 178. 14
  18. pháp luật hiện hành hoặc tập quán. Trong trường hợp không có luật hoặc tập quán, các quyết định tư pháp có thể dựa trên nguyên bằng công bằng, hợp lý, công lý truyền thống. Căn cứ của các quyết định tư pháp không bao giờ chỉ đơn thuần dựa trên các án lệ trước đó”.7 Án lệ trong dân luật Pháp không phải là nguồn luật được thừa nhận hợp pháp (de facto), nhưng là nguồn luật trong thực tế (de jure). Tuy nhiên, sự ảnh hưởng này tới các thuộc địa Pháp lại không hoàn toàn như vậy. Nguyên tắc này dường như mất đi khi tại Việt Nam, án lệ được hình thành qua Hội đồng thẩm định án lệ và ra quyết định bằng văn bản, ghi nhận bằng văn bản án lệ được chọn và các án lệ đã được công bố dường như chỉ một lần nữa khẳng định lại các văn bản hướng dẫn luật đã ban hành trước đó. Các học thuyết pháp lý Các học thuyết pháp lý là toàn bộ các công trình nghiên cứu của các học giả, các ý kiến, các bài viết liên quan đến luật. Các công trình nghiên cứu có hình thức và nội dung đa dạng của các giáo sư luật, các thẩm phán và các nhà thực hành luật (luật sư, trọng tài viên ) Trước khi có luật thành văn, các học thuyết pháp lý ra đời từ các trường đại học là nguồn quan trọng nhất của Civil Law. Các học thuyết pháp lý tạo ra các nguồn, các thuật ngữ, các khái niệm pháp lý (mà các nhà lập pháp buộc phải sử dụng), các phương pháp tiếp cận khoa học pháp lý và phát triển văn hoá pháp lý. Học thuyết pháp lý có thể gợi ý cho các nhà lập pháp các cách giải thích luật phù hợp với nhu cầu mới của xã hội. 7Nguyễn Văn Nam (n 4) 218. 15
  19. Các nguyên tắc chung của pháp luật Các nguyên tắc chung của pháp luật là các nguyên tắc pháp lý được chấp nhận trong luật quốc gia của hầu hết các nước. Ví dụ: non bis in idem (không xét xử 2 lần), nemo judex in propria causa (không ai tham gia tố tụng trong vụ việc của chính mình), 2. Vị trí vai trò Tòa án Thẩm quyền của Tòa án quyết định vai trò của Tòa án. Mức độ giải thích pháp luật, thẩm quyền không áp dụng luật, thẩm quyền tạo án lệ, quyết định vai trò rộng hay hẹp của Tòa án. Ví dụ: Ở Việt Nam, khi thẩm phán nhận thấy luật áp dụng không phù hợp, thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ vụ án, đợi quyết định xem xét tính hợp hiến, hợp pháp từ cơ quan lập hoặc hành pháp. Tại Hoa Kì, thẩm phán có quyền không áp dụng văn bản pháp luật đó. Điều này cộng với quy tắc tiền lệ dẫn đến vô hiệu hóa văn bản pháp luật trên 3. Cách thức tổ chức Tòa án Do trong truyền thống civil law có phân chia luật công- tư và những nước ở châu Âu đều tổ chức nhà nước theo lý thuyết phân quyền. Từ đó dẫn đến việc tách biệt giữa tòa án hành chính với các tòa án tư pháp, quyền xét xử tư pháp là quyền xét xử đặc biệt và luôn luôn tách biệt với các quyền hành chính. Từ đó dẫn đến có 2 mô hình của Pháp và Đức: Tài phán hành chính sẽ do một cơ quan nằm trong hệ thống hành chính, nhưng độc lập với cơ quan quản lý hành chính, ở cấp trung ương có thêm chức năng tư vấn cho Chính phủ - đó chính là mô hình của Hội đồng Nhà nước và các tòa án hành chính của Pháp. Còn Đức xây dựng mô hình tòa án hành chính độc lập tồn tại song song với hệ thống tòa án thường. 16
  20. Ví dụ: Ở Indonesia có tòa án hình chính độc lập với hệ thống tòa án, hoặc tòa án hành chính tại Thái Lan 4. Tính chất pháp điển hóa Việc pháp điển hoá ở Pháp đã trở thành mẫu mực cho hệ thống pháp luật châu Âu lục địa (Tiêu biểu là Bộ luật Napoleon 1804). Tuy nhiên, pháp điển hoá cũng bộc lộ những hậu quả tiêu cực, làm xuất hiện trường phái luật học thực chứng. Ví dụ: Trước đây ở Việt Nam chỉ thừa nhận pháp luật thành văn là nguồn luật duy nhất. Chủ nghĩa luật học thực chứng phủ nhận vai trò của luật tự nhiên và đánh giá quá cao vai trò của pháp điển hoá, cho rằng trong hệ thống pháp luật chỉ có các văn bản pháp luật mới có thể được coi là nguồn luật8. Ở chiều ngược lại, do coi trọng pháp luật thành văn cùng tư duy khái quát, diễn dịch, vấn đề pháp điển hóa, phân định các chuyên ngành luật vô cùng được chú trọng ở các quốc gia theo truyền thống civil law. Các quốc gia theo civil law có các văn bản pháp luật cập nhật liên tục, xác định rõ tất cả các vấn đề có thể được đưa ra trước tòa án, thủ tục áp dụng và hình phạt thích đáng cho mỗi hành vi phạm tội. Trong hệ thống luật dân sự, vai trò của thẩm phán là xác định các sự kiện của vụ án và áp dụng các điều khoản của bộ luật áp dụng. Mặc dù thẩm phán thường điều tra vấn đề và đưa ra quyết định chính thức về vụ án, họ làm việc trong một khuôn khổ được thiết lập bởi một bộ quy tắc pháp luật toàn diện. Quyết định của thẩm phán do đó ít quan trọng hơn trong việc hình thành luật dân sự hơn là các quyết định của các nhà lập pháp và các học giả pháp luật, người dự thảo và giải thích các quy tắc.9 8 Phục hồi pháp điển hóa. Truy cập: v%E1%BB%81-civil-law/ 9 Civil law and common law tradition 17
  21. 5. Phân chia luật công luật tư Luật công Quy phạm luật công mang tính tổng quát Đối tượng hướng tới của luật công là lợi ích công Phương pháp điều chỉnh của luật công là mệnh lệnh, thể hiện ý chí đơn phương. Luật công mang tính bất bình đẳng, trong đó các cơ quan nhà nước có đặc quyền Luật tư Luật tư là luật điều chỉnh mối quan hệ giữa các tư nhân. Đối tượng hướng tới của luật tư là lợi ích tư, với phương pháp điều chỉnh chính là thoả thuận ý chí. Lý do phân chia luật công và luật tư Quan hệ giữa cơ quan công quyền và người dân là quan hệ đặc thù, đòi hỏi một sự điều chỉnh khác. Mối quan hệ giữa người bị trị và người cai trị khác với mối quan hệ giữa các nhân với nhau. Lợi ích chung và lợi ích riêng không thể nằm trên một bàn cân được Cách phân xử và hệ quả của việc phân xử này cũng khác nhau. Ví dụ, ở Pháp, nguyên tắc “jurisprudence constante” đề trên chỉ áp dụng cho án lệ trong lĩnh vực dân luật. Vì những đặc thù riêng của ngành luật, án lệ trong pháp luật hành chính nước Pháp không theo nguyên tắc này. V. Nguyên nhân ảnh hưởng của Civil Law đến các quốc gia ASEAN Lịch sử 18
  22. Công cuộc thôn tính Đông Nam á của thực dân châu Âu diễn ra khá dài, trong gần 4 thế kỷ. Bắt đầu từ đặt các hiệu buôn đầu tiên vào thế kỷ 16, sau đó là các cuộc chinh phục với nhiều thủ đoạn khác nhau đến cuối thế kỷ 19, thực dân châu âu đã hoàn tất công cuộc xâm lược các nước đông nam á. Các quốc gia đông nam á, từ những nước phong kiến độc lập hoặc tiền phong kiến đã bị thực dân phương tây biến thành thuộc địa. Cuộc cạnh tranh giành thuộc địa diễn ra rất sôi động trong chính các nước thực dân, có nước ở lại và có nước rời khỏi khu vực này hoặc phân nhượng thuộc địa cho nhau. Cuối cùng, thực dân Hà Lan độc chiếm Indonexia, thành lập Đông Ấn Hà Lan. Thực dân Anh làm chủ bán đảo Mã Lai, Sarawak và Sabah ( 2 bang của Liên bang Malaysia sau này); chiếm Miến Điện. Bồ Đào Nha là nước thực dân đến khu vực sớm nhất nhưng do yếu thế nên phải nhường những vùng đất đã chiếm được cho Anh và Hà Lan, họ chỉ kiểm soát được Đông Timor và một vài đảo nhỏ. Tây Ban Nha dù được Giáo hoàng phân công đi về hướng tây và thực tế họ chiếm được khá nhiều vùng đất ở châu Mỹ cũng nhanh chân nhảy vào Đông Nam Á. Họ chiếm được Phi líp pin mặc dù phải giao tranh với thực dân Bồ Đào Nha. Tuy nhiên, sau chiến tranh Tây Ban Nha – Hoa Kỳ và sự ra đời của Hiệp định Paris 1898, Tây Ban Nha nhượng quần đảo cho Hoa Kỳ với giá 20 triệu đô la. Bán đảo Đông Dương bị thực dân Pháp chiếm trọn một cách thuận lợi do nhà Nguyễn đã suy yếu, quân đội đã bị tụt hậu so với quân viễn chinh Pháp. Đông Nam Á chỉ còn Xiêm là cơ bản giữ được độc lập nhưng cũng phải ký các hiệp ước bất bình đẳng với các nước thực dân phương tây. Vì sao hệ thống civil law ảnh hưởng đến Đông Nam Á 19
  23. Civil law ảnh hưởng đến các quốc gia này theo hai cách, đó là tự tiếp nhận và bị áp đặt. Trường hợp tự tiếp nhận diễn ra tại Thái Lan với triều vua Rama V đã canh tân đất nước theo đường lối phương Tây, cải cách bộ máy nhà nước và cử người sang châu Âu học tuy nhiên ảnh hưởng của Pháp ở giai đoạn đầu lớn do vị vua tiền Vua Rama IV khá thân thiết với Pháp, Pháp là nước thực dân đầu tiên tiến vào được Thái Lan. Mặc dù sau này, các quốc gia Anh, Mỹ tiến vào Thái Lan nhưng Thái Lan vẫn giữ các quan hệ về kinh tế chủ đạo với các nước châu Âu lục địa nên đã xây dựng pháp luật của mình theo hệ thống Civil Law. Hàng loạt các bộ luật của Thái Lan đã được ban hành theo mô hỉnh pháp luật cùa các nước châu Âu lục địa. Trong đó, đáng chú ý là bốn bộ luật lớn: Bộ luật hình sự năm 1908, Bộ luật dân sự và thưong mại năm 1925; Bộ luật tố tụng dân sự năm 1933, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1935. Đó là những bộ luật được xây dựng trên cơ sở lựa chọn những đặc điểm của pháp luật phương Tây và sửa đôi cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của Thái Lan Ở Indonesia, sự tiếp nhận của civil law bị áp đặt khi viên toàn quyền Daendels thực hiện cải cách hành chính tại đây. Indonesia bị chia thành 9 khu, mỗi khu có một trưởng khu đứng đầu và chịu trách nhiệm trực tiếp dưới chính quyền trung ương, các thủ lĩnh người bản xứ được trờ thành nhân viên công vụ của Hà Lan, được phong hàm và trả lương. Hệ thống tòa án được chia làm 2, tòa án cho người bản xứ bao gồm 1 nhóm thẩm phán bản xứ, chủ tọa người Hà Lan và tòa án cho người nước ngoài (những người không phải người bản xứ). Sự can thiệp mạnh của chính quyền trung ương vào cách quản lý hành chính và việc cải cách hệ thống tòa án đã làm làm hệ thống pháp luật 20
  24. ở đây bị ảnh hưởng bởi civil law. Điều này cũng xảy ra tương tự với Đông Dương thuộc Pháp. Ví dụ: Điều thứ nhất của Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật tuyên bố: “Luật nầy cốt để minh định và tuyên bố cho công chúng biết các thể lệ về hộ luật từ nay về sau các tòa Nam án sẽ phải tuân theo. Thể lệ nầy đều theo đại ý những chế độ cốt yếu của Nước ta, chỉ có châm chước sửa sang lại cho thích hiệp với phong tục đã thay đổi và hiện tình xã hội của dân ta. Thể lệ nầy sau khi đã đồng ý với quan Toàn Quyền Đông Pháp (thay mặt Đại Pháp Dân Quốc là nước bảo hộ của nước Nam) sẽ ban bố thi hành cho quốc dân ta. Luật nầy sau khi ban bố sẽ đăng vào Trung Kỳ Công báo. Nam Triều Quốc ngữ công báo và một tháng sau khi đã đăng báo xong luật nầy rồi thời sẽ bắt đầu thi hành, trừ khi nào có điều lệ định khác thời không kể. Khi nào các bản luật (bản Pháp tự, bản Hán tự và bản quốc ngữ) hoặc có khác nhau thời chỉ lấy bản Pháp tự làm chuẩn đích”. Vậy, thực chất pháp luật Việt Nam chuyển kiểu loại theo truyền thống Civil Law; và thứ hai, pháp luật đều do người Pháp soạn thảo và ban hành.10 Ngoài ra, sự xuất hiện của các thành thị, ở đây là kiểu thành thị của châu Âu. Văn hóa Đông Nam Á trước đây gắn liền với văn hóa lúa nước, văn hóa làng mạc nên thành thị dù có xuất hiện nhưng cũng chỉ là trung tâm chính trị dùng để cai quản một vùng nông thôn bao gồm nhiều làng mạc chứ không là trung tâm kinh tế. Ở nông thôn trong thời kỳ thuộc địa, các làng mạc có sự mở cửa, có liên kết trao đổi hàng hóa bằng tiền. Làng mạc không đóng 10 Tham khảo: Sự ảnh hưởng của luật Pháp tới Việt Nam, PGS.TS Ngô Huy Cương. Truy cập: 21
  25. kín, làng nào tự biết làng đó, tự cung tự cấp nữa .Từ đó dẫn đến có nền kinh tế hàng hóa. Các giá trị của phương Tây như tự do cá nhân, bình đẳng, dân chủ được truyền bá sang Đông Nam Á Sự thay đổi này tạo ra các quan hệ xã hội mới mà pháp luật bản xứ không thể điều chỉnh được, từ đó pháp luật của chính quốc được du nhập sang. Khi giành được độc lập, đuổi người châu Âu ra khỏi đất nước thì lúc này nền văn hóa cũng đã thay đổi, không còn phương thức sản xuất châu Á nữa mà đã chuyển sang guồng máy chung của thế giới. Từ đó, các quốc gia ở Đông Nam Á tự nguyện tiếp nhận các yếu tố của pháp luật châu Âu ( thường là của các quốc gia đã từng nô dịch họ) để có thể quản lý xã hội, xã hội này khác xa với xã hội phong kiến trước kia. CHƯƠNG 2: Thực tiễn hệ thống pháp luật các quốc gia chịu ảnh hưởng của Civil Law I. Việt Nam 1. Triết lý pháp luật của Việt Nam Việt Nam là một nước XHCN nên bị ảnh hưởng từ hệ thống pháp luật XHCN trước đây, hệ thống pháp luật cua những nước thuộc phe xã hội chủ nghĩa trước đây nằm trong hệ Civil law. Chúng vẫn giữ được những, yếu tố của hệ Civil Law như các hệ thống khái niệm, lý luận. Hệ tư tưởng Marx- Lenin đã chi phối pháp luật Việt Nam, đặc biệt là trong các lĩnh vực luật công. Theo đó pháp luật phản ánh ý chí của giai cấp thống trị. Ở Việt Nam giai cấp lãnh đạo là giai cấp công nhân với Đảng Cộng Sản là đội tiên phòng, đại diện cho lợi ích và ý chí của nhân dân lao động. Trong quá trình cải cách từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường đòi hỏi Việt Nam phải xây dựng các bộ luật mới để điều chỉnh các 22
  26. quan hệ tư do trước đây, nền khoa học pháp lý của Liên Xô và các nước XHCN đã thu hẹp các quan hệ tư lại nên nhìn chung, luật tư ở Việt Nam kém phát triển. Để cải cách, các nhà lập pháp Việt Nam đã chọn cách vay mượn pháp luật từ nước ngoài. Đó là các nước có hệ thống pháp luật có điểm chung với Việt Nam ví dụ như Pháp, Nhật Bản. 2. Nguồn của pháp luật: Nguồn của pháp luật Việt Nam bao gồm: Luật thành văn Điều ước quốc tế Tập quán Án lệ 3. Tổ chức tòa án: Tòa án nhân dân Việt Nam gồm bốn cấp: Tòa án nhân dân tối cao; các Tòa án nhân dân cấp cao; các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; các Toà án quân sự. Mặc dù có sự phân chia giữa công và tư pháp nhưng ở Việt Nam, Tòa hành chính lại nằm trong các Tòa án nhân dân. Một điểm đặc biệt nữa là từ trước năm 2003, thẩm quyền quản lý các tòa án địa phương thuộc về Bộ Tư pháp, sau đó Bộ Tư pháp có văn bản ủy quyền cho Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh thực hiện công tác quản lý về mặt tổ chức đối với Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Việt Nam không có Tòa án hiến pháp và Tòa án hành chính nằm trong hệ thống Tòa án nhân dân a. Tòa án nhân dân tối cao 23
  27. Tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao bao gồm Hội đồng thẩm phán và bộ máy giúp việc. Theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao không thực hiện nhiệm vụ xét xử phúc thẩm mà chỉ thực hiện nhiệm vụ giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác. Tòa này xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm 5 Thẩm phán hoặc Hội đồng toàn thể Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là quyết định cao nhất, không bị kháng nghị b. Tòa án nhân dân cấp cao Trong tòa án nhân dân cấp cao được chia thành các tòa án chuyên trách: Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa gia đình và người chưa thành niên Tòa án nhân dân cấp cao có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị; giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Toà án thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị bằng Hội đồng 3 Thẩm phán hoặc Hội đồng toàn thể Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao. c. Tòa án nhân dân cấp tỉnh Trong tòa án nhân dân cấp tỉnh có thể chia thành các tòa chuyên trách: Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa gia đình và người chưa thành niên. Điều kiện về thành lập tòa chuyên trách được hướng dẫn tại thông tư 01/2016/TT-CA của TANDTC, đó là: Số lượng vụ việc mà Tòa án thụ lý, giải quyết thuộc thẩm quyền của Tòa chuyên trách 24
  28. theo quy định tại Điều 3 Thông tư này phải từ 50 vụ/năm trở lên, phải đảm đủ biên chế cho tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền: Xét xử Sơ thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật. Phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật. d. Tòa án nhân dân cấp huyện Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm và giải quyết các vụ việc khác theo quy định của pháp luật. Điều kiện về thành lập tòa chuyên trách giống như Tòa án nhân dân cấp tỉnh 4. Đào tạo luật ở Việt Nam Để có bằng cử nhân luật thì học viên không nhất thiết phải có một bằng cử nhân khác mà chỉ cần đã tốt nghiệp trung học phổ thông, thi tuyển và hoàn thành chương trình đào tạo tại một cơ sở đào tạo luật. Trong chương trình đào tạo, sinh viên sẽ được cung cấp các khái niệm, hệ thống lý luận của khoa học pháp lý và các kiến thức cơ bản về chủ nghĩa Marx-Lenin. Việc sử dụng tình huống (case study) trong chương trình học còn hạn chế và chủ yếu ở là phân tích, diễn giải các quy phạm pháp luật. Sau khi có được bằng cử nhân luật, nếu muốn trở thành người hoạt động trong ngành tư pháp thì phải tiếp tục đi học. Xét về mặt pháp lý, Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 đã đưa ra những tiêu chuẩn chung để trở thành thẩm phán bao gồm: Có trình độ cử nhân luật trở lên. Đã được đào tạo nghiệp vụ xét xử. 25
  29. Có thời gian làm công tác thực tiễn pháp luật. Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nghĩa vụ được giao. Trên thực tế, thời gian thực tiễn pháp luật thường được xem là thời gian mà ứng viên thẩm phán làm thư ký Tòa án. Thông thường trước khi có thể chính thức được bổ nhiệm làm thẩm phán, phần lớn họ trước đó đã có nhiều năm làm việc ở vị trí thư ký Tòa án và họ hiểu rõ cũng như nắm được trình tự thủ tục tố tụng. Sau một thời gian làm Thư ký Tòa án, ứng viên sẽ được cử đi học lớp Bồi dưỡng nghiệp vụ xét xử ( thời gian một năm) và sau đó sẽ được bổ nhiệm làm thẩm phán. Để trở thành luật sư, sau khi có bằng cử nhân luật, học viên tiếp tục học lớp đào tạo luật sư (thời gian một năm) tại học viện tư pháp. Sau đó thêm một năm tập sự tại một văn phòng luật sư trước khi thi đỗ và được cấp thẻ, gia nhập liên đoàn luật sư. II. Lào 1. Triết lý pháp luật của Lào Lào được thừa hưởng một hệ thống pháp luật dựa trên Civil Law từ các nhà quản lý thuộc địa Pháp. Các bộ luật dân sự ban đầu đã dung nạp và đưa luật tục Lào vào. Sau khi giành độc lập, luật pháp Lào vẫn chưa được phát triển cho đến đầu những năm 1990 - kể từ đó, kế hoạch đầy tham vọng của Lào để phát triển và sửa đổi luật pháp đã chứng kiến ít nhất 120 luật mới hoặc hiện đại hóa, theo trang web của Bộ Tư pháp Lào. Các luật sửa đổi tuân theo các hình thức và cách tiếp cận điển hình của Civil Law, nhưng chịu ảnh hưởng của học thuyết Marx-Lenin và kinh nghiệm xây dựng pháp luật của 26
  30. Việt Nam. Luật tục được các dân tộc Lào thực hiện rộng rãi, nhưng không được chính thức công nhận là một phần của pháp luật. 2. Tổ chức tòa án Hệ thống tổ chức nhà nước, pháp luật của Lào nhìn chung khá giống với Việt Nam. Các cơ quan tư pháp của Lào gồm: Bộ Tư pháp, Toà án các cấp và Viện Kiểm sát nhân dân các cấp. Những ảnh hưởng của hệ thống civil law: Đề cao cơ sở luật thành văn (Toà án khi xét xử tuân theo pháp luật (điều 1 Luật TAND Lào11)) Thẩm quyền của Tòa án hẹp, không có các điều khoản về thẩm quyền đưa ra án lệ 12. Tuy nhiên, nguyên tắc bất khẳng thụ lý và tôn trọng tiền lệ cũng được nhấn mạnh (điều 5) Các tính chất pháp điển hóa, coi trọng luật nội dung, phân chia luật công luật tư rõ ràng cũng được thể hiện sâu sắc Ngoài ra, hệ thống Toà án của Lào chia theo địa hạt hành chính gồm có Toà án nhân dân tối cao và toà án nhân dân địa phương (địa án tỉnh, quận, huyện, toà án ở một số khu vực đặc biệt), toà án quân sự và có Viện kiểm sát, khá giống với cách tổ chức ở Việt Nam. 11 rt.pdf 12 Tuy nhiên, có rất nhiều điều khoản quy định thẩm quyền của TAND mang tính chất giáo dục, bảo vệ thể chế, (Điều 2 Luật TAND Lào), link đã dẫn 27
  31. III. Campuchia 1. Triết lý pháp luật của Campuchia Hệ thống pháp luật Campuchia chủ yếu dựa trên hệ thống pháp luật của Pháp. Hiến pháp là Luật tối cao. Hệ thống luật pháp đã phát triển từ luật tục trong thời kỳ Angkor, đến thành văn dưới thời thực dân Pháp từ 1863 đến 1953 và cho đến năm 1975. Dưới thời Khmer Đỏ, từ 1975 đến 1979, toàn bộ hệ thống luật pháp Campuchia đã bị phá hủy hoàn toàn. Sau khi Việt Nam đóng quân tại Campuchia năm 1979, khung pháp lý Campuchia chịu ảnh hưởng của hệ thống Việt Nam. Trong sự hiện diện của Cơ quan Chuyển tiếp Liên Hợp Quốc tại Campuchia (UNTAC) từ năm 1991 đến năm 1993, một số luật đã được ban hành - bao gồm luật hình sự, luật tư pháp và luật báo chí. Do kết quả của sự trợ giúp pháp lý nước ngoài đối với cải cách pháp luật và tư pháp trong nước, hệ thống Campuchia cũng tiếp thu pháp luật nước ngoài. Do đó, hệ thống pháp luật hiện tại là một hệ thống lai của tất cả những ảnh hưởng này. 2. Nguồn luật Hệ thống pháp luật Campuchia chủ yếu dựa trên luật thành văn được thông qua bởi cơ quan lập pháp. Nguồn luật ở Campuchia có thể được phân loại thành nguồn chính và nguồn thứ cấp. Các nguồn chính bao gồm các luật chính thức được ban hành bởi các cơ quan nhà nước. Luật quốc tế cũng là một nguồn không thể thiếu của luật pháp Campuchia: vì vậy từ 'luật' ở Campuchia có thể có nghĩa là cả luật pháp trong nước và quốc tế. Nguồn thứ cấp bao gồm phong tục, truyền thống, học thuyết và các án lệ. 28
  32. 3. Tổ chức tòa án a. Tòa án cấp sơ thẩm Tòa án cấp sơ thẩm là Tòa án xét xử đầu tiên và được tạo ra bởi Nghị định Hoàng gia và nằm trong Thủ đô và các tỉnh. Tòa án cấp sơ thẩm được chia thành các Tòa chuyên trách như Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa án thương mại và Tòa án Lao động. “Tuy nhiên, trong thực tế, vì số lượng nếu các thẩm phán rất hạn chế, vẫn không có sự tách biệt rõ ràng giữa các bộ phận. Một thẩm phán có thể xử lý cả vụ án dân sự và hình sự.”13 Trong tòa án cấp cơ thẩm được chia ra làm 2 tòa chính là tòa sơ thẩm dân sự và tòa sơ thẩm hình sự. Mặc dù trong luật chuyên ngành có quy định về tòa Tòa án thương mại và Tòa án Lao động, nhưng thực tế 2 tòa này chưa bao giờ được thành lập. Điều 55 của Luật về các quy định thương mại và đăng ký thương mại của Campuchia và Điều 389 của Bộ luật lao động 1997 Campuchia đã trao thẩm quyền xét xử về lao động và thương mại cho tòa dân sự. b. Tòa phúc thẩm Tòa phúc thẩm bao gồm Tòa phúc thẩm ở Phnom Penh và Tòa phúc thẩm khu vực được thành lập theo Nghị định Hoàng gia. Theo luật, Tòa phúc thẩm bao gồm Phòng hình sự; Phòng dân sự; Phòng điều tra; Phòng thương mại; Lao động và các phòng chuyên môn khác sẽ được tạo ra bởi Nghị định Hoàng gia khi cần thiết. Mỗi Phòng thực hiện phán quyết trong phạm vi thẩm quyền tài phán của mình, nhân danh Tòa án cấp phúc thẩm mà nó thuộc về. Mỗi Phòng, khi xét xử các vụ án, sẽ bao gồm ba Thẩm phán. Trong trường hợp một vụ án được Tòa án tối cao chuyển lại, Tòa phúc thẩm sẽ xét xử vụ án 13 Introduction to the Cambodian Judicial Process“ of Koy Neam The Asia foundation, 1998 29
  33. với năm Thẩm phán. Tòa phúc thẩm xem xét cả Ang Het (fact) và Ang Chbab (law). Tòa án cấp phúc thẩm có thẩm quyền xét xử tất cả các vụ án trong phạm vi lãnh thổ. Phòng tổng hợp Phòng tổng hợp trong Tòa án phúc thẩm có thể được tạo ra bởi Chủ tịch Tòa phúc thẩm để xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của nhiều phòng hoặc nếu vụ việc dẫn đến xung đột về thẩm quyền giữa các Phòng khác nhau của cùng Tòa án phúc thẩm. Phòng tổng hợp bao gồm ít nhất năm Thẩm phán và quyết định của Phòng tổng hợp có ràng buộc đối với tất cả các phòng theo dõi. Chủ tịch Tòa phúc thẩm sẽ ra phán quyết theo quyết định của Phòng tổng hợp. c. Tòa án Tối cao Tòa án tối cao là Tòa án cao nhất ở Campuchia và nằm ở thủ đô Phnom Penh. Nó có thẩm quyền xét xử tất cả các vụ án trong phạm vi quyền tài phán lãnh thổ của mình. Tòa án Tối cao có thẩm quyền, với tư cách là Tòa án sơ thẩm và chung thẩm thẩm, đối với các vụ kiện do Bộ Nội vụ đệ trình trong trường hợp phát hiện ra rằng một đảng chính trị đã phạm tội nghiêm trọng. Theo luật, Tòa án tối cao bao gồm Phòng hình sự; Phòng dân sự; Phòng thương mại; Lao động và các phòng chuyên môn khác sẽ được tạo ra bởi Nghị định Hoàng gia khi cần thiết. Mỗi Phòng thực hiện phán quyết trong phạm vi thẩm quyền tài phán của mình, nhân danh Tòa án Tối cao. Mỗi Phòng, khi xét xử các vụ án, sẽ bao gồm năm thẩm phán. d. Hội đồng Hiến pháp Hội đồng Hiến pháp có nhiệm vụ bảo vệ sự tôn trọng Hiến pháp, giải thích Hiến pháp và pháp luật được Quốc hội thông qua, và có thẩm quyền giải quyết tranh chấp liên quan đến bầu cử Quốc hội và bầu cử các thành viên của 30
  34. Thượng viện. Hiến pháp quy định rằng Hội đồng Hiến pháp bao gồm chín thành viên với nhiệm kỳ chín năm. 3 thành viên được Vua bổ nhiệm; 3 thành viên của Quốc hội và 3 người khác do Hội đồng thẩm phán tối cao bổ nhiệm. Sau khi ban hành bất kỳ luật nào, Quốc vương, Chủ tịch Thượng viện, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, 1/4 số thành viên của Thượng viện, 1/10 số thành viên của Quốc hội hoặc Tòa án có thể yêu cầu Hội đồng Hiến pháp xem xét tính hợp hiến của luật đó. Công dân có quyền kháng cáo về tính hợp hiến của bất kỳ luật nào thông qua đại diện hoặc Chủ tịch Quốc hội hoặc thành viên của Thượng viện hoặc Chủ tịch Thượng viện. IV. Indonesia 1. Triết lý pháp luật Triết lý pháp luật của Indonesia là: “thống nhất trong đa dạng”. Sự hiện diện của Hà Lan và sự chiếm đóng Indonesia sau 350 năm đã để lại di sản là một nền pháp luật, phần lớn là trong các lĩnh vực luật tư ở Indonesia. Sau khi giành được độc lập vào năm 1945, Indonesia bắt đầu hình thành luật pháp Indonesia hiện đại của riêng mình, không phát triển nó từ đầu, mà sửa đổi các luật hiện hành. Nhiều đạo luật của Indonesia được xây dựng dựa vào luật của Hà Lan, chẳng hạn pháp luật thương mại của Indonesia chịu ảnh hưởng rất lớn từ Bộ luật thương mại năm 1847 của Hà Lan14. Các quyết định pháp lý của Hà Lan duy trì một số thẩm quyền ở Indonesia thông qua việc nó vẫn còn phù hợp với nguyên tắc chung của nhà cầm quyền. Ba thành tố của pháp luật Indonesia bao gồm: Luật adat( luật tục), pháp luật được xây dựng trên nền tảng luật của Hà Lan và pháp luật Indonesia thời hiện đại. 14 Nguyễn Quốc Hoàn, Tổng quan về hệ thống pháp luật các nước Asean, Tạp chí Luật học số 12/2009 31
  35. 2. Nguồn luật Các nguồn chính thức của pháp luật có thể được mô tả như sau Luật thành văn Tập quán Án lệ Điều ước quốc tế Học thuyết pháp lý a. Luật thành văn Từ các hình thức của nó, pháp luật có thể được phân biệt thành Hiến pháp Nghị quyết của Quốc hội Các đạo luật Quy định của chính phủ thay thế cho đạo luật Quy định dưới luật của chính phủ Quy định dưới luật của tổng thống Quy định dưới luật của cấp tỉnh Quy định dưới luật của cấp thành huyện b. Tập quán Tập quán là những chuẩn mực được xã hội tuân thủ mà không được chính phủ quy định. Để một Tập quán để trở thành luật áp dụng và được thừa nhận là nguồn như luật, cần phải đáp ứng các yêu cầu sau: Một hành động hoặc nhóm hành động của một người hoặc một nhóm được thực hiện nhiều lần trong cùng một vấn đề. 32
  36. Các quy tắc như vậy được phát triển phải có giá trị tốt, không trái luật, được nhiều người tuân theo và có sức mạnh rằng buộc. c. Án lệ Án lệ là quyết định của các thẩm phán được theo dõi và sử dụng như hướng dẫn như thẩm phán trong việc quyết định các trường hợp tương tự. d. Điều ước quốc tế e. Học thuyết pháp lý Đây là ý kiến của các chuyên gia và học giả pháp lý đáng kính. Các thẩm phán thường sử dụng học thuyết pháp lý trong việc đưa ra các quyết định của mình mà sau đó được gọi là Án lệ. 3. Tổ chức toàn án Quyền tư pháp ở Indonesia được quy định theo điều 24 của Hiến pháp quy định quyền lực tư pháp sẽ được Tòa án tối cao và Tòa án hiến pháp thực hiện. Ngoài ra, điều 24 B của Hiến pháp cũng quy định sự hiện diện của Ủy ban Tư pháp độc lập về bản chất và có thẩm quyền bổ nhiệm các Thẩm phán Tòa án Tối cao và có các cơ quan khác để bảo vệ và giữ vững danh dự , nhân phẩm và hành vi của thẩm phán. Tòa án hiến pháp nằm ở thành phố thủ đô, và không có bất kỳ mối quan hệ thứ bậc nào với Tòa án tối cao. Tòa án hiến pháp có 9 thẩm phán. Hệ thống tòa án được thành lập dựa trên bốn trụ cột, đó là Tòa án có thẩm quyền chung, Tòa án tôn giáo, Tòa án hành chính nhà nước và Tòa án quân sự. Tòa án có thẩm quyền chung có thẩm quyền đối với các vấn đề hình sự và dân sự nói chung đối với người dân, bao gồm luật gia đình đối với người không theo đạo Hồi. Đặc biệt ở tỉnh Aceh, các vấn đề hình sự thuộc về 33
  37. Mahkamah Syari’ah ( tòa án đặc biệt dựa trên luật Hồi giáo) hoặc tòa án tôn giáo, mà ở các khu vực khác các tòa này chỉ có thẩm quyền đối với các vấn đề dân sự. Dưới Tòa án có thẩm quyền chung, các tòa chuyên trách đã được thành lập, cụ thể là Tòa án thương mại, Tòa án chống tham nhũng, Tòa án thủy sản, Tòa án nhân quyền và Tòa án quan hệ công nghiệp. Tòa án thương mại nằm ở 5 địa điểm, và có thẩm quyền đối với các vụ kiện phá sản và sở hữu trí tuệ. Tòa án chống tham nhũng nằm trong Tòa án huyện của thủ phủ của một tỉnh, và có thẩm quyền đối với hành vi tội phạm tham nhũng. Tòa án Thủy sản có thẩm quyền đối với hành vi tội phạm nghề cá. Tòa án Nhân quyền có thẩm quyền xét xử vi phạm thô bạo về quyền con người và nằm ở Thủ đô. Ngoài ra, theo Đạo luật số 14 năm 2002, còn có Tòa án Thuế có thẩm quyền xét xử và quyết định các trường hợp kháng cáo quyết định của Văn phòng Thuế về tranh chấp Thuế, Văn phòng Thuế nằm ở thủ phủ của tỉnh. Tòa án tôn giáo có thẩm quyền về tranh chấp gia đình đối với công dân Hồi giáo, bao gồm tranh chấp về ly hôn, thừa kế và quyền nuôi con. Sau đó, theo Đạo luật số 21 năm 2008 về Ngân hàng Sharia (Hồi giáo), thẩm quyền của Tòa án tôn giáo đã được mở rộng hơn nữa để xử lý các vụ kiện về kinh tế. Tòa án hành chính nhà nước có thẩm quyền xét xử các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực hành chính nhà nước giữa cá nhân hoặc pháp nhân với cơ quan hoặc nhân viên hành chính nhà nước, ở trung ương hoặc địa phương. 34
  38. Tòa án hành chính còn giải quyết tranh chấp về việc làm của công chức theo quy định hiện hành. Tội ác của các thành viên của lực lượng vũ trang được xét xử trước Tòa án quân sự. Mỗi thẩm quyền của tòa án bao gồm phiên sơ thẩm và tòa phúc thẩm. Tòa án cấp sơ thẩm nằm ở các huyện, trong khi tòa phúc thẩm nằm ở thủ phủ của các tỉnh. 4. Đào tạo luật Ở Indonesia có hơn hai trăm cơ sờ đào tạo pháp luật khác nhau. Trong số đó có khoảng 90% là những cơ sở đào tạo thuộc các trường tư. Có rất ít các cơ sở đào tạo luật trường công lập ở Indonesia có đủ nguồn lực để đảm nhiệm các chương trình đào tạo sau đại học ở bậc học thạc sĩ và tiến sĩ luật. Giống như nhiều nước chịu ảnh hưởng của hệ thống Civil Law, điều kiện để đăng kí vào các khoá học đại học luật ở Indonesia không đòi hỏi người học phải cỏ bằng đại học khác. Điều đó có nghĩa là người có bằng phổ thông trung học có thể đăng kí học luật tại các cơ sở đào tạo luật ở Indonesia. Tuy nhiên, chương trình đào tạo đại học chỉ cung cấp những kiến thức chung về pháp luật có thể đáp ứng việc nghiên cứu ờ các bậc cao hơn chứ không chú trọng việc cung cấp kĩ năng thực hành nghề luật. Vì vậy, sau khi tốt nghiệp đại học luật, để có thể hành nghề luật các cử nhân luật thường phải tham gia các khoá đào tạo nghề luật. Từ quá trình cải cách sau sự sụp đổ của Trật tự mới vào năm 1998, ngành tư pháp đã trải qua một số cải cách quan trọng. Cải cách cơ bản nhất liên quan đến cách thức tổ chức đào tạo tư pháp là việc chuyển giao quyền kiểm soát 35
  39. hành chính đối với các tòa án từ cơ quan hành pháp sang cơ quan tư pháp, gọi là " hệ thống một mái nhà". Điều này dẫn đến những thay đổi về tổ chức và sau đó là bổ sung trách nhiệm Tòa án tối cao (Mahkamah Agung) . Dựa trên việc sửa đổi Hiến pháp (1999-2002), một Uỷ ban tư pháp (Komisi Yudisial) đã được thành lập. Ủy ban này sao đó đã được trao quyền để nâng cao năng lực của thẩm phán. Một người để trở thành một thẩm phán tại Indonesia cần phải trải qua khóa đào tạo tư pháp. Ngoài ra, có bằng cử nhân luật hoặc trình độ tương đương thường được yêu cầu để có thể trở thành một thẩm phán, ngoại trừ cho các vị trí tại các tòa án quan hệ lao động chỉ yêu cầu bằng cử nhân từ người nộp đơn. Bên cạnh các chương trình đào tạo tư pháp ban đầu, các chương trình đào tạo"chứng nhận" cho các ứng cử viên thẩm phán vụ việc người có thể không có nền tảng học vấn pháp lý, ví dụ, thẩm phán tòa án công nghiệp. thẩm phán vụ việc được yêu cầu phải trải qua chương trình đào tạo "chứng nhận" sau khi vượt qua kỳ thi tuyển. Học viên sẽ không chỉ đáp ứng yêu cầu học tập (bằng cử nhân luật- bằng cử nhân), mà còn là yêu cầu quốc tịch (người Indonesia), yêu cầu độ tuổi (25-40 tuổi), yêu cầu năng lực, một số yêu cầu nhân cách tốt (đạo đức, trung thành với Pancasila và Hiến pháp năm 1945, quyết đoán, trung thực, công bằng), và không có tiền án tiền sự. Ở Indonesia, điều kiện để trở thành luật sư là hoàn thành chương trình đào tạo tại một cơ sở đào tạo luật và hoàn thành chương trình đào tạo nghề được đoàn luật sư chấp nhận. Những người đang hành nghề luật sư có thể bị tước thẻ hành nghề luật sư nếu họ vi phạm các quy định của Luật luật sư và các quy định về đạo đức nghề nghiệp do đoàn luật sư ban hành. 36
  40. V. Thái Lan 1. Triết lý pháp luật Hệ thống pháp luật Thái Lan là hệ thống pháp luật khá phức tạp. Xét về mặt tổng thể, hệ thống pháp luật này có thể được xêp vào dòng họ Civil Law. Mặc dù, trong giai đoạn đau của lịch sử phát triển, nó chịu ảnh hưởng rất lớn bởi pháp luật Hindu nhưng về sau lại bị ảnh hưởng bởi hệ thống pháp luật Civil Law do phải cải cách để giao thương với phương Tây. Kết quả là một loạt các bộ luật được ban hành dựa trên dựa theo mô hình của các nước có hệ thống pháp luật Civil Law. Bên cạnh đó, tại miền nam Thái Lan còn tồn tại luật Hồi Giáo do khu vực này đông người Hồi Giáo sinh sống 2. Nguồn luật của Thái Lan: Pháp luật thành văn, bao gồm: Hiến pháp Thái Lan, Các đạo luật, sắc lệnh khẩn cấp hoặc tuyên bố của hoàng gia, các văn bản dưới luật Điều ước quốc tế Án lệ 3. Tổ chức tòa án Liên quan đến các đặc điểm nhất định, cấu trúc của tòa án được chia thành hai phần, hành chính và xét xử. Trước năm 2000, Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm về các công việc hành chính của tất cả các tòa án. Vai trò chính của Bộ Tư pháp là cung cấp hỗ trợ, bao gồm nhân sự và thiết bị văn phòng, cho các tòa án để tòa án có thể vận hành công việc của họ một cách hiệu quả. Hiện tại, Bộ Tư pháp được thay thế bởi Văn phòng Tòa án Tư pháp, một tổ chức độc lập và một cơ quan tài phán. Văn phòng đã thay thế nhiệm vụ trước đây của Bộ Tư pháp. Sự thay đổi này nảy sinh từ ý tưởng rằng Bộ Tư pháp với tư cách là người làm chính trị có thể can thiệp vào hệ thống tư pháp. Do 37
  41. đó, để ngăn chặn sự can thiệp chính trị, các chính trị gia các không nên tham gia vào các công việc hành chính của tòa án. Tòa án Công lý Thái Lan là hệ thống tòa án lớn nhất. Các cấp tòa án được bao gồm ba tầng: tòa sơ thẩm, tòa phúc thẩm, Tòa án tối cao Thái Lan. Hệ thống hiện tại có nguồn gốc từ hệ thống tòa án dưới triều đại của vua Rama V. a. Tổ chức của Tòa án công lý a.1. Tòa án cấp sơ thẩm Tòa án Công lý bao gồm các tòa án thẩm quyền chung (general courts) , tòa án vị thành niên và gia đình và các tòa án chuyên ngành. Tòa án chung là một tòa án bình thường có nhiệm vụ xét xử và xét xử các vụ án hình sự và dân sự. Riêng ở Băng- cốc là một khu vực hành chính đặc biệt nên tổ chức tòa án tại đây sẽ khác với các tỉnh khác. Tòa án có thẩm quyền chung (General Courts) Tại Băng-cốc Tòa dân: Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết các vụ án dân sự là Tòa án dân sự, Tòa án dân sự Nam Bangkok, Tòa án dân sự Thon Buri và Tòa án tỉnh Min Buri tùy thuộc vào nơi phát sinh nguyên nhân của vụ kiện hoặc bị đơn. Lý do để thành lập các tòa án dân sự khác ở Bangkok là để giảm bớt các sự quá tải của Tòa án dân sự Tòa hình:Tòa án Hình sự, Tòa án Hình sự Nam Bangkok, Tòa án Hình sự Thon Buri và Tòa án Tỉnh Min Buri tùy thuộc vào quận nơi một bị cáo trú, hoặc bị bắt giữ, hoặc nơi bắt đầu tiến hành một cuộc điều tra. Giống như Tòa án dân sự, lý do để thành lập các tòa án hình sự khác ở Bang- cốc là để giảm bớt các công trình quá tải của Tòa án hình sự 38
  42. Tòa án tỉnh Min Buri: Tòa án tỉnh Min Buri, tòa án tỉnh duy nhất ở Bangkok, giải quyết vụ việc phát sinh ở phía bắc Bangkok. Các đặc điểm của tòa án này giống như tòa án có thẩm quyền chung cấp tỉnh Tòa án Kwaeng: Tòa án Kwaeng giải quyết các vấn đề nhỏ và một thẩm phán xét xử với quyền hạn áp dụng hình phạt tù không quá sáu tháng hoặc phạt tiền không vượt quá 10.000 Baht. Khi có 2 thẩm phán cùng xét xử thì mức hình phạt được tăng lên. Quá trình tố tụng của Tòa án Kwaeng được được diễn ra nhanh chóng, vụ án được xét xử sơ thẩm và xét xử bằng phán quyết bằng miệng, hoặc phán quyết tóm tắt. Ở các tỉnh khác ngoài Băng- cốc Tòa án tỉnh: Các Tòa án tỉnh, xét xử cả vụ án hình sự và vụ án dân sự. Đối với mục đích mở rộng các dịch vụ của tòa án đến khu vực xa, một số tỉnh có thể có nhiều hơn một tòa án tỉnh. Trường hợp một vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án Kwaeng đưa ra tòa án tỉnh, Tòa án tỉnh phải chuyển vụ án cho Tòa án Kwaeng. Tòa án Kwaeng: Tòa án Kwaeng ở các tỉnh có thẩm quyền và đặc điểm giống như Tòa án Kwaeng ở Băng-cốc, nghĩa là tòa án chuyên xét xử các vụ việc nhỏ, với thủ tục tố tụng nhanh chóng Tòa gia đình và vị thành niên Tòa gia đình và vị thành niên bao gồm Tòa gia đình và vị thành niên Trung ương, Tòa gia đình và vị thành niên cấp tỉnh và Phòng Tòa án Gia đình và Vị thành niên trong Tòa án Tỉnh Tòa án có thẩm quyền đối với các vụ án có những yếu tố sau : vụ án hình sự có người trên 7 tuổi đến dưới 14, hoặc trên 14 và dưới 18 tuổi, bị cáo buộc 39
  43. hình sự; Vụ án hình sự được chuyển từ tòa án có thẩm quyền chung; Vụ án gia đình có liên quan đến trẻ vị thành niên; Tòa án đặc biệt Có bốn loại tòa án đặc biệt, đó là Tòa án Lao động, Tòa án Thuế, Sở hữu trí tuệ và Tòa án Thương mại Quốc tế và Tòa án Phá sản. Cần lưu ý rằng mỗi tòa án chuyên ngành chỉ có một Tòa án ở trung ương, ngoại trừ Tòa án Lao động ngoài nằm ở trung ương còn được phân bổ về nhiều tỉnh a.2. Tòa án cấp phúc thẩm Tòa án cấp phúc thẩm được chia thành 2 bên: Tòa án phúc thẩm và Tòa án phúc thẩm vùng. Tòa án phúc thẩm xử lý kháng cáo chống lại bản án hoặc lệnh của Tòa án dân sự và Tòa án hình sự. Trong khi đó, Tòa án phúc thẩm khu vực xử lý kháng cáo chống lại phán quyết hoặc lệnh của các Tòa án cấp sơ thẩm khác (ví dụ như tòa án Kwaeng). Trong một số trường hợp đặc biệt, các tòa án cấp phúc thẩm sẽ tiến hành xét xử sơ thẩm . Mỗi phiên xét xử sẽ bao gồm 3 thẩm phán. a.3. Tòa án tối cao Tòa án Tối cao là tòa án xét xử cuối cùng và xét xử phúc thẩm bản án của Tòa án cấp phúc thẩm hoặc bản án của Tòa án cấp sơ thẩm. Tòa án tối cao được chia thành các phòng để xử lý trường hợp cụ thể về dân sự, hình sự. b. Các Tòa án độc lập khác Bên cạnh hệ thống Tòa án Công lý, có 2 hệ thống tòa án đặc biệt trong tổ chức tòa án ở Thái Lan, độc lập với hệ thống Tòa án công lý b.1. Tòa án hiến pháp 40
  44. Tòa án hiến pháp Thái Lan được tổ chức theo hiến pháp 2017, bao gồm chín thẩm phán của Tòa án hiến pháp do nhà vua bổ nhiệm. Tòa án Hiến pháp có thẩm quyền: Xem xét và xét xử về tính hợp hiến của một luật hoặc dự luật; Xem xét và xét xử tranh chấp đến nhiệm vụ và quyền hạn của Hạ viện, Thượng viện, Quốc hội, Hội đồng Bộ trưởng hoặc Cơ quan độc lập; b.2. Tòa án hành chính Tòa án Hành chính có quyền tài phán đối với các tranh chấp hành chính giữa khu vực tư nhân và các cơ quan Nhà nước liên quan đến vấn đề lạm quyền của cơ quan Nhà nước đó. Theo đó, Đạo luật thành lập và thủ tục cho Tòa án hành chính B.E.2542 (1999) trao cho Tòa án hành chính quyền tài phán đối với các trường hợp như sau: Tranh chấp giữa cơ quan nhà nước với công dân Tranh chấp giữa các cơ quan nhà nước. 4. Đào tạo luật Chương trình đào tạo cử nhân luật tại các trường đạị học ở Thái Lan kéo dài trong bốn năm với 8 học kì. Điềú kiện chủ yếu để có thề được chấp nhận vào học các chương trình đại học Luật tại các trường đại học Thái Lan là tốt nghiệp phổ thông trung học hoặc có các bàng cấp tương đương. Ngoài ra, để có thể được tiếp nhận vào một số trường đại học công lập, người đăng kí học phải tham gia kì thi tuyển sinh do các trường tổ chức và phải đạt được một số điểm nhất định mới được tiếp nhận vào học. Sau khi hoàn thành chương trình đào tạo đại học, người đã tốt nghiệp đại học có thể theo học các chương trình sau đại học để lấy bàng thạc sĩ hoặc tiến sĩ luật. Có 2 cơ quan đào tạo tự pháp ở Thái Lan: 41
  45. Viện đào tạo tư pháp - Đào tạo thẩm phán Một ứng cử viên thẩm phán phải có các tiêu chí sau: Vượt qua kỳ thi tuyển sinh; Có quốc tịch Thái Lan; Có bằng luật; Vượt qua kỳ thi luật sư; Đã có kinh nghiệm làm việc ít nhất 2 năm trong nghề luật. Phòng phát triển và đào tạo – Đào tạo công tố Một ứng cử viên phải: Vượt qua kỳ thi tuyển sinh cho các công tố viên công do Văn phòng Tổng Chưởng lý tổ chức Có quốc tịch Thái Lan; Có bằng luật; Vượt qua kỳ thi của Đoàn luật sư Thái; Đã có kinh nghiệm làm việc ít nhất 2 năm trong nghề luật. Như vậy, có thể thấy được rằng điều kiện chung của công tố và thẩm phán ở Thái Lan là đã có kinh nghiệm 2 năm làm luật sư trước khi được đào tạo và bổ nhiệm để trở thành thẩm phán. CHƯƠNG 3: Xu hướng phát triển và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam I. Sự phát triển của Civil law trong thời kì hiện đại Từ cuối thế kỉ 20 trở đi, dòng họ civil law trải qua sự sửa đổi đáng kể do các nguồn luật thay đổi trong các xã hội hiện đại với vô vàn sự xuất hiện của các chủ thể mới, quan hệ mới, cách tiếp cận và điều chỉnh mới. Hầu như tất cả các quốc gia theo dòng họ civil law hiện nay đều ngày càng sử dụng 42
  46. các nguồn chưa thành văn, chưa được pháp điển hóa để điều chỉnh các phạm vi rộng lớn của đời sống kinh tế và xã hội. Các luật này thường nằm ngoài phạm vi của các bộ luật truyền thống, ngay cả khi nó đề cập đến những vấn đề liên quan đến hợp đồng - những lĩnh vực mà luật pháp đã ban hành. Hơn nữa, vì luật pháp hiện đại do các cơ quan nhất định ban hành, nên nó thiếu tính chất thực tế và tính tích hợp cần có của pháp luật, nhất là luật dân sự, vốn được hình thành bởi các truyền thống văn hoá và pháp luật. Pháp luật đương đại cần đối mặt với các vấn đề mới, với sự xung đột giữa các lợi ích và nhiều khi phải can thiệp vào cả những vấn đề mà trước đây được coi là “khu vực tư”. Ngoài ra, cả luật hiến pháp và luật pháp quốc tế đã phản ánh mối quan tâm rộng rãi hơn về các quyền cơ bản theo cách làm cho luật dân sự trở nên công khai, linh hoạt hơn. Cách pháp điển hóa truyền thống theo các lĩnh vực luật civil law ngày càng trở nên không chắc chắn vì luật pháp đề cập đến các vấn đề mới, chẳng hạn như luật bảo vệ người tiêu dùng và luật thể thao không được xem xét theo các loại pháp luật trước đây. Các mối quan ngại của luật công đã lan rộng khắp mọi lĩnh vực của luật dân sự: ví dụ như các nguyên tắc đối xử bình đẳng trong gia đình, nguyên tắc về quyền tự do thông tin và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, 15 II. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Thứ nhất, pháp luật thuộc kiến trúc thượng tầng còn các điều kiện về kinh tế thuộc về cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng quyết định nội dung và tính chất của kiến trúc thượng tầng, nội dung và tính chất của kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh đối với cơ sở hạ tầng. Tương ứng với một cơ sở hạ tầng sẽ sản sinh 15 Modern developments in Civil Law. Truy cập: Germanic/The-German-system#ref276636 43
  47. ra một kiến trúc thượng tầng phù hợp, có tác dụng bảo vệ cơ sở hạ tầng đó. Do đó, song hành với việc cải cách hệ thống pháp luật thì Việt Nam cần phải cải cách các điều kiện kinh tế, văn hoá, chính trị và giáo dục nhằm tạo điều kiện cho pháp luật thích ứng và phát triển. Thứ hai, điều kiện về kinh tế, văn hoá, chính trị của mỗi quốc gia là khác nhau nên quá trình tiếp nhận giá trị mới cần có sự nghiên cứu công phu, nghiêm túc với những đối chiếu, so sánh từ đó học hỏi, vận dụng những giá trị tiên tiến nhất, phù hợp nhất đối với hệ thống pháp luật và điều kiện của nước nhà. Việc áp dụng máy óc, nguyên si có thể dẫn đến việc sự thiếu thống nhất trong việc tiếp nhận, xây dựng pháp luật khi học hỏi quá nhiều nền pháp luật khác nhau. Thứ ba, tương tự Thái Lan trong thời kỳ cải cách của vua Rama V, Việt Nam cần cử những người có tiềm năng đi nghiên cứu học tập kinh nghiệm tại các nước mà mình quan tâm trong khoảng thời gian đủ dài thay vì những chuyến khảo sát ngắn hạn. Danh mục tài liệu tham khảo Tài liệu tiếng Việt Giáo trình Luật so sánh, Đại học Luật Hà Nội, 2017 Ts Nguyễn Minh Tuấn, Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới, NXB Sự Thật, 2015 Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Khoa luật – ĐHQGHN, 2005 Giáo trình triết học Mác-Leenin, NXB Sự Thật, 2006 44
  48. René David, Những hệ thống pháp luật chính trong thế giới đương đại, NXB Thành Phố Hồ Chí Minh, 2003 Micheal Bordan, 2002, Luật So sánh D.G.E HALL: Lịch sử Đông Nam Á, NXB Sự Thật,1997 Nghiên cứu khoa học Án lệ trong Dân luật Pháp và giá trị áp dụng, Phạm Hồ Nam, Nguyễn Lữ Quỳnh Anh, 2017. Các bài viết trên internet Administrative Traditions in Comparative Perspective: Families, Groups and Hybrids: Báo cáo đào tạo cử nhân luật ở Thái Lan và một số kinh nghiệm: Common law và civil law: law.htmlcao-dao-tao-cu-nhan-luat-o-thai-lan-va-mot-so-kinh-nghiem- doi-voi-viet-nam 1351062.html Nguyễn Minh Tuấn, Hai hệ thống pháp luật common law và civil law What Did They Leave Behind? Legal Systems, Colonial Legacies, and Human Rights Practices Đào tạo tư pháp ở các nước ASEAN: So sánh tổng quan về hệ thống và chương trình đào tạo 45
  49. achments/9/%C4%90%C3%A0o%20t%E1%BA%A1o%20t%C6%B0 %20ph%C3%A1p%20%E1%BB%9F%20ASEAN.pdf Colonialism and Nationalism in Southeast Asia: Political impact of conlonial power upon south east asia history: powers-upon-southeast-asia-history-essay.php France colonies: almanacs-transcripts-and-maps/law-colonial-systems-french-empire Colonialism: Civil law Romano Germanic: law-Romano-Germanic Campuchia: Source of law overview: Comperative law and justice: a Constitution: Laos: Legal system: 46
  50. Customary Law: ublications/Customary_Law_Laos2011_english_master1.pdf Các tài liệu khác The Cambridge History Of Southeast Asia Volume Two Các văn bản pháp luật Hiến pháp Thái Lan năm 2017 Hiến pháp Indonesia năm 1945 Hiến pháp Campuchia năm 2004 Hiến pháp Lào năm 1991 Hiến Pháp Việt Nam năm 2013 47