Khóa luận Cải cách thủ tục hành chính trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0

pdf 86 trang thiennha21 16/04/2022 2873
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Cải cách thủ tục hành chính trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_cai_cach_thu_tuc_hanh_chinh_trong_boi_canh_cach_ma.pdf

Nội dung text: Khóa luận Cải cách thủ tục hành chính trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ VÂN CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP HÀ NỘI - 2019
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ VÂN CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 Chuyên ngành: Luật Hiến pháp - Luật Hành chính KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ MINH HÀ HÀ NỘI - 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong khóa luận chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong khóa luận đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ khóa luận Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN NGUYỄN THỊ VÂN
  4. MỞ ĐẦU 5 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 13 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ MỐI LIÊN QUAN ĐẾN CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 13 1.1.1. KHÁI NIỆM CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH 13 1.1.2. SƠ LƯỢC VỀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 VÀ QUAN NIỆM LIÊN QUAN 18 1.1.3. KHÁI NIỆM CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 22 1.1.4. MỐI LIÊN HỆ GIỮA CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 23 1.2. NỘI DUNG CỦA CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 28 1.2.1. CẢI CÁCH TTHC TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 NHẰM GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ QUẢN LÝ - ĐIỀU HÀNH GIỮA NỘI BỘ CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC VỚI NHAU, GIỮA CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VỚI CÁN BỘ CÔNG CHỨC NHÀ NƯỚC 28 1.2.2. CẢI CÁCH TTHC TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 NHẰM GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ QUẢN LÝ - ĐIỀU HÀNH GIỮA CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỚI CÔNG DÂN VÀ CÁC TỔ CHỨC CỦA CÔNG DÂN 30 1.3. NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG NÁCH MẠNG CÔNG NGHỆ 4.0 TRONG CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH 33 1
  5. 1.4. TIÊU CHÍ ÁP DỤNG CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 CHO CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM 37 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 46 2.1. THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TRONG CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 46 2.1.1. TÌNH HÌNH ÁP DỤNG MÔ HÌNH CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ (ELECTRONIC GOVERNMENT) GIAI ĐOẠN 2016-2020 47 2.1.2. CÁC CHỈ SỐ VỀ CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH PAR INDEX VÀ CHỈ SỐ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ CỦA NGƯỜI DÂN VỀ THỦ TỤC HÀNH CHÍNH SIPAS GIAI ĐOẠN 2016-2020 54 2.1.3. ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TRONG CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 65 2.2. KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP 72 KẾT LUẬN 79 TÀI LIỆU THAM KHẢO 80 TÀI LIỆU TIẾNG ANH 80 TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT 80 2
  6. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT CCHC : Cải cách hành chính TTHC : Thủ tục hành chính CP : Chính phủ NĐ-CP : Nghị định – Chính phủ NQ-CP : Nghị quyết – Chính phủ Nxb : Nhà xuất bản QPPL : Quy phạm pháp luật CNTT : Công nghệ thông tin CNTT-TT : Công nghệ thông tin- Truyền thông UBND : Ủy ban nhân dân VBQPPL : Văn bản quy phạm 3
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1 : Chỉ số phát triển Chính Phủ điện tử ở Việt Nam 49 Bảng 2.2: So sánh chỉ số CPĐT của Việt Nam với mức trung bình của thế giới, khu vực 2018 54 Bảng 2.3: Bảng chỉ số CCHC PAR INDEX của Bộ và cơ quan ngang Bộ 59 Bảng 2.4: Bảng chỉ số CCHC PAR INDEX của tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương 61 Bảng 2.5: Bảng chỉ số đánh giá sự hài lòng của người dân về các TTHC – Sipas 2017 68 4
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Những năm gần đây, đất nước ta có nhiều chuyển biến tích cực về quản lý hành chính nhà nước nhằm hướng tới xây dựng một nền hành chính phục vụ nhân dân. CCHC là yêu cầu khách quan của mọi nền hành chính và của bất cứ quốc gia nào. Đối với nước ta, CCHC là yêu cầu cấp bách và là một nhiệm vụ mang tầm chiến lược trong công cuộc đổi mới được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm nhằm xây dựng nền hành chính dân chủ, minh bạch, chuyên nghiệp, vững mạnh, từng bước hiện đại. Để đáp ứng được nhiệm vụ đó, phải nói đến Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ về ban hành Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011-2020. Chương trình này đặt ra mục tiêu trọng tâm về CCHC trong giai đoạn 10 năm. Một trong những nhiệm vụ được Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2016 – 2020 xác định ưu tiên hàng đầu đó chính là cải cách TTHC theo hướng hiện đại hóa. Cải cách TTHC được xác định là một khâu trọng tâm và đã được triển khai ở tất cả các cấp hành chính theo hướng đơn giản hóa, hiện đại hóa, tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm lợi ích chính đáng và quyền làm chủ của nhân dân. Cải cách TTHC là cải cách các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục thực hiện thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền; cải cách các quy định về các loại TTHC, cải cách việc thực hiện các TTHC. Ở Việt Nam, có lẽ chưa khi nào mà cụm từ “cuộc cách mạng công nghiệp 5
  9. lần thứ 4” hay “cách mạng 4.0” lại được nhắc đến nhiều như thời gian gần đây. Chúng ta mang rô-bốt trí tuệ nhân tạo thế hệ mới nhất - Sophia về Việt Nam để triển lãm với thông điệp “Người trẻ Việt Nam phải sẵn sang đón nhận thách thức” thông qua việc tổ chức các diễn đàn cấp cao và triển lãm quốc tế về Công nghiệp thông minh - Industry 4.0 Summit 2016, 2018; chúng ta tổ chức triển lãm quốc tế về 4G LTE qua các năm 2016-2018 để trưng bày những sản phẩm công nghệ thông tin mới nhất trên thế giới; chúng ta đưa ra các đề án 99- QĐ-TTg ngày 14 tháng 01 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án đào tạo phát triển nguồn nhân lực an toàn, an ninh thông tin đến năm 2020 nhằm hỗ trợ cho sự phát triển lâu dài của công nghệ 4.0 ở Việt Nam. Bởi vậy, những cụm từ như “công xưởng thông minh”, “rô bốt thông minh”, “vật liệu mới”, “dữ liệu lớn” đã không còn xa lạ mà dần trở thành minh chứng cho những bước tiến khổng lồ của xã hội loài người trong thời đại công nghệ 4.0. Ba trụ cột chính mang tính bản lề của nền công nghiệp 4.0 đó là kỹ thuật số, công nghệ sinh học và vật lý; song cốt lõi là sự phát triển vượt bậc của kỹ thuật số, trong đó, những nhân tố chính mà cuộc đại cách mạng này mang lại trên góc độ kỹ thuật số chính là: Trí tuệ nhân tạo (artificial intelligence), internet vạn vật (internet of things) và dữ liệu lớn (big data). Công nghệ 4.0 dù mới chỉ xuất hiện ở Việt Nam trong vài năm gần đây, nhưng được kỳ vọng sẽ đáp ứng tiêu chí “ứng dụng CNTT hiện đại trong quản lý, điều hành nền hành chính nhà nước” trong Nghi ̣quyết Đaị hôị XII của Đảng. Ứng dụng các giải pháp công nghệ 4.0 mới sẽ giúp việc ứng dụng CNTT trong hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính được triển khai một cách đồng bộ từ Trung ương đến địa phương; từng bước phấn đấu theo hướng “Chính phủ điện tử”, “Chính quyền điện tử”. Việc nghiên cứu chuyên sâu về cải cách TTHC cũng như các giải pháp 6
  10. công nghệ 4.0 là công việc cần thiết mang tính thời sự góp phần nâng cao hiệu quả cải cách TTHC theo hướng hiện đại hóa, phù hợp với tình hình phát triển của cuộc cách mạng công nghệ 4.0. Với sự cần thiết nêu trên, tác giả khóa luận đã chọn đề tài: “Cải cách thủ tục hành chính trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Luật Hiến pháp – Luật Hành chính của mình với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào việc nghiên cứu phát triển lý luận và thực tiễn cùng lĩnh vực cũng như vào quá trình thực hiện cải cách TTHC trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Trong những năm gần đây đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề cải cách nền hành chính nói chung, cải cách TTHC nói riêng. Các công trình nghiên cứu ở cấp độ sách tham khảo, chuyên khảo, giáo trình như: - Các giải pháp thúc đẩy CCHC ở Việt Nam của tác giả Nguyễn Ngọc Hiến, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2001; - CCHC nhà nước: Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp của tác giả Thang Văn Phúc, Nxb. Chính trị Quốc gia, năm 2001; - Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam của tác giả Lê Chi Mai, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2003; - Hành chính nhà nước trong xu hướng toàn cầu hóa của tác giả Nguyễn Hữu Hải, Nxb Tư pháp, Hà Nội, năm 2007; - Giáo trình TTHC của tác giả Nguyễn Văn Thâm, Nxb Khoa học và Kỹ thuật năm 2007; - CCHC ở Việt Nam: Thành tựu và các rào cản hiện nay của tác giả Nguyễn Văn Thâm, Việt Nam học – Kỷ yếu hội thảo quốc tế lần thứ ba năm 2008; 7
  11. - Cơ sở lý luận và thực tiễn về hành chính nhà nước của tác giả Nguyễn Hữu Hải, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2014; - CCHC công ở một số nước châu Á và bài học cho Việt Nam của PGS.TS. Phạm Thái Quốc, Nxb Khoa học Xã Hội năm 2018. Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 ở nước ta được chia thành 2 giai đoạn: Giai đoạn I (2011-2015) và giai đoạn II (2016-2020). Tuy nhiên, trong những tác phẩm kể trên, các tác giả đã đưa ra thực trạng, nguyên nhân và giải pháp cải cách tổng thể hoặc chỉ nói đến những vấn đề chung nhất về CCHC quốc gia thực hiện theo nhiệm vụ CCHC thuộc giai đoạn I Chương trình tổng thể CCHC Nhà Nước giai đoạn 2011-2020. Ở cấp độ các công trình nghiên cứu về CCHC và cải cách TTHC: - Cải cách nền hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2015 của tác giả TS Hà Quang Trường, đăng trên Tạp chí Cộng sản năm 2015; - Cải cách TTHC góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô của tác giả Minh Huệ, đăng trên Tạp chí Cộng sản năm 2018. Ở cấp độ luận văn đã có công trình nghiên cứu về cải cách TTHC như: - Cải cách TTHC tại Ủy ban Nhân dân tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2010- 2020, luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Dương Thị Tươi, Khoa Luật- Đại học Quốc Gia Hà Nội năm 2010; - Cải cách TTHC – thông qua thực tiễn tỉnh Nam Định, luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Phúc Sơn, Khoa Luật trường Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014. Các công trình nghiên cứu nói trên đều đã đề cập đến CCHC, trong đó có cải cách TTHC dưới nhiều cách tiếp cận khác nhau. Trong giới hạn nhất định, các công trình nghiên cứu kể trên đều chỉ giới hạn ở một địa phương hoặc một số 8
  12. đơn vị hành chính riêng lẻ. Hiện nay, trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội với quy mô rộng khắp cả nước; tuy nhiên lại chưa có công trình nghiên cứu luật học chuyên sâu nào đề cập một cách trực diện đến việc áp dụng các thành tựu và giải pháp công nghệ thời cách mạng công nghiệp 4.0 vào để giải quyết các vấn đề còn tồn đọng của hoạt động cải cách thủ tục hành chính. Với việc nghiên cứu đề tài “Cải cách thủ tục hành chính trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0”, tác giả khóa luận hy vọng đóng góp vào việc làm phong phú thêm các tài liệu về cải cách TTHC để phù hợp với sự phát triển như vũ bão của CNTT trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. 3. Mục tiêu nghiên cứu Nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về cải cách TTHC nói chung. Nghiên cứu phân tích, đánh giá toàn diện thực trạng, hiệu quả của hoạt động CCHC trong đó có cải cách TTHC theo Chương trình tổng thể CCHC Nhà nước giai đoạn 2016-2020. Đánh giá và đưa ra các kiến nghị về việc áp dụng các giải pháp công nghệ trong thời đại công nghiệp 4.0 như là các công cụ hữu hiệu trong việc thực hiện cải cách TTHC nhà nước Việt Nam. 4. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu hướng tới là lý luận về CCHC, cụ thể là hoạt động cải cách TTHC và tính ứng dụng thực tiễn của các giải pháp kỹ thuật công nghệ mới trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vào hoạt động cải cách TTHC. 5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài 9
  13. Về nội dung, đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động cải cách TTHC trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Về không gian, đề tài tập trung nghiên cứu các hoạt động, chương trình cải cách TTHC với sự ứng dụng của các giải pháp công nghệ thời 4.0 trong lĩnh vực Hành chính, không có sự giới hạn về đơn vị hành chính trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Về thời gian, chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 ở nước ta được chia thành 2 giai đoạn: Giai đoạn I (2011-2015) và giai đoạn II (2016-2020). Tuy nhiên, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mới chỉ manh nha xuất hiện và phát triển ở nước ta từ năm 2016 đến nay. Do đó, đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng việc thực hiện các hoạt động cải cách TTHC trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 giai đoạn II của chương trình tổng thể CCHC Nhà nước giai đoạn 2016-2020. 6. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận vận dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về CCHC nói chung và cải cách TTHC nói riêng. Khóa luận kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến của khoa học xã hội để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra. Cụ thể: + Các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh để nghiên cứu lý luận và đưa ra giải pháp nhằm đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động cải cách TTHC nhờ việc ứng dụng các kỹ thuật công nghệ mới trong cuộc đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang bùng nổ ở Việt Nam. + Phương pháp nghiên cứu, khảo sát, thống kê, lấy phiếu ý kiến chủ yếu thông qua quan sát thực địa và khảo sát sự hài lòng của người dân thông qua 10
  14. bảng hỏi 7. Tính mới của đề tài nghiên cứu Cải cách TTHC là một khái niệm không mới trong thực tiễn và nghiên cứu khoa học, nhưng việc nghiên cứu về hoạt động cải cách TTHC gắn với những tiến bộ về mặt kỹ thuật công nghệ nhất là khi những năm gần đây cụm từ “Cách mạng công nghiệp 4.0” bùng nổ lại tương đối mới mẻ. Việc nghiên cứu đề tài để làm tài liệu tham khảo chuyên sâu về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Cải cách TTHC theo hướng hiện đại hóa là mục tiêu trọng tâm của giai đoạn II (2016-2020) được Chính Phủ quy định từ Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2011 và Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 04-02-2016 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch CCHC nhà nước giai đoạn 2016 - 2020. Do sự phát triển như vũ bão của CNTT, công nghệ mới liên tục được cải tiến và phát triển khiến cho việc áp dụng ứng dụng CNTT, kỹ thuật số vào hoạt động cải cách TTHC còn chưa đáp ứng được nhu cầu cũng như sự kỳ vọng của thực tiễn xã hội. Các ứng dụng CNTT áp dụng vào tiến trình cải cách TTHC còn nhiều lạc hậu, đi sau thời đại và còn bỏ sót nhiều cơ hội mà cuộc Cách mạng công nghệ 4.0 mang tới. Bên cạnh đó, nghiên cứu về cải cách TTHC thì đã có nhiều công trình nghiên cứu nhưng nghiên cứu về cải cách TTHC trong thời đại công nghiệp 4.0 thì hiện nay rất ít. Vậy nên, tác giả khóa luận mong rằng khóa luận sẽ góp phần nhỏ vào lý luận của cải cách TTHC trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 8. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh sách các tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 2 chương. 11
  15. Chương 1. Cơ sở lý luận về cải cách thủ tục hành chính trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 Chương 2. Thực trạng và kiến nghị giải pháp về việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 12
  16. CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 1.1. Một số khái niệm và mối liên quan đến cải cách thủ tục hành chính trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 1.1.1. Khái niệm cải cách thủ tục hành chính Khái niệm cải cách hành chính Thuật ngữ "cải cách" là một thuật ngữ phổ biến, dùng để chỉ một quá trình, một hoạt động có ý thức, có mục đích làm thay đổi, cải biến những cái cũ theo hướng tốt hơn hoặc thay thế cái cũ bằng cái mới; cải cách ở đây mang nghĩa là những thay đổi có tính hệ thống và có mục đích giúp cho một hệ thống hoạt động tốt hơn. Điều đó phân biệt cải cách với những hoạt động khác cũng chỉ sự biến đổi như sáng kiến, thay đổi, phát chế hay phát minh. Cải cách có thể diễn ra ở nhiều cấp độ, mức độ khác nhau; có những hoạt động cải cách mang tính chất cách mạng; có những cuộc cải cách chỉ là sự thay đổi ít nhiều so với ban đầu. Nói tóm lại, cải cách là thay đổi những bộ phận cũ không hợp lý cho thành mới,để đáp ứng yêu cầu của tình hình khách quan; cải cách là tập hợp của nhiều những cải tiến, sáng kiến và biến đổi. Với ý nghĩa đó, cải cách hiện diện trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thuật ngữ “hành chính” có gốc từ tiếng Latinh “administratio” tức là quản lý hay lãnh đạo. Theo gốc từ Hán - Việt, thuật ngữ “hành chính” có nghĩa là sự thi hành những chính sách và pháp luật của Chính phủ. [1] [1] Đào Duy Anh, Giản yếu Hán – Việt từ điển (quyển thượng), Nxb Minh Tân, Paris, 1951, tr.346. 13
  17. Như vậy, hành chính theo nghĩa chung là hoạt động quản lý bao quát của nhà nước với toàn xã hội; theo nghĩa riêng, hẹp hơn là công việc quản lý của cơ quan hành chính nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo tài liệu của Liên Hợp Quốc (1971) thì CCHC “là những cố gắng có chủ định nhằm đưa những thay đổi cơ bản vào hệ thống hành chính nhà nước thông qua các cải cách có hệ thống hoặc các phương thức để cải tiến ít nhất một trong các yếu tố cấu thành của nền hành chính công”[2] Theo Bộ Nội vụ: “CCHC là một sự thay đổi có kế hoạch, theo một mục tiêu nhất định, được xác định bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền; Tóm lại, CCHC là tạo ra những thay đổi trong các yếu tố cấu thành của nền hành chính nhằm làm cho các cơ quan hành chính nhà nước hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội tốt hơn. CCHC không làm thay đổi bản chất của hệ thống hành chính, mà chỉ làm cho hệ thống này trở nên hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân được tốt hơn so với trước.” Có thể thấy, CCHC là một trong những nội dung quan trọng của khoa học hành chính, có ý nghĩa không chỉ về mặt lý luận mà còn mang tính thực tiễn cao. Bên cạnh đó, mọi hoạt động CCHC đều hướng tới việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước nhằm đáp ứng các yêu cầu quản lý cụ thể của mỗi quốc gia trong mỗi giai đoạn phát triển. Căn cứ vào các đặc điểm, quan niệm và các cách tiếp cận về cải cách, hành chính cũng như cải cách hành chính đã làm rõ ở trên thì CCHC là hoạt động có ý thức và mục đích của con người nhằm hợp lý hóa, hay khắc phục các khiếm khuyết trong các chương trình điều hành, quản lý các hệ thống. Như vậy, [2] Báo cáo Liên Hợp Quốc về Cải cách hành chính năm 1971 14
  18. tác giả khóa luận đưa ra quan điểm cá nhân về thuật ngữ “cải cách hành chính” như sau: cải cách hành chính (CCHC) là những cố gắng có chủ định nhằm thực hiện hoạt động cải tạo, nâng cấp và hoàn thiện công tác quản lý cho tất cả cơ quan hành chính nhà nước nhằm nâng cao chất lượng nền hành chính và phục vụ người dân tốt hơn. Khái niệm thủ tục hành chính Theo Từ điển tiếng Việt, thủ tục là “cách thức tiến hành một công việc với nội dung, trình tự nhất định, theo quy định của nhà nước”[3]. Theo C.Mác, “thủ tục là hình thức sống của đạo luật, và luật vật chất có hình thức thủ tục riêng của nó.” TTHC tiếp cận từ các góc độ khác nhau. Theo quy định hiện hành được ghi nhận ngày 08/6/2010 được Chính phủ ban hành thông qua Nghị định số 63/2010/NĐ-CP, “TTHC là trình tự, cách thức thực hiện, hồ sơ và yêu cầu, điều kiện do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định để giải quyết một công việc cụ thể liên quan đến cá nhân, tổ chức” [4] Theo giáo trình Luật Hành chính, Khoa Luật-ĐHQG Hà Nội định nghĩa: “Thủ tục hành chính là trình tự và cách thức thực hiện hoạt động hành chính nhà nước nói chung, hoặc trình tự và cách thức thực hiện những hoạt động cụ thể [3] Nguyễn Như Ý(chủ biên), Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb.Giáo dục, Hà Nội,1995 [4]Khoản 1, Điều 3 Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 08/6/2010 của Chính phủ 15
  19. trong các ngành và lĩnh vực hoạt động hành chính nhà nước do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.”[5] Khái niệm TTHC do Chính phủ đưa ra thông qua Nghị định số 63/2010 là quan điểm đến từ ngành khoa pháp lý nên thường được áp dụng ở khóa cạnh thực hiện quy phạm của luật vật chất. Theo đó, TTHC ở đây là trình tự và cách thức do luật hành chính quy định nhằm thực hiện mọi hình thức hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, tức là bao gồm không chỉ trình tự và cách thức thực hiện hoạt động ban hành các quyết định cá biệt, mà cả trình tự và cách thức thực hiện hoạt động sáng tạo pháp luật (ban hành quyết định QPPL và quyết định chủ đạo). Trong khi đó, quan điểm “thủ tục hành chính” trong giáo trình Luật Hành chính Việt Nam của Khoa Luật-ĐHQG Hà Nội lại mang ý nghĩa nội hàm rộng hơn, là thủ tục thực hiện mọi hoạt động hành chính nhà nước, bao hàm cả hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật, văn bản chủ đạo. Dựa trên những phân tích nêu trên, tác giả khóa luận đồng ý hoàn toàn với quan điểm đến từ giáo trình Luật Hành Chính Việt Nam của Khoa Luật- Đại học quốc gia Hà Nội. Bởi lẽ quan điểm về thủ tục hành chính này mang ý nghĩa bao quát và có phần hợp lý hơn. Tóm lại, “thủ tục hành chính là trình tự và cách thức thực hiện hoạt động hành chính nhà nước nói chung, hoặc trình tự và cách thức thực hiện những hoạt động cụ thể trong các ngành và lĩnh vực hoạt động hành chính nhà nước do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.” [5] Giáo trình Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội, tr 15-16 16
  20. Khái niệm cải cách thủ tục hành chính TTHC có ý nghĩa quan trọng đối với cá nhân, tổ chức và chính cơ quan nhà nước. Một mặt, TTHC là công cụ để đảm bảo thực hiện các quyền được pháp luật quy định cho cá nhân, tổ chức. Ngoài những quyền về chính trị, cá nhân, tổ chức thực hiện quyền về hành chính, TTHC giúp cá nhân, tổ chức thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, ví dụ: thực hiện quyền như quyền đăng ký kinh doanh, khai sinh, khai tử, kết hôn; thực hiện nghĩa vụ như nghĩa vụ nộp thuế. Mặt khác, TTHC là phương tiện để đảm bảo hoạt động của cơ quan nhà nước được minh bạch, hợp pháp. Chính vì tầm quan trọng của TTHC như vậy, cho nên TTHC là một trong những nội dung quan trọng cần phải cải cách nếu muốn nâng cao chất lượng nền hành chính nước nhà. Chính vì vậy, cải cách TTHC trở thành nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong chương trình công tác của Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương. Đây được xác định là một khâu quan trọng và được đặt ra ngay từ giai đoạn đầu của tiến trình CCHC ở nước ta. Căn cứ vào Quyết định số 53/QĐ-BCĐCCHC Về việc ban hành kế hoạch hoạt động năm 2018 của Ban chỉ đạo CCHC của Chính phủ. Thuật ngữ “Cải cách TTHC” được hiểu là: “Tháo gỡ các cơ chế, chính sách, TTHC liên quan đến đất đai, nông nghiệp nông thôn, ứng dụng CNTT, khởi nghiệp, phát triển du lịch, tiếp cận tín dụng; bảo hiểm xã hội, chính sách đối với người có công; lý lịch tư pháp, hộ tịch Tiếp tục cắt, giảm, đơn giản hóa thủ tục kiểm tra chuyên ngành, điều kiện kinh doanh và chi phí cho doanh nghiệp”[6] Tóm lại,cải cách thủ tục hành chính là những cố gắng có chủ định nhằm thực hiện hoạt động cải tạo, nâng cấp và hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ [6] Quyết định số 53/QĐ-BCĐCCHC Về việc ban hành kế hoạch hoạt động năm 2018 của Ban chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ. 17
  21. tục thực hiện thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền,công dân và tổ chức của công dân nhằm phục vụ người dân tốt hơn và nâng cao chất lượng nền hành chính. 1.1.2. Sơ lược về Cách mạng công nghiệp 4.0 và quan niệm liên quan Nhìn lại lịch sử, con người đã chứng kiến 3 cuộc cách mạng khoa học vĩ đại về kỹ thuật của nhân loại: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra từ năm 1784 khi loài người phát minh động cơ hơi nước có khả năng sức thế sức lao động của con người, tác động trực tiếp đến các ngành nghề như dệt may, chế tạo cơ khí, giao thông vận tải. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra từ năm 1870 khi loài người phát minh ra động cơ điện, mang lại cuộc sống văn minh, năng suất tăng nhiều lần so với động cơ hơi nước. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba diễn ra từ năm 1969 khi loài người phát minh ra bóng bán dẫn, điện tử, kết nối thế giới liên lạc được với nhau. Vệ tinh, máy bay, máy tính, điện thoại, Internet là những công nghệ hiện nay chúng ta thụ hưởng là từ cuộc cách mạng này. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã có manh nha từ khoảng 40 năm trước nhưng chỉ thực sự được biết đến từ những năm 2000 ở các nước phát triển trên thế giới. Năm 2013, một từ khóa mới là "Công nghiệp 4.0" (Industrie 4.0) nổi lên trên toàn cầu mang ý nghĩa biểu trưng cho một chiến lược công nghệ cao nằm trong chính sách phát triển kinh tế đất nước, xuất phát từ một báo cáo của Chính phủ Đức do Thủ tướng Đức Angela Merkel trình bày và tiếp tục được 18
  22. nhắc tới tại Diễn đàn Kinh tế thế giới ở Davos tháng 1/2015. Hiện nay, Công nghiệp 4.0 đã vượt ra khỏi khuôn khổ dự án của Chính phủ Đức với sự tham gia của nhiều nước và trở thành một phần quan trọng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Công nghiệp 4.0 là việc thông qua các công nghệ như Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), mạng xã hội, điện toán đám mây, di động, phân tích dữ liệu lớn (SMAC) Để chuyển hóa toàn bộ thế giới thực thành thế giới số.Hay nói cách khác, “Cách mạng công nghệ 4.0 là thuật ngữ dùng để chỉ những đột phá công nghệ lớn, mang tính thay đổi căn bản các công nghệ cũ đang diễn ra hiện nay.”[7] Đặc trưng của Công nghiệp 4.0 là các hệ thống sản xuất thực - ảo (Cyber- Physical Systems - CPS) lần đầu tiên được TS. Jame Truchat, Giám đốc điều hành của National Instruments, giới thiệu vào năm 2006. Trong đó, các “sản phẩm thông minh” gắn cảm biến báo cho máy móc biết chúng cần được xử lý như thế nào. Các thiết bị nhúng thông minh làm việc với nhau qua mạng không dây hoặc thông qua “hệ thống đám mây”. Việc áp dụng rộng rãi những tiến bộ của CNTT và truyền thông (ICT) như IoT, điện toán đám mây, công nghệ thực tế - ảo vào hoạt động sản xuất công nghiệp đã làm mờ đi ranh giới giữa thế giới thực và thế giới ảo, được gọi là hệ thống sản xuất thực - ảo/điều khiển - vật lý CPPS (cyber-physical production system); CPPS là mạng lưới giao tiếp trực tuyến giữa các máy móc với nhau, được tổ chức như mạng xã hội. Đơn giản chỉ cần cấp địa chỉ mạng, chúng sẽ tạo liên kết IT với các thành phần cơ - điện tử, sau đó giao tiếp với nhau thông qua hạ tầng mạng. Tất cả các mạng này là xu thế [7] [ Nguyễn Văn Bình: Việt Nam với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Sđd, tr26,34]. 19
  23. của Công nghiệp 4.0, dựa trên những phát triển vượt trội của CNTT-TT và khoa học máy tính: IoT, IoS, Internet kết nối dữ liệu (Internet of data), Internet kết nối người dân (Internet of people). Cách mạng Công nghiệp 4.0 sẽ diễn ra trên 3 lĩnh vực chính gồm Công nghệ sinh học, kỹ thuật số và vật lý. Trong đó, những yếu tố cốt lõi của kỹ thuật số sẽ là: Trí tuệ nhân tạo (AI), Vạn vật kết nối - Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data). Trí tuệ nhân tạo (tên đầy đủ là Artificial Intelligence) được hiểu như một ngành của khoa học máy tính liên quan đến việc tự động hóa các hành vi thông minh. AI là trí tuệ được lập trình và tạo bởi trí tuệ con người với mục tiêu chủ yếu là giúp máy tính có thể tự động hóa các hành vi thông minh như con người. Trí tuệ nhân tạo khác với việc lập trình logic trong các ngôn ngữ lập trình là ở việc ứng dụng các hệ thống học máy (tiếng Anh: machine learning) để mô phỏng trí tuệ của con người trong các xử lý mà con người làm tốt hơn máy tính. Cụ thể, trí tuệ nhân tạo giúp máy tính có được những trí tuệ của con người như: biết suy nghĩ và lập luận để giải quyết vấn đề, biết giao tiếp do hiểu ngôn ngữ, tiếng nói, biết học và tự thích nghi. Internet Of Things (IoT) là mạng lưới vạn vật kết nối Internet hoặc là , mạng lưới thiết bị kết nối Internet (IoT), khi mà mỗi đồ vật, con người được cung cấp một định danh của riêng mình, và tất cả có khả năng truyền tải, trao đổi thông tin, dữ liệu qua một mạng duy nhất mà không cần đến sự tương tác trực tiếp giữa người với người, hay người với máy tính. IoT đã phát triển từ sự hội tụ của công nghệ không dây, công nghệ vi cơ điện tử và Internet. Nói đơn giản là một tập hợp các thiết bị điện tử có khả năng kết nối với nhau, với Internet và với thế giới bên ngoài để thực hiện một công việc nào đó. 20
  24. Dữ liệu lớn- Big Data được hiểu “ là tài sản thông tin, mà những thông tin này có khối lượng dữ liệu lớn, tốc độ cao và dữ liệu đa dạng, đòi hỏi phải có công nghệ mới để xử lý hiệu quả nhằm đưa ra được các quyết định hiệu quả, khám phá được các yếu tố ẩn sâu trong dữ liệu và tối ưu hóa được quá trình xử lý dữ liệu” . Các khái niệm “công nghệ 4.0” kể trên hàm chứa những khái niệm nhỏ khác nhau và khó để luận giải hết được. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra khuynh hướng công nghệ chung nảy sinh từ cuộc cách mạng này là: Sự kết hợp giữa các hệ thống thực( physical systems) với các hệ thống ảo(cyber systems) thành các hệ thống công nghệ mới.[8] Tức là mô hình nhà máy hay một cơ quan hành chính nhà nước trên thực tế sẽ được mô phỏng giống hệt về cả cách thức phân cấp, phân quyền quản lý lẫn các trình tự, thủ tục thực hiện trên thực tế. Tuy nhiên, với tính chất của hoạt động cải cách TTHC cùng với điều kiện thực tiễn của Việt Nam hiện nay cho thấy hai yếu tố cốt lõi đến từ Cách mạng công nghiệp 4.0 là “dữ liệu lớn - big data” và “mạng lưới kết nối vạn vật – IOT” sẽ là hai chiếc chìa khóa quan trọng giúp Chính phủ và người dân tiếp cận được gần hơn với mục tiêu cải cách TTHC. Bởi lẽ, việc áp dụng “dữ liệu lớn - big data” và “mạng lưới kết nối vạn vật - IOT” vào hoạt động cải cách thủ tục hành chính sẽ mang đến các ưu điểm như khả năng làm việc 24/24, bộ nhớ dữ liệu lớn và được sắp xếp khoa học, không giới hạn về không gian địa lý, không cần trả lương, không cần đóng thuế hay bảo hiểm. Có thể nói, hoạt động cải cách TTHC sẽ trở nên dễ dàng và tiết kiệm hơn nếu chúng ta biết sử dụng một cách hiệu quả những tính năng ứng dụng vượt trội mà các ứng dụng CNTT cũng như giải pháp công nghệ mang lại. [8] TS. Trần Kiên. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và vấn đề cơ chế pháp lý kiểm soát và điều chỉnh rô bốt. Khoa Luật-ĐHQGHN, năm 2018, nxb Chính trị Quốc gia sự thật 21
  25. 1.1.3. Khái niệm cải cách thủ tục hành chính trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 Bởi lẽ, CCHC được xem là những cố gắng có chủ định nhằm đưa những thay đổi cơ bản vào hệ thống hành chính nhà nước thông qua các cuộc cải cách có hệ thống hoặc các phương thức để cải tiến ít nhất một trong các yếu tố cấu thành của nền hành chính công. Cải cách TTHC là một phần quan trọng không thể thiếu của tổng thể CCHC; cải cách TTHC là hoạt động nhằm thay đổi, sửa đổi bổ sung các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục thực hiện thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền; cải cách các quy định về các loại TTHC; cải cách việc thực hiện các TTHC Sự nhất quán trong NQ30c/NQ-CP về Chương trình tổng thể CCHC giai đoạn 2011-2020 cũng như Quyết định số 225/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch CCHC nhà nước giai đoạn 2016 – 2020 đã nêu rõ định hướng CCHC nhà nước giai đoạn 2016-2020 tập trung vào cải cách TTHC theo hướng hiện đại hóa, xây dựng Chính phủ điện tử, đẩy mạnh hoạt động của mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ trên Internet; ứng dụng CNTT vào các TTHC giữa các cơ quan hành chính nhà nước, các ngành, các cấp và trong nội bộ từng cơ quan hành chính nhà nước cũng như hoạt động quản lý hành chính giữa các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền với người dân và doanh nghiệp. Theo đó, những bước tiến đột phá và giải pháp công nghệ thời 4.0 như sử dụng các hệ thống vật lý như không gian ảo, Internet kết nối vạn vật (IoT) và Internet của các dịch vụ (IoS), dữ liệu lớn (big data) chính là tiền đề để hiện thực hóa các mục tiêu cải cách TTHC được đặt ra. Tóm lại là, cải cách TTHC trong thời đại công nghiệp 4.0 là những cố gắng có chủ định nhằm đưa những giải pháp công nghệ 4.0 vào để có những 22
  26. thay đổi về cách tiếp cận hồ sơ, điều kiện, trình tự, cách thức thực hiện các loại TTHC góp phần làm cho TTHC trở nên thông suốt, tinh gọn, tiện lợi, minh bạch, công khai. 1.1.4. Mối liên hệ giữa cải cách thủ tục hành chính và Cách mạng công nghiệp 4.0 Chúng ta đang ở những năm cuối cùng của Kế hoạch CCHC nhà nước giai đoạn 2016 – 2020 với mục tiêu là tiếp tục đẩy mạnh triển khai thực hiện Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 theo Nghị quyết số 30c/NQ-CP của Chính phủ, đảm bảo hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ CCHC nhà nước trong giai đoạn II (2016 - 2020).Trong đó, hai trong sáu nội dung mà Chính phủ ra chỉ thị yêu cầu các Bộ,Ban ngành tập trung thực hiện các trọng tâm CCHC giai đoạn 2016 - 2020 là: Một là, đẩy mạnh đơn giản hóa TTHC, cắt giảm chi phí tuân thủ TTHC trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội; ưu tiên các TTHC phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế; mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp về giải quyết TTHC đạt trên 80% vào năm 2020. Cải cách thủ tục hành chính là một nội dung của cải cách hành chính, nhưng là nội dung phản ánh rõ nhất mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, đồng thời là nội dung có nhiều bức xúc nhất của người dân, doanh nghiệp, cũng như có nhiều yêu cầu đổi mới trong quá trình hội nhập kinh tế. Các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiếp pháp hay ở các văn bản pháp luật khác có được thực hiện hay không, thực hiện như thế nào, về cơ bản đều phải thông qua thủ tục hành chính do các cơ qua hành chính nhà nước, các cấp chính quyền quy định, trực tiếp hoặc ủy quyền giải quyết. 23
  27. Hai là, hiện đại hóa hành chính thông qua việc hoàn thiện và đẩy mạnh hoạt động của Mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ trên Internet. Đẩy mạnh ứng dụng CNTT - TT trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước để đến năm 2020. Mục tiêu cao nhất của CCHC là nhằm thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của công dân và các tổ chức của công dân, coi công dân và các tổ chức của công dân như khách hàng để phục vụ. Do đó, Nhà nước có trách nhiệm phải phục vụ tốt nhất nhu cầu của công dân; việc thỏa mãn nhu cầu của công dân đòi hỏi nền hành chính nhà nước phải chuyển từ “cai trị” sang “phục vụ”, phải trở nên năng động, có hiệu lực, hiệu quả, cung cấp đầy đủ các dịch vụ với chất lượng cao, nhanh chóng, thuận tiện và chi phí hợp lý hơn Chính vì vậy, có thể khẳng định rằng, hiện đại hóa nền hành chính nhà nước vừa là xu hướng không thể phủ nhận trong bối cảnh cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ như hiện nay và cũng chính là giải pháp, là “cứu cánh” tốt nhất để hiện thực hóa chủ trương xây dựng Chính phủ kiến tạo phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân. “Cải cách TTHC” với kim chỉ nam là đem đến sự tiện lợi và dễ dàng trong việc quản lý hành chính giữa nội bộ các cơ quan hành chính nhà nước với nhau; giữa các cơ quan hành chính nhà nước với người dân, tổ chức của người dân. Bên cạnh đó “hiện đại hóa nền chính” cũng mang theo sứ mệnh đáp ứng nhu cầu tốt nhất cho công dân, xây dựng Chính phủ kiến tạo phục vụ nhân dân. Muốn hiện đại hóa nền hành chính thì cần phải làm cho nền hành chính trở nên tinh – giản – nhanh – gọn hơn, và chính việc hiện đại hóa nền hành chính sẽ góp phần cải cách thủ tục hành chính theo hướng hiện đại hóa. Tóm lại, hai nội dung “cải cách TTHC” và “hiện đại hóa hành chính” đều là những nội dung quan trọng và có quan hệ qua lại trong chương trình cải cách hành chính bởi lẽ nó liên quan 24
  28. trực tiếp đến mục tiêu “xây dựng một nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại hoá” của Đảng và nhà nước. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 được phát triển trên nền tảng khoa học công nghệ, do đó, một trong những yêu cầu quan trọng là phải áp dụng một cách triệt để và thông minh các thành tựu khoa học CNTT vào hoạt động cải cách hành chính, dịch vụ công của các cơ quan Nhà nước; từ đó tạo môi trường kinh doanh, sản xuất thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Muốn thực hiện được những mục tiêu nên trên, thì việc ứng dụng các giải pháp công nghệ 4.0 như dữ liệu lớn (big data), mạng internet kết nối vạn vật (IOT) vào CCHC ở hai nội dung chính là “cải cách TTHC” và “hiện đại hóa nền hành chính” là yêu cầu tối quan trọng. Theo đó, ứng dụng CNTT -TT trong quy trình xử lý công việc của từng cơ quan hành chính nhà nước, giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau và trong giao dịch với tổ chức, cá nhân, đặc biệt là trong hoạt động dịch vụ hành chính công, dịch vụ công của đơn vị sự nghiệp công; công bố danh mục các dịch vụ hành chính công trên mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ trên Internet. Xây dựng và sử dụng thống nhất biểu mẫu điện tử trong giao dịch giữa cơ quan hành chính nhà nước, tổ chức và cá nhân, đáp ứng yêu cầu đơn giản và cải cách TTHC. Thủ tục hành chính là trình tự, cách thức giải quyết công việc của cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền trong mối quan hệ nội bộ hành chính và mối quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với công dân và tổ chức của công dân. Do đó, nếu thủ tục hành chính thuận tiện, đơn giản sẽ giúp các cá nhân, tổ chức thực hiện được quyền lợi, nghĩa vụ của mình; đồng thời là một trong những điều kiện giúp nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước. Ngược 25
  29. lại, nếu thủ tục hành chính rườm rà, nặng nề không những gây ra tổn phí về sức người, sức của của ngân sách nhà nước, tài sản xã hội, mà kìm hãm sự năng động trong hoạt động của mọi mặt đời sống mà còn là điều kiện thuận lợi cho nạn tham ô, nhũng nhiễu phát sinh, phát triển. Cải cách TTHC là một quá trình nhằm khắc phục những hạn chế của hệ thống thủ tục hiện hành theo hướng đơn giản hóa, minh bạch hóa, công khai hóa, tạo ra sự chuyển biến căn bản trong quan hệ giải quyết công việc giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau và giữa các cơ quan hành chính nhà nước với tổ chức, công dân. Cải cách TTHC được coi là khâu đột phá trong cải cách nền hành chính nhà nước, nghĩa là để tạo sự chuyển biến của toàn bộ hệ thống nền hành chính quốc gia. Cải cách TTHC là một đòi hỏi tất yếu của thực tiễn khách quan trong công cuộc đổi mới. Với vai trò ý nghĩa vô cùng quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta đã xác định đây là trọng tâm của công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia. Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, ngày 8/11/2011, Chính phủ đã ban hành Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011-2020 tại Nghị quyết số 30c/NQ-CP. Cho đến nay, chương trình tổng thể CCHC ở nước ta đã bước sang giai đoạn II (2016-2020) với việc ban hành quyết định 225/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch CCHC nhà nước giai đoạn 2016 – 2020 và đưa cải cách TTHC theo hướng hiện đại trở thành một nhiệm vụ mang tính chiến lược, trọng tâm. Cụ thể là: - Một là, TTHC được cải cách cơ bản, mức độ hài lòng của nhân dân và doanh nghiệp về TTHC đạt mức trên 80% vào năm 2020. 26
  30. - Hai là, đến năm 2020, việc ứng dụng CNTT - TT trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước đạt được mục tiêu hoàn thiện và đẩy mạnh hoạt động của mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ trên Internet. Đẩy mạnh ứng dụng CNTT - TT trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước để đến năm 2020. Sở dĩ cải cách TTHC giai đoạn từ năm 2016 đến nay luôn được gắn liền với nội dung hiện đại hóa bởi lẽ nhờ vào sự bùng nổ của CNTT và các giải pháp công nghệ mới mà cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại, chúng ta có thể xây dựng các ứng dụng liên quan đến cải cách TTHC; cung cấp được những dịch vụ và thủ tục theo hướng cá biệt hóa, không phụ thuộc thời gian, không gian và nguồn dữ liệu, có thể đáp ứng yêu cầu của công dân một cách tức thời. Nhờ các tiến bộ của công nghệ 4.0, cơ sở dữ liệu và thông tin sẽ được máy tính hóa, dữ liệu hóa, công nghệ hóa để đảm bảo tính công khai, minh bạch; từ đó giảm bớt sức người trong hoạt động quản lý; các tiến bộ công nghệ cũng sẽ cho ra một quy trình quản lý có độ chính xác cao hơn, rút ngắn thời gian thực hiện cũng như giảm thiếu tối đa nguồn nhân lực tham gia vào bộ máy sản xuất cồng kềnh hiện có. Cải cách TTHC trong xu thế của một cuộc đại cách mạng công nghiệp 4.0 chính là việc tận dụng và ứng dụng tốt các giải pháp công nghệ bao gồm: Internet kết nối vạn vận (IoT), ứng dụng điện toán đám mây (Cloud Computing), dữ liệu chuỗi (block chain), xử lý dữ liệu lớn (Big Data), mạng xã hội (Social) vào các hoạt động quản lý và xử lý các hồ sơ, yêu cầu giữa các cơ quan hành chính với nhau; các quan hành chính với người dân và doanh nghiệp. Từ đó tạo ra những hành lang pháp lý đơn giản, thuận tiện, minh bạch hóa trình tự, cách thức, chi phí thực hiện TTHC; người dân có thể tiếp cận và sử dụng dễ dàng các 27
  31. ứng dụng mới trong việc thực hiện các hoạt động liên quan đến TTHC để từ đó thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình; Nhà nước cũng thông qua hoạt động cải cách này để quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội một cách thuận tiện hơn. Các mục tiêu cải cách TTHC không chỉ dừng lại ở lý thuyết hay các văn bản quy phạm pháp luật đơn thuần; lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam vẫn thường xuyên có thông điệp yêu cầu thúc đẩy Cách mạng công nghiệp 4.0 trong các hội nghị, hội thảo, diễn đàn lớn nhỏ khác nhau. Tháng 5/2017 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã có Chỉ thị cụ thể số 16/CT-TTg về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 để yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương tạo điều kiện tốt nhất cho sự tăng tốc phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam. 1.2. Nội dung của cải cách thủ tục hành chính trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 Cải cách TTHC trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 chính là việc ứng dụng các giải pháp công nghệ 4.0 nhằm giải quyết hai mối quan hệ chính, theo đó (1) mối giữa nội bộ các cơ quan nhà nước với nhau và (2) mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với công dân và tổ chức của công dân theo hướng đơn giản, gọn nhẹ và công khai, minh bạch. Theo đó, những nhiệm vụ về cải cách TTHC được đặt ra trong giai đoạn 2016-2020 nằm trong chương trình tổng thể CCHC bao gồm: 1.2.1. Cải cách TTHC nhằm giải quyết mối quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau Một là, xây dựng đề án đơn giản hóa chế độ báo cáo trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước; nghiên cứu, nhân rộng mô hình hay, cách làm mới trong thực hiện cải cách TTHC trên phạm vi toàn quốc; 28
  32. Hai là, tổ chức thực hiện có kết quả Đề án Tổng thể đơn giản hóa TTHC, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu điện tử liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013 – 2020; Ba là, tập trung cải cách TTHC trong nội bộ các cơ quan nhà nước, tổ chức sự nghiệp công lập, dịch vụ công trực tuyến và các TTHC liên thông giữa các cơ quan hành chính nhà nước các cấp; triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương; ứng dụng CNTT vào việc thực hiện các hoạt động cải cách TTHC. Theo đó, các thủ tục hành chính điều chỉnh mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau cần đưa vào diện cải cách bao gồm: - Thủ tục hành chính nội bộ: Là các thủ tục thực hiện các công việc nội bộ trong cơ quan nhà nước, trong hệ thống cơ quan nhà nước và trong bộ máy nhà nước. Chúng bao gồm các thủ tục quan hệ lãnh đạo, kiểm tra của các cơ quan nhà nước cấp trên với cơ quan nhà nước cấp dưới; quan hệ hợp tác, phối hợp giữa các cơ quan cùng cấp, ngang cấp, ngang quyền; quan hệ công tác giữa chính quyền cấp tỉnh với các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan chuyên môn của UBND cấp trên. + Thủ tục thông qua và ban hành văn bản: Thủ tục thông qua và ban hành quyết định hành chính, thủ tục thông qua và ban hành văn bản hành chính; + Thủ tục tuyển dụng cán bộ, công chức: thủ tục tuyển dụng cán bộ quản lý, tuyển dụng cán bộ kỹ thuật, tuyển dụng nhân viên; + Thủ tục khen thưởng cán bộ, công chức. 29
  33. - Thủ tục hành chính văn thư : Là những thủ tục liên quan đến toàn bộ các hoạt động lưu trữ, xử lý, cung cấp công văn giấy tờ và đưa ra các quyết định dưới hình thức văn bản để phục vụ cho việc giải quyết một công việc nhất định. Loại thủ tục này có liên quan chặt chẽ với hoạt động văn thư và thường xuyên xảy ra trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước. +Thủ tục đăng ký kinh doanh: Vì nhà nước quy định để đăng ký cho một doanh nghiệp hoạt động, chủ doanh nghiệp phải có đủ một số giấy tờ cần thiết như: giấy tờ chứng thực cá nhân, danh sách thành viên, chứng chỉ hành nghề, văn bản xác nhận vốn pháp định Các loại giấy tờ đó được quy định về tính hợp thức rất chặt chẽ. 1.2.2. Cải cách TTHC nhằm giải quyết mối quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà nước với công dân và các tổ chức của công dân Một là, đẩy mạnh đơn giản hóa TTHC, cắt giảm chi phí tuân thủ TTHC trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội; ưu tiên các TTHC phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế, TTHC trên một số lĩnh vực trọng tâm: Đầu tư; đất đai; xây dựng; sở hữu nhà ở; thuế; hải quan; xuất khẩu; nhập khẩu; y tế; tiếp cận điện năng; quản lý thị trường, bảo đảm điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các thành phần kinh tế trong môi trường kinh doanh thông thoáng, bình đẳng, góp phần giải phóng nguồn lực xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp về giải quyết TTHC đạt trên 80% vào năm 2020; Hai là, tăng cường xây dựng và hoàn thiện các hình thức công khai, minh bạch tất cả các TTHC; chú trọng việc công bố TTHC thuộc phạm vi quản lý 30
  34. hoặc thẩm quyền giải quyết của các bộ, ngành, địa phương; công khai TTHC trên cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC và trên trang thông tin điện tử; niêm yết TTHC tại trụ sở cơ quan, đơn vị nơi trực tiếp giải quyết TTHC; Ba là, triển khai thiết lập và đưa vào vận hành Hệ thống thông tin tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị về quy định hành chính và tình hình, kết quả giải quyết TTHC tại các cấp chính quyền. Theo đó, các thủ tục hành chính điều chỉnh mối quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà nước với công dân và các tổ chức của công dân cần đưa vào cải cách bao gồm: - Thủ tục hành chính thực hiện thẩm quyền: Là thủ tục tiến hành giải quyết các công việc liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; phòng ngừa, ngăn chặn, xử phạt các hành vi vi phạm hành chính; trưng thu, trưng mua các động sản và bất động sản của tổ chức và công dân khi nhà nước có yêu cầu giải quyết nhiệm vụ nhất định vì lợi ích cộng đồng. Thủ tục này nói lên mối quan hệ pháp lý giữa quyền hạn và nhiệm vụ của cơ quan nhà nước và của công dân. Khi thực hiện các thủ tục này, cơ quan hành chính nhà nước và các công chức nhà nước có thẩm quyền thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hoạt động áp dụng quy phạm pháp luật để giải quyết các công việc, tình huống cụ thể, làm xuất hiện các quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý của công dân và tổ chức công dân. + Thủ tục cho phép, là thủ tục giải quyết các yêu cầu, đề nghị của công dân trong trường hợp công dân muốn thực hiện các hành vi phải xin 31
  35. phép nhà nước. Theo đó, các cơ quan nhà nước phải giải quyết bằng các quyết định hành chính cá biệt. + Thủ tục trưng thu, trưng dụng, trong một số trường hợp theo luật định, cơ quan hành chính có thẩm quyền được thực hiện quyền trưng thu, trưng dụng (trong tình thế cấp bách), trưng mua (trong trường hợp cần ưu tiên vì lợi ích công cộng). Có thể thấy, với số lượng TTHC khổng lồ, có phần rườm rà và chồng chéo như vậy; nếu vẫn chỉ áp dụng lối quản lý truyền thống; quản lý dữ liệu, hồ sơ bằng lưu trữ văn bản đơn thuần; giải quyết hồ sơ, yêu cầu, điều kiện thông qua trình tự truyền thống (đi đến các công sở hành chính và trình báo, nộp hồ sơ cho các cán bộ quản lý tư pháp ); thì không thể nào đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Do đó, chúng ta cần tăng cường ứng dụng CNTT vào việc cải cách TTHC thông qua các hoạt động sau: Thứ nhất, xây dựng và đưa vào sử dụng thống nhất phần mềm Hệ thông tin điều hành tác nghiệp (bao gồm: thư điện tử, quản lý, xử lý, gửi nhận, lưu trữ văn bản) để giúp việc tra cứu, khai thác văn bản được thuận lợi, nhanh chóng, rút ngắn thời gian xử lý công việc hàng ngày của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước cũng như công dân và các tổ chức của công dân. Ví dụ: Khi người dân cần tìm về thủ tục làm giấy khai sinh cho con. Thì hệ thống này sẽ trả về kết quả là tất cả các bộ phận tạo thành, cấu thành nên TTHC bao gồm: tên thủ tục; hồ sơ; trình tự; cách thức thực hiện; cơ quan thực hiện; đối tượng thực hiện; kết quả của thủ tục; yêu cầu, điều kiện (nếu có); mẫu đơn, tờ khai (nếu có); phí, lệ phí (nếu có) cùng video hướng dẫn cách thực hiện chi tiết nhất để người dân có thể dễ dàng thực hiện theo. 32
  36. Thứ hai, lập trình và sử dụng các phần mềm quản lý văn bản và chỉ đạo điều hành trên môi trường mạng, thư điện tử, ứng dụng CNTT trong giải quyết thủ tục hành chính theo mô hình “một cửa”, tiếp nhận và xử lý, trả kết quả, hồ sơ qua Internet, hạn chế sự tiếp xúc trực tiếp giữa người dân, doanh nghiệp và cán bộ, công chức trong khi làm thủ tục để hạn chế tiêu cực, tham nhũng. Bên cạnh đó, phải đảm bảo được các tiện ích khác như: luôn cập nhật được những chính sách mới, tin tức hành chính công ngay trên ứng dụng một cách dễ dàng, tiện lợi. Ví dụ: Khi công dân tra cứu về các ngành nghề đăng ký kinh doanh có điều kiện, kết quả trả về hoặc là chuyển tiếp yêu cầu của công dân đến Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia hoặc cho ra kết quả là danh mục các ngành nghề kinh doanh có điều kiện mới nhất. Có như vậy, mới xóa tan được định kiến thủ tục hành là chính; mới bớt được sự phàn nàn, e dè, kêu khó của người dân và doanh nghiệp khi thực hiện và tiếp cận các TTHC trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Và TTHC mới tiến gần hơn mới mục tiêu là “cầu nối” để chuyển tải các quy định cụ thể về chính sách của Nhà nước vào cuộc sống, đảm bảo cho người dân, tổ chức tiếp cận và thực hiện tốt các chính sách, trong đó, cơ bản và chủ yếu là thực hiện các quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của công dân, tổ chức. 1.3. Nguyên tắc áp dụng Cách mạng công nghệ 4.0 trong cải cách thủ tục hành chính Cách mạng công nghiệp 4.0 với nền tảng là các giải pháp công nghệ 4.0 tiên tiến và hiện đại, ra đời và nhanh chóng đặt những bước tiến vững chắc của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống; được đánh giá là có khả năng làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học. Công nghệ 4.0 đang phát triển với tốc độ của một hàm số mũ chứ không phải là tốc độ tuyến tính đơn thuần. Những 33
  37. thay đổi đến từ cuộc Cách mạng này được nhận định có thể làm chuyển đổi toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị. Do đó, việc đặt ra những nguyên tắc trong việc thiết kế các ứng dụng dựa trên thành quả của cuộc đại cách mạng này là điều tối cần thiết. Có 4 nguyên tắc thiết kế mọi nền tảng kỹ thuật số trong công nghệ 4.0 được công nhận rộng rãi nhằm phù hợp với tất cả các lĩnh vực nói chung và lĩnh vực hành chính nói riêng; theo đó, những nguyên tắc này hỗ trợ nhà nước, cơ quan quản lý hành chính nhà nước trong hoạt động cải cách thủ tục hành chính. Nguyên tắc thứ nhất về áp dụng công nghệ 4.0 trong cải cách thủ tục hành chính là phải đạt được mục tiêu quản lý nhà nước: Áp dụng các giải pháp công nghệ 4.0 vào các lĩnh vực của đời sống để đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước là mục tiêu chung của toàn xã hội. Đặc biệt, với lĩnh vực hành chính nói chung và đặc biệt ở nội dung cải cách TTHC theo hướng hiện đại hóa nói riêng thì việc áp dụng các giải pháp CNTT phải có tính đặc thù, đặc trưng riêng của quản lý hành chính nước; theo đó, nguyên tắc “mục tiêu hỗ trợ quản lý nhà nước” được đặt lên hàng đầu. Áp dụng các thành tựu công nghệ 4.0 giúp nâng cao, tăng cường hiệu quả điều hành nhà nước của Chính phủ thông qua việc trao đổi văn bản điện tử, thu thập thông tin chính xác và kịp thời ra quyết định, giao ban điện tử; giúp cho hoạt động xử lý các yêu cầu hành chính liên quan đến doanh nghiệp và người dân trở nên đơn giản; doanh nghiệp và người dân được cung cấp các dịch vụ hành chính công đặc biệt là các dịch vụ công trực tuyến cấp độ 3-4 ; công dân có khả năng dễ dàng truy nhập, nộp hồ sơ, nhận kết quả hành chính không biên giới và thời gian; khi việc cải cách TTHC đạt được hiệu quả sẽ làm giảm thiểu chi phí chi tiêu Chính phủ cho lĩnh vực này. 34
  38. Nguyên tắc thứ hai về áp dụng công nghệ 4.0 trong cải cách thủ tục hành chính là khả năng tương tác: Các ứng dụng về CNTT phải có khả năng giao tiếp và kết nối với những cỗ máy, thiết bị, máy cảm biến và con người; kết nối và giao tiếp với nhau qua mạng lưới vạn vật kết nối internet hoặc mạng lưới vạn người kết nối internet. Không những thế, những ứng dụng này phải đảm bảo tính tương tác ở thế giới thực, tức là tính tương tác giữa các cơ quan hành chính với nhau, giữa các cơ quan hành chính cấp trên với cơ quan hành chính cấp dưới; giữa người dân với các cơ quan hành chính nhà nước. Ở mạng lưới vạn người kết nối internet này, hệ thống không gian mạng thực - ảo này được cấp quyền cho phép tự đưa ra quyết định và thực hiện nhiệm vụ một cách tự động nhất có thể. Chỉ trong trường hợp ngoại lệ, bị nhiễu, hoặc mục tiêu đề ra bị mâu thuẫn với nhau sẽ được ủy thác cho cấp cao hơn mà chính xác ở đây là con người- những người có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu, đề nghị trong chu trình quản lý hoạt động hành chính các cấp.[11] Tính tương tác phải được thực hiện rõ và phát huy phổ biến để cung cấp cho con người các thông tin thời gian thực, góp phần cải thiện việc ra quyết định và thủ tục làm việc. Giả sử, sau khi xử lý xong yêu cầu về một TTHC của công dân, các phần mềm sẽ tự đưa ra yêu cầu về bước tiếp theo (thông qua hồ sơ, trả lại hồ sơ, bổ sung hồ sơ ), thời gian quy định về việc thực hiện cũng như bảng biểu, bảng phí đã được niêm yết mà không cần thông qua một bên trung gian thứ ba song vẫn đảm bảo các hoạt động này phải được báo cáo và kiểm soát bởi các cơ quan có chức năng quản lý TTHC nêu trên. Nguyên tắc thứ ba về áp dụng công nghệ 4.0 trong cải cách thủ tục hành chính là tính minh bạch thông tin: Khả năng của những hệ thống thông tin này là có thể tạo ra 1 phiên bản ảo của thế giới thực tế bằng việc làm ra những mô hình nhà máy kỹ thuật số bằng dữ liệu cảm biến. Điều này yêu cầu sự tập hợp những 35
  39. dữ liệu cảm biến thô đến thông tin ngữ cảnh cùng với các dữ liệu cá nhân đã được số hóa. Tức là sẽ có một thế giới ảo mô phỏng hệ thống thực về quản lý tất cả các TTHC có mô phỏng về cấp bậc quản lý cũng như thẩm quyền quản lý giống hệt đời thực. Ở đó, các thủ tục (bao gồm tên thủ tục; hồ sơ; trình tự; cách thức thực hiện; cơ quan thực hiện; đối tượng thực hiện; kết quả của thủ tục; yêu cầu, điều kiện (nếu có); mẫu đơn, tờ khai (nếu có); phí, lệ phí (nếu có) cùng video hướng dẫn cách thực hiện) đều được công khai minh bạch để nhân dân biết, thực hiện và kiểm soát một cách thuận lợi. Ở các ứng dụng CNTT này, quyền được thông tin của người dân phải được xây dựng, lập trình và đưa vào thực hiện một cách nghiêm túc để tạo điều kiện cho người dân tham gia, giám sát hoạt động của cơ quan cung ứng dịch vụ hành chính công trực tuyến nhưng vẫn phải thể hiện rõ chức năng quản lý của nhà nước. Tức là dù áp dụng theo những nguyên tắc nhất định của lĩnh vực kỹ thuật công nghệ song vẫn phải tuân theo những nguyên tắc chung về phân cấp, phân quyền quản lý nhà nước; trong đó Chính phủ vẫn luôn được cấp quyền cao nhất tương ứng với cơ quan hành pháp cao nhất (cơ quan chấp hành và điều hành của Quốc hội) thực hiện quyền hành pháp cao nhất đối với toàn dân, toàn xã hội. Tiếp theo đó là các Bộ, ban ngành cùng các cấp hành chính thấp hơn. Nguyên tắc thứ tư về áp dụng công nghệ 4.0 trong cải cách thủ tục hành chính là các ứng dụng CNTT được áp dụng phải trở thành các công nghệ hỗ trợ con người: Đầu tiên là việc tạo ra hệ thống hỗ trợ con người bằng việc tập hợp và hình dung dữ liệu thông tin một cách bao quát, từ đó tạo ra những quyết định, thông báo rõ ràng và giải quyết những vấn đề khẩn cấp qua những ghi chú ngắn gọn đến công dân. Tiếp theo, là những công nghệ hỗ trợ này phải có những khả năng của những hệ thống không gian mạng - vật lý để hỗ trợ con người thực hiện 36
  40. những nhiệm vụ không dễ chịu, không tiện lợi hay tốn quá nhiều sức lực. Ví dụ các ứng dụng CNTT này không đơn giản là một ứng dụng thông thường mà ở đó tích hợp các tính năng như: Nhận diện giọng nói của con người dùng để áp dụng cho người khiếm thị, lập trình việc sử dụng các ký hiệu đặc trưng của người khiếm thính, nhận diện khuôn mặt, nhận diện vân tay để xác thực các tài khoản Tức là ở đây, các giải pháp CNTT sẽ trở thành các công cụ hỗ trợ cho các nhà quản lý hành chính và công dân trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ hành chính của mình. 1.4. Tiêu chí áp dụng Cách mạng công nghiệp 4.0 cho cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mang đến những tiện ích có khả năng thay thế các cán bộ tư pháp trong nhiều khâu của TTHC. Trong bối cảnh này, người dân và doanh nghiệp bức thiết đòi hỏi bộ máy hành chính cũng phải thực sự đổi mới, ứng dụng CNTT, thực hiện dịch vụ công trực tuyến, đơn giản hóa TTHC, thì mới đáp ứng được yêu cầu của người dân và doanh nghiệp. Để sự thay đổi này diễn ra một cách đồng bộ và hiệu quả thì phải có những bộ tiêu chí nhất định được áp dụng nhằm điều chỉnh quan hệ pháp luật mới được hình thành. Một là, phải đảm bảo được tính đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng, kịp thời, dễ hiểu, dễ sử dụng cho người dân khi tham gia các quan hệ pháp luật hành chính. Nhanh chóng kịp thời là đặc trưng của hoạt động hành chính, vậy khi cải cách TTHC thì tiêu chí này cũng phải được đặt lên hàng đầu; tức là các văn bản pháp luật quan trọng về thủ tục hành chính cụ thể đều quy định về thời hiệu xử lý, thời hiệu thi hành quyết định xử lý, thời hạn thực hiện từng bước, từng hành động của TTHC. Bên cạnh đó, đơn giản, dễ dàng tức là tạo điều kiện tối đa cho người dân trong việc tiếp cận và dễ thi hành từ đó mọi công dân đều có thể tham 37
  41. gia các TTHC nhằm bảo vệ quyền của mình hoặc của tổ chức hoặc công dân khác. Các tiêu chí như đơn giản, thuận tiện, thêm vào đó là nhanh chóng, kịp thời sẽ giúp tiết kiệm tiền bạc, thời gian, phương tiện cho cả người dân và Nhà nước. Do đó, trong bối cảnh Cách mạng công nghệ 4.0 đang sục sôi, việc áp dụng các ứng dụng công nghệ và để cải cách TTHC là điều cần thiết và phải thực hiện ngay. Việc áp dụng CNTT, điện toán dữ liệu và thậm chí cả trí tuệ nhân tạo trong việc giải quyết TTHC sẽ giúp quy trình diễn ra nhanh hơn, tốn ít sức người hơn, dữ liệu thu thập đầy đủ hơn, quyết định được đưa ra nhanh chóng và độc lập hơn bởi lẽ CNTT sẽ xử lý triệt để được tính chủ quan, sự áp đặt cũng như tính tình cảm hóa của con người vào trong quá trình xử lý đơn thư,yêu cầu, điều kiện, thủ tục; vì nó được quy trình hóa, máy hóa. Dẫu biết việc áp dụng công nghệ mới vào một lĩnh vực bất kỳ của xã hội sẽ vấp phải rào cản nhất định đến từ nhận thức, thói quen, truyền thống của cán bộ quản lý và cả người dân tham gia vào các quan hệ hành chính. Do đó, khi áp dụng công nghệ 4.0, nếu chỉ tính đến tính nhanh chóng và kịp thời không là chưa đủ; nhà quản lý phải đặt tính thuận tiện, dễ tiếp cận của người dân với các công nghệ mới lên hàng đầu để các chính sách cải cách không chỉ nằm trên lý thuyết. Ngoài ra, với mục tiêu “kiến tạo”, các dịch vụ công được cung cấp sẽ sử dụng công nghệ mới như kết nối vạn vật với internet (IoT), dữ liệu lớn (Big Data), trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán đám mây (Cloud) phải đáp ứng và cung cấp được những dịch vụ được cá biệt hóa, không phụ thuộc thời gian, không gian và nguồn dữ liệu, có thể đáp ứng yêu cầu của công dân một cách tức thời, nhanh chóng. Tức là nếu như một cá nhân muốn đăng ký kinh doanh thì có thể nộp hồ sơ thì dù anh ta đang vị trí địa lý nào, vào bất kỳ khung giờ nào cũng đều có thể nộp hồ sơ đăng ký; kết quả cũng sẽ được trả về ngay sau khi các thuật toán được chạy và báo cho cá nhân đăng ký kinh 38
  42. doanh được biết. Chỉ có như thế, việc áp dụng công nghệ 4.0 vào quản lý TTHC mới thực sự hiệu quả và đáp ứng được sự mong đợi của nhân dân, theo kịp các quốc gia tiến bộ trên thế giới. Hai là, đảm bảo tính công khai minh bạch thông tin là một trong nhũng tiêu chí quan trọng để thực hiện mục tiêu cải cách TTHC trong thời đại 4.0. Theo từ điển tiếng Việt, công khai là “việc không giữ kín, mà để cho mọi người đều có thể biết” còn minh bạch là “rõ ràng, rành mạch, không có gì mờ ám, khuất tất, úp mở”. Khi thực hiện giải quyết các công việc cụ thể, nhất là những công việc liên quan đến quyền lợi của người dân, đến thủ tục ban hành các quyết định hành chính quan trọng đều phải được thông báo rộng rãi, giải thích tỉ mỉ cho đối tượng thi hành được biết, để được tiếp cận, đóng góp và phản hồi ý kiến. Trong hoạt động quản lý các TTHC nhà nước trong bối cảnh Cách mạng công nghệ 4.0 , công khai nghĩa là mọi hoạt động quản lý của nhà nước phải được công bố hoặc phổ biến, truyền tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, làm cho mọi người dân có thể tiếp cận được các quyết định hành chính, chính sách pháp luật của nhà nước một cách dễ dàng; minh bạch nghĩa là không những phải công khai mà còn phải trong sáng, không khuất tất, không rắc rối, không gây khó khăn cho công dân trong tiếp cận thông tin. Cơ quan nhà nước sẽ phải thực hiện quản lý hành chính thông qua việc chia sẻ dữ liệu, thông tin, tri thức trên môi trường mạng. Tất cả các văn bản quy phạm pháp luật phải được cung cấp đầy đủ trên các ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan Nhà nước, ngoài ra phải liên tục cập nhật về hiệu để phù hợp với thực tiễn; tất cả các quy trình, thủ tục trao đổi văn bản điện tử giữa các cơ quan Nhà nước, lưu trữ hồ sơ điện tử, sử dụng chữ ký số trong văn bản điện tử, kết nối, chia sẻ dữ liệu,đều phải được công khai minh bạch để phù hợp với phương châm toàn dân: "Dân 39
  43. biết, dân bàn, dân làm, dân hưởng thụ". Theo đó, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 dành 23 điều, từ điều 11 đến điều 33 quy định về công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Hầu hết các điều khoản đều có mục tiêu trực tiếp là bảo đảm và nâng cao tính công khai, minh bạch trong các lĩnh vực và hoạt động khác nhau của bộ máy hành chính nhà nước trong đó có TTHC. Quản lý bộ máy hành chính có rất nhiều hoạt động với rất nhiều những TTHC khác nhau. TTHC vốn dĩ được quy định để các cơ quan nhà nước có thể thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước, bao gồm: Trình tự thành lập các công sở; trình tự bổ nhiệm, bãi nhiệm, điều động cán bộ, công chức; trình tự lập quy, áp dụng quy phạm pháp luật để đảm bảo các quyền chủ thể, trình tự điều hành, tổ chức các tác nghiệp hành chính Bên cạnh đó, TTHC có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và đời sống nhân dân. Thông qua TTHC, các cá nhân, tổ chức thực hiện được quyền lợi, nghĩa vụ của mình đồng thời các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Chính bởi sự quan trọng và tính ảnh hưởng trực tiếp đến xã hội của TTHC, nên cần có sự công khai và minh bạch trong cách quản lý hành chính nhà nước nhất là khi những công nghệ số được áp dụng, chúng sẽ thay thế một phần hay toàn bộ con người ở một số loại TTHC. Sử dụng các ứng dụng hay tính năng mới này tức là đồng nghĩa với việc công dân sẽ tương tác nhiều hơn trên máy tính, sử dụng nhiều hơn các tính năng được kết nối thông qua internet mà không cần trực tiếp đến các công sở hành chính như cách làm truyền thống lâu nay. Chính bởi vậy, việc các thông tin, dữ liệu, văn bản pháp luật, quyết định hành chính, bảng biểu, bảng phí được công khai một cách minh bạch thì sẽ giúp công dân cảm thấy thoải mái, dễ dàng hơn khi thực hiện các TTHC từ đó xây dựng niềm tin cho công dân; tạo được niềm tin thì việc quản lý hành chính nhà nước trở nên dễ dàng, thuận tiện hơn. 40
  44. Ba là, dự liệu được những thách thức và rủi ro đặt ra trong vấn đề an ninh mạng và bảo mật thông tin cá nhân đồng thời đưa ra những giải pháp để hạn chế và khắc phục (bao gồm: các vấn đề về an ninh mạng, vấn đề về lỗi hệ thống, vẫn đề về mất cắp và bị mất dữ liệu của công dân). TTHC được quy định nhằm tạo ra trật tự trong hoạt động quản lý của các cơ quan Nhà nước khi tiến hành các hoạt động quản lý của mình. Thông qua đó, các cơ quan quản lý nhà nước giải quyết các công việc của người dân theo luật định, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân. TTHC có vai trò quan trọng trong quản lý hành chính nhà nước. Nếu không có TTHC thì mọi chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước ban hành sẽ khó được thực thi. Có thể nói TTHC là công cụ và phương tiện để đưa pháp luật vào đời sống. Do vậy, TTHC cũng có thể xem là chiếc cầu nối quan trọng giữa cơ quan nhà nước với người dân và các tổ chức, khả năng làm bền chặt các mối quan hệ trong quá trình quản lý, làm cho nhà nước ta thực sự là “Nhà nước của dân, do dân và vì dân”. Nếu như “chiếc cầu” ấy bị tấn công, bị đe dọa thì nền hành chính của cả một quốc gia hay nền hành pháp của một quốc gia có khả năng bị lung lay. Các hoạt động quản lý được liên kết cùng với tốc độ chuyển đổi kỹ thuật số tăng lên đồng nghĩa với việc các cuộc tấn công mạng có thể tác động sâu hơn bao giờ hết. Đặc biệt là khi các nhà vận hành ứng dụng công nghệ trong quản lý hành chính bắt đầu sử dụng các giải pháp Internet vạn vật - IoT (mạng lưới vạn vật kết nối Internet trong đó các thiết bị, phòng ốc và các thiết bị khác được nhúng với các bộ phận điện tử, phần mềm, cảm biến, cơ cấu chấp hành cùng với khả năng kết nối mạng máy tính giúp cho các thiết bị này có thể thu thập, xử lý và truyền tải dữ liệu). Sự cần thiết phải cải thiện an ninh mạng trong Cách mạng 41
  45. công nghiệp 4.0 trở nên quan trọng hơn khi các mối đe dọa này có thể dẫn tới sự bất ổn về cơ sở dữ liệu quốc gia, chính trị cũng như an ninh quốc gia. Dễ dàng nhận thấy, mỗi năm có hàng chục ngàn cuộc tấn công nhằm vào các cơ quan chính phủ, các hệ thống tài chính, ngân hàng, hạ tầng thông tin trọng yếu, trang web của các cơ quan tổ chức, doanh nghiệp tại Việt Nam nhằm đánh cắp thông tin, bí mật nhà nước, thành tựu khoa học công nghệ, sở hữu trí tuệ. Tội phạm công nghệ sử dụng các loại virus, mã độc, vũ khí mạng xuất hiện ngày càng nhiều, một số loại được thiết kế chuyên biệt, hết sức nguy hiểm. Trong khi đó, hệ thống mạng thông tin nước ta còn nhiều lỗ hổng bảo mật nghiêm trọng, không được kiểm tra, đánh giá thường xuyên. Vì vậy, cần có sự phối kết hợp giữa các cơ quan nhà nước và bộ phận công nghệ, các nhà cung ứng phần mềm và mạng máy tính để thiết lập những cơ chế kiểm tra, phòng, chống và ứng cứu để bảo đảm an toàn thông tin cho các dịch vụ thông tin có tính mở; đồng thời cũng cần có giải pháp để tăng cường quản lý, kiểm soát thông tin cá nhân. Bốn là, đảm bảo được quyền riêng tư và quyền con người cho công dân trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Ở các quốc gia khác nhau trên thế giới, quyền riêng tư chính là việc quản lý thông tin cá nhân. Sự xuất hiện của máy tính cá nhân và mạng internet đã đặt ra nhiều vấn đề mới về phương diện pháp lý trong bảo vệ quyền riêng tư. Bằng chứng là tại phiên họp lần thứ 31 của Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc (Human rights Committee- HRC) năm 1988 đã thông qua bình luận chung số 16 để giải thích thêm những khía cạnh của quy định về quyền riêng tư tại Điều 17 Công ước quốc tế và các quyền dân sự và chính trị trong bôi cảnh thời đại CNTT vừa mới bắt đầu. Theo đoạn 10 của bình luận chung số 16, việc thu thập và lưu giữ các thông tin cá nhân trong máy tính, các ngân hàng dữ liệu và các thiết bị khác, cho dù là bởi các quan chức nhà nước 42
  46. hay các thể nhân, pháp nhân khác đều phải được quy định trong pháp luật. Nhà nước phải có những biện pháp hiệu quả để đảm bảo rằng những thông tin cá nhân đó không rơi vào tay những người không được pháp luật cho phép và không bị sử dụng vào các mục đích trái với Công ước. Để đảm bảo bảo vệ đời tư một cách hiệu quả, mỗi cá nhân cần có quyền được biết một cách dễ hiểu, rằng liệu thông tin cá nhân của mình có bị thu thập, lưu giữ tại tệp dữ liệu tự động nào không, và nếu có, thì ở đâu, nhằm mục đích gì, chủ thể quản lý thông tin cá nhân của mình là ai? Thêm vào đó mỗi cá nhân cũng cần có quyền yêu cầu sửa chữa hoặc xóa bỏ thông tin cá nhân của mình nếu thông tin đang được lưu trữ trong các tệp dữ liệu là không chính xác hoặc bị thu thập hay lưu trữ một cách trái pháp luật. Bên cạnh các văn bản pháp lý quốc tế ở quy mô toàn cầu Điều 8 Công ước châu Âu về nhân quyền năm 1950 và điều 11 Công ước châu Âu về nhân quyền năm 1969 cũng đã đưa ra những quy định khung về bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân những văn bản này đã tạo ra hành lang pháp lý cơ bản cho các quốc gia trong bảo vệ quyền riêng tư cho mỗi cá nhân. Con người vừa là chủ thể nhưng cũng là một thực thể của cách mạng công nghiệp 4.0. Con người đang đồng thời là một đối tượng để thu thập dữ liệu và xây dựng các “phiên bản số hóa”. Như vậy, một khi đã coi quyền riêng tư là quyền bảo vệ dữ liệu thì sẽ thấy được những thách thức mà cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với tiền đề chính là CNTT và dữ liệu tạo ra cho việc bảo vệ quyền riêng tư. Chúng ta có thể thấy, con người nếu muốn được thụ hưởng những lợi ích của công nghệ thì các cá nhân phải tiết lộ một số thông tin riêng tư của mình để tự xây dựng một “phiên bản số hóa” của chính mình. Các “phiên 43
  47. bản số hóa” này được tập hợp và lưu trữ tại các máy chủ (server) của các nhà cung cấp dịch vụ mạng internet. Hay nói cách khác tiết lộ thông tin là điều tất yếu của mỗi cá nhân để có thể thụ hưởng hay sử dụng được những thành quả công nghệ. Ví dụ điển hình là khi chúng ta tham gia các trang mạng xã hội như Facebook, Instagram hay Thumb thì đều phải cung cấp những thông tin cá nhân như tên, tuổi, giới tính, quốc tịch để từ đó các dữ liệu kể trên được các trang mạng xã hội (social websites) này tập hợp lại trong mạng máy tính của họ. Và với việc áp dụng các TTHC trong cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư này cũng vậy; khi tất cả những thông tin, dữ liệu về các văn bản quy phạm pháp luật cũng như các thông tin của công dân đều được “số hóa” trên một mạng lưới mô phỏng một hệ thống cơ quan quản lý hành chính ngoài đời thực thì dĩ nhiên nhu cầu bảo mật đặt ra cho những “dữ liệu số hóa” này cũng giống hệt như nhu cầu về bảo mật thông tin cá nhân ngoài đời thực. Thời đại công nghệ số phát triển mang theo hệ lụy là thông tin cá nhân trở thành một loại hàng hóa có giá trị; thông tin cá nhân có thể được bán cho các công ty ở nhiều lĩnh vực khác nhau để phân tích nhu cầu của khách hàng. Ví dụ như khi công dân muốn đăng ký kinh doanh hay đăng ký quyền sở hữu trí tuệ cho một sản phẩm của doanh nghiệp, các nhà mạng có thể thu thập tất cả thông tin này để bán dữ liệu cho các công ty luật cung ứng dịch vụ đăng ký thành lập doanh nghiệp hoặc bán chúng cho các đối thủ cạnh tranh của công ty. Ngoài ra, ở thời đại công nghệ số này, chỉ cần một với một chiếc điện thoại thông minh, một thiết bị kết nối internet; các thông tin riêng tư của một cá nhân hay tổ chức đều có khả năng bị phát tán tràn lan và bị làm cho sai lệch cũng như biến đổi tính chất nhằm mục đích che giấu sự việc hay bôi nhọ danh dự và 44
  48. nhân phẩm của cá nhân hay tổ chức với các mục đích khác nhau. Đôi khi, một cá nhân riêng lẻ có những hành vi như mua hàng qua mạng không trả tiền, trộm cắp đồ bị phát tán hình ảnh trên mạng. Thì ngay lập tức những hình ảnh,tên tuổi, địa chỉ cơ quan, địa chỉ nhà của họ sẽ bị đưa lên mạng phát tán tràn lan và nhận lại những chỉ trích, sự lăng mạ của “cộng đồng mạng”. CNTT- TT chính là con dao hai lưỡi, mặt lợi bao nhiều thì phần hại thu về cũng có một tỉ lệ tương xứng. Do đó, đảm bảo được quyền riêng tư cũng như quyền con người trong thời đại công nghệ 4.0 là vô cùng cấp bách. Không những thế, TTHC với sứ mệnh là “cây cầu” giữa Nhà nước và công dân; liên quan mật thiết đến pháp luật, pháp chế; là yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển chung của đất nước về chính trị, văn hóa, giáo dục và mở rộng giao lưu với các nước trên thế giới. Do đó, đảm bảo quyền riêng tư cho công dân khi thực hiện các giao dịch hành chính trong thời đại công nghệ 4.0 là một trong những tiêu chí quan trọng nếu muốn áp dụng việc quản lý hành chính trong thời đại cách mạng công nghiệp mới. 45
  49. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 2.1. Thực trạng về tình hình cải cách thủ tục hành chính trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (còn được gọi là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ) được nhắc nhiều đến trong vài năm qua đã và đang mang lại cả cơ hội và thách thức, tác động đến tất cả các quốc gia trên thế giớ i. Khoa học - công nghệ thông tin sẽ biến những điều tưởng chừng không thể trở thành có thể. Năng suất, chất lượng và hiệu quả của các dịch vụ hành chính cũng như các hoạt động quản lý sẽ tăng lên; chi phí thực hiện các TTHC, các hoạt động quản lý hành chính sẽ giảm đi; từ đó thúc đẩy tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, nâng cao tính tiện ích cho cuộc sống cá nhân, các tổ chức của nhân cũng như Nhà nước trong hoạt động quản lý các lĩnh vực của xã hội. Đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 này là sự hợp nhất về mặt công nghệ, nhờ đó xóa bỏ ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số, đem lại sự kết hợp giữa hệ thống ảo và thực thể. Từ đó, chúng ta có thể nhìn rõ mục tiêu mà cải cách TTHC hướng tới trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 là khiến cho khâu quản lý hành chính dần được ứng dụng máy móc một cách triệt để, giảm bớt gánh nặng công việc cũng như vai trò của con người. Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, trung tâm của các cuộc cách mạng công nghiệp nằm ở các nước tư bản phát triển, và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cũng không ngoại lệ; theo đó, Việt Nam - một đất nước đang phát triển, chỉ mới đang đặt những viên gạch đầu tiên, bước những bước đi đầu tiên trong tiến trình 46
  50. cải cách TTHC dựa trên những thành tựu khoa học- CNTT của toàn nhân loại trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 Công cuộc cải cách TTHC trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 của Đảng và Nhà nước ta chưa thật sự toàn diện, bao khắp tất cả các lĩnh vực cũng như các hoạt động quản lý hành chính, nhưng chương trình cải cách TTHC đã đổi mới bước đầu bộ mặt đất nước, đổi mới bộ máy hành chính; thể hiện rõ tinh thần, quyết tâm lớn của toàn Đảng, toàn dân nhằm Xây dựng một nền hành chính dân chủ, hiện đại, phục vụ Nhân dân. Tựu chung lại, việc thực hiện chương trình cải cách TTHC trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 được thể hiện và bước đầu đạt được những kết quả nhất định trên hai phương diện: (1) Mô hình Chỉnh phủ điện tử (electronic Government), (2) Xây dựng các bộ chỉ số đánh giá cải cách TTHC (Par Index) và chỉ số hài lòng của người dân khi thực hiện các TTHC (Sipas). 2.1.1. Tình hình áp dụng mô hình Chính phủ điện tử (electronic government) giai đoạn 2016-2020 Trong bài viết Open Governance Systems: Doing more with more, tác giả Jeremy Millard định nghĩa Chính phủ điện tử: “Mô hình Chính phủ điện tử chỉ đơn giản là áp dụng CNTT (ICT) vào hệ thống quản lý nhằm đạt hiệu quả cao hơn, mà không thay đổi nhiều về cấu trúc và quy trình hoạt động của hệ thống”[9]. Trong khi đó, Liên Hợp Quốc định nghĩa Chính phủ điện tử “là việc sử dụng internet và mạng toàn cầu (World-Wide-Web) để cung cấp thông tin và các dịch vụ của chính phủ tới công dân”. [9] Open Governance Systems: Doing more with more, tác giả Jeremy Millard 47
  51. Thứ nhất, “Xây dựng Chính phủ điện tử” nhận được sự chỉ đạo nhất quán của đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước. Trước những yêu cầu cấp thiết về phát triển đất nước và hiện đại hóa nền hành chính; những năm qua việc xây dựng chính phủ điện tử ở Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng nhờ việc ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan hành chính được triển khai một cách đồng bộ từ trung ương đến địa phương với kim chỉ nam là mô hình “Chính phủ điện tử”. Đảng và Nhà nước ta đưa ra nhiều đường lối chính sách về việc ứng dụng CNTT-TT trong phát triển Chính phủ điện tử trong giai đoạn 2016-2020 như: Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 1/7/2014 của Bộ Chính trị khóa XI về việc đẩy dụng , phát triển CNTT đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế; Quyết định số 1819/QĐ-TTg ngày 26/10/2015 phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2016-2020; Nghị quyết số 130-NQ/CP ngày 27/9/2018 về việc quy định chi tiết thi hành luật giao dịch chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số; Quyết định 1017/QĐ-TTg ngày 14/8/2018 phê duyệt đề án giám sát an toàn thông tin mạng đối với hệ thống, dịch vụ CNTT phục vụ chính phủ đến năm 2020 định hướng đến năm 2025; Nghị định 61/2018/NĐ-CP ngày 23/4/2018 về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC; Nghị định số 27/2018/NĐ-CP ngày 1/3/2018 của chính phủ về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 72/2013-NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ về việc quản lỷ, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng; Quyết định số 28/2018/QĐ-TTg ngày 12/07/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc tạo cơ sở pháp lý cho việc gửi, nhận văn bản điện tử giữa các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước. Quyết định số 153 QĐ-TTg ngày 30/1/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình mục tiêu công nghệ thông tin giai đoạn 2016- 2020. Bên cạnh đó, còn có các văn bản Luật được ban hành như: Luật giao dịch 48
  52. điện tử 2005; Luật CNTT 2006; Luật an toàn thông tin mạng 2015; Luật tiếp cận thông tin 2016; Luật an ninh mạng 2018. Thứ hai, chỉ số phát triển Chính phủ điện tử ở Việt Nam mặc dù chậm nhưng đã và đang có những chuyển biến theo hướng tích cực. Mặc dù có những chuyển biến nhất định trong thời gian qua nhưng chất lượng ứng dụng CNTT trong hoạt động của các CQHC ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Theo báo cáo thế giới về chỉ số phát triển Chính phủ điện tử ở vị trí Việt Nam trên bản đồ phát triển chính phủ điện tử của thế giới vẫn chưa được cải thiện. Mặc dù chỉ số chung về xây dựng Chính phủ điện tử vẫn chưa có nhiều chuyển biến nhưng chỉ số về dịch vụ công trực tuyến trong lĩnh vực cải cách TTHC lại có những tín hiệu đáng mừng và đang có những bước tiến bộ nhất định. Năm Chỉ số chung Chỉ số các thành phần Vị trí Dịch vụ công trực tuyến 2010 0.4454 0.1036 90 2012 0.5217 0.4248 83 2014 0.4705 0.4173 99 2016 0.5143 0.5725 89 2018 0.5931 0.7361 88 Bảng 2.1 : Chỉ số phát triển Chính Phủ điện tử ở Việt Nam[10] Nếu xét về cả vị trí lẫn các chỉ số như hạ tầng thông tin, nguồn nhân lực mà nói thì viêc xây dựng “Chính phủ điện tử” ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. [10] Nguồn: United Nations E-Government Survey 2010, 2012, 2014, 2016, 2018 49
  53. Tuy nhiên, nếu chỉ xét riêng ở phương diện các chỉ số về “Dịch vụ công trực tuyến” mà nói thì đã có những chuyển biến lớn trong việc thực hiện các dịch vụ công trực tuyến ở Viêt Nam. Những năm qua, khi thực hiện cải cách TTHC, thì nâng cao chỉ số về dịch vụ công trực tuyến là một trong những mục tiêu chủ yếu; theo đó một số dịch vụ công thiết yếu cho doanh nghiệp và người dân được đặc biệt quan tâm như: Đăng ký doanh nghiệp, kê khai thuế, nộp thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội. Chỉ số về dịch vụ công trực tuyến tăng dần qua các năm, chỉ số dịch vụ công trực tuyến chỉ đạt 0.1036 đã tăng lên đáng kể 0.4248 ở năm 2012 và chạm tới mốc 0.7361 vào năm 2018 và hứa hẹn sẽ tiếp tục tăng.Năm 2016, theo báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông về ứng dụng CNTT cung cấp dịch vụ công trực tuyến, đa số các bộ, ngành, địa phương đã triển khai cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 với tổng số dịch vụ công trực tuyến đạt được là 828 dịch vụ công cấp Bộ, 11.409 dịch vụ công cấp tỉnh. Tại các Bộ, 45.6% số các dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 92,8% số dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 có phát sinh hồ sơ trực tuyến; tương ứng tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là 81.67% và 22.63%[11]. Đến quý IV năm 2018, tổng số dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 4 các bộ, ngành đã cung cấp là 1721 dịch vụ và các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương là 45.247 dịch vụ. Tuy nhiên số lượng dịch vụ công trực tuyến có phát sinh hồ sơ trực tuyến vẫn còn thấp đặc biệt là ở địa phương với kết quả 12,84%; còn với bộ, ngành là 49,85%.[12] Bên cạnh đó, chúng ta phải nhìn nhận một thực tế rằng, mặc dù những trang tin điện tử của Chính phủ khá đầy đủ và có tính cập nhật nhưng vẫn chưa được tuyên truyền rộng rãi và phổ cập truyền thông đến người dân, từ đó dẫn đến [11] [12] Báo cáo số 4310/BTTTT-THH ngày 20/12/2018 của Bộ Thông tin và Truyền thông 50
  54. những hạn chế trong việc sử dụng; theo thống kê của Văn phòng Chính phủ trong quý I/2018 dịch vụ công cấp độ 3, 4 ở nước ta vào khoảng 47.000 dịch vụ nhưng đáng tiếc, số dịch vụ được người dân sử dụng chỉ khoảng 5.000 dịch vụ chiếm khoảng 10% tổng số dịch vụ công trực tuyến, con số này còn có xu hướng giảm mạnh so với quý IV/2017. Ngày 18/7/2018, xét đề nghị của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, thay mặt Thủ tướng, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã ký ban hành Quyết định số 877/QĐ-TTg ban hành Danh mục dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 để các Bộ, ngành, địa phương thực hiện trong các năm 2018- 2019.Theo đó,công bố danh sách 89 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 68 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 thuộc các lĩnh vực thực hiện bao gồm: Năng lượng, Xúc tiến thương mại, Thương mại điện tử, Giáo dục và đào tạo, Quản lý đầu tư ra nước ngoài, Thú y, Thủy sản, Đường bộ, Tài nguyên nước, Viễn thông và internet, CNTT, Báo chí, Dược. Không những thế, Chính phủ khuyến khích các bộ, ngành, địa phương nghiên cứu và cung cấp các dịch vụ công trực tuyến ngoài danh mục đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chỉ cần các dịch vụ công trực tuyến đó đáp ứng và phù hợp với quy định tại Thông tư số 02/2017/TT-VPCP ngày 31 tháng 10 năm 2017 của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ hướng dẫn về nghiệp vụ kiểm soát TTHC và có số lượng giao dịch lớn. Thứ ba, “xây dựng Chính phủ điện tử” đang nhận được sự đồng thuận, góp sức và sự phối kết hợp đến từ tất cả các bộ, ngành, địa phương cũng như doanh nghiệp và các cá nhân trên toàn quốc. Dù rằng việc triển khai ứng dụng CNTT, hiện đại hóa nền hành chính ở một số bộ, tỉnh còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Tỷ lệ cán bộ, công chức được cung cấp hộp thư điện tử chính thức còn 51
  55. ít, hệ thống thư điện tử và hệ thống quản lý văn bản và điều hành chưa được kết nối trên diện rộng, chưa thực sự khai thác hết những tính năng, chức năng của các hệ thống quản lý văn bản và điều hành. Tuy nhiên, số lượng dịch vụ công trực tuyến được cung cấp trên các trang/cổng thông tin điện tử ngày càng tăng, nhưng chủ yếu là dịch vụ công trực tuyến mức độ 1 và 2; còn ít cơ quan, đơn vị cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 4 trong tiếp nhận, xử lý hồ sơ trực tuyến. Bên cạnh đó, nằm trong chương trình triển khai thử nghiệm giải pháp kết nối, liên thông hệ thống quản lý văn bản và điều hành với hệ thống quản lý văn bản của Văn phòng Chính phủ theo 2 cấp hành chính liên thông qua Trục liên thông văn bản quốc gia, hình thành một hệ thống quản lý văn bản điện tử thống nhất từ Trung ương đến địa phương đã nhận được sự quan tâm cũng như sự tham gia tích cực của 76/95 bộ, ngành, địa phương. Không chỉ dừng lại ở trách nhiệm và nghĩa vụ của các cơ quan quản lý hành chính nói chung; xây dựng “Chính phủ điện tử” và đặc biệt là trong lĩnh vực cải cách các vướng mắc về TTHC đang được phối kết hợp một cách trơn tru và nhịp nhàng với các doanh nghiệp về CNTT-TT trong nước. Theo đó, các công nghệ về phát triển Chính phủ điện tử ở Việt Nam đang được các doanh nghiệp Việt làm chủ và triển khai với những kết quả đáng mừng. Các doanh nghiệp CNTT-TT Việt Nam gồm các tập đoàn, công ty tư nhân cho đến các công ty mới khởi nghiệp đều đang tự thân tạo lập và cung cấp cho Chính phủ các giải pháp và ứng dụng công nghệ mới nhất nhằm đáp ứng nhu cầu về đổi mới toàn diện lĩnh vực HC trong thời đại công nghệ 4.0[13] [13] Theo quy định tại Khoản 4 Điều 3 Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/06/2011 của Chính phủ quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước. 52
  56. Cuối cùng, Chính phủ điện tử tại nước ta cũng đã và đang tập trung vào theo sát các xu hướng chính về kỹ thuật-vật lý trong thời đại công nghệ 4.0 trên toàn câu gồm: (1) trí tuệ nhân tạo, (2) Internet kết nối vạn vật (IoT); (3) điện toán đám mây; (4) dữ liệu lớn và phân tích dữ liệu;(5) các nền tảng thông minh;(6) các công nghệ di động và mạng xã hội. Theo đó, trong giai đoạn 2014-2018, chỉ số phát triển Chính phủ điện tử trung bình của thế giới tăng đáng kể từ 0.47( 2014) lên 0.49 (2016) và 2018 đạt 0,55; trong đó chỉ số dịch vụ công trực tuyến tăng đều lần lượt tăng từ 0,37 lên 0,46 rồi 0,57. Cũng theo báo cáo phát triển Chính phủ điện tử của Liên Hợp Quốc năm 2018 thứ hạng Chính phủ điện tử của Việt Nam tăng một bậc so với năm 2016 nhưng vẫn đứng ở vị trí trung bình ở thế giới (88/ 193) và xếp thừ 24/47 Châu, ở khu vực Đông Nam Á xếp thứ 6/11 quốc gia sau Singapore Malaysia, Brunei, Thái Lan, Philippines. [13] Theo quy định tại Khoản 4 Điều 3 Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/06/2011 của Chính phủ quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước thì: Dịch vụ công trực tuyến là dịch vụ hành chính công và các dịch vụ khác của cơ quan nhà nước được cung cấp cho các tổ chức, cá nhân trên môi trường mạng. Dịch vụ công trực tuyến mức độ 3: là dịch vụ công trực tuyến mức độ 2 và cho phép người sử dụng điền và gửi trực tuyến các mẫu văn bản đến cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ. Các giao dịch trong quá trình xử lý hồ sơ và cung cấp dịch vụ được thực hiện trên môi trường mạng. Việc thanh toán lệ phí (nếu có) và nhận kết quả được thực hiện trực tiếp tại cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ. Dịch vụ công trực tuyến mức độ 4: là dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và cho phép người sử dụng thanh toán lệ phí (nếu có) được thực hiện trực tuyến. Việc trả kết quả có thể được thực hiện trực tuyến, gửi trực tiếp hoặc qua đường bưu điện đến người sử dụng. 53
  57. Khu vực/ Quốc gia Chỉ số phát triển Chính Chỉ số dịch vụ công phủ điện tử (EGDI) trực tuyến(OSI) Việt Nam 0.5931 0.7361 Đông Nam Á 0.5555 0.5802 Châu Á 0.5779 0.6216 Thế giới 0.5491 0.5691 Bảng 2.2: So sánh chỉ số CPĐT của Việt Nam với mức trung bình của thế giới, khu vực 2018[14] 2.1.2. Các chỉ số về cải cách thủ tục hành chính Par Index và chỉ số đánh giá mức độ của người dân về thủ tục hành chính Sipas giai đoạn 2016-2020 Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 ban hành theo Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ là “Xây dựng Bộ chỉ số theo dõi, đánh giá CCHC ở các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương” Theo đó, Par Index là chỉ số CCHC, là công cụ quan trọng để theo dõi, đánh giá hoạt động CCHC (CCHC) được Bộ Nội vụ ban hành tại Quyết định số 1294/QĐ- BNV ngày 03/12/2012 về phê duyệt Đề án "Xác định chỉ số CCHC của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương" với mục tiêu: Xác định Chỉ số CCHC để theo dõi, đánh giá một cách thực chất, [14] Nguồn: Báo cáo phát triển Chính phủ điện tử của Liên Hợp Quốc năm 2018 54
  58. khác quan, công bằng, kết quả CCHC hàng năm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. PAR Index gồm đánh giá bên trong của cơ quan (có thẩm định của Hội đồng Thẩm định Trung ương) và đánh giá bên ngoài của người dân. Nội dung của Chỉ số được xác định trên 8 lĩnh vực, gồm: Công tác chỉ đạo điều hành CCHC; Xây dựng và tổ chức thực hiện văn bản QPPL; Cải cách TTHC; Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCVC; Đổi mới cơ chế tài chính đối với cơ quan HC và đơn vi ̣sư ̣ nghiêp̣ công lập; Hiện đại hóa nền hành chính; Thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông. Tổng điểm của PAR Index là 100 điểm với phương pháp đánh giá như sau: thông qua kết quả tự chấm điểm của địa phương (đánh giá bên trong) với số điểm tối đa là 62/100 điểm và kết quả điều tra xã hội học (đánh giá bên ngoài) với số điểm tối đa là 38/100 điểm. Tuy nhiên, người viết chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu vào các chỉ số thuộc về hai nội dung của CCHC gắn với thời đại công nghệ 4.0 là: “Cải cách TTHC”, “Hiện đại hóa nền hành chính” Thông qua chỉ số và thông số này sẽ giúp cho công tác theo dõi, đánh giá về cải cách TTHC trở nên dễ dàng nhờ việc xác định được mức độ đạt hoặc hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ, kế hoạch CCTTHC hàng năm của bộ, ngành, địa phương để có giải pháp điều chỉnh cần thiết nhằm đẩy mạnh CCTTHC những năm kế tiếp. 55
  59. 2.1.2.1. Kết quả chỉ số cải cách thủ tục hành chính Par Index giai đoạn 2016-2020 Các chỉ số thành phần đánh giá tác động cải cách thủ tục hành chính cấp Bộ và cơ quan ngang Bộ Năm 2016 Giá trị trung bình của Chỉ số đánh giá tác động của CCHC mà các bộ đạt được là 81.84%. Cụ thể đối với từng nhóm nội dung tác động: “tác động đến chất lượng quy định TTHC” (80.22%); “tác động đến hiện đại hóa hành chính” (83.09%) Năm 2017 Cải cách TTHC tiếp tục cho thấy các bộ còn nhiều tồn tại, cải cách TTHC và hiện đại hóa hành chính đều có giá trị trung bình dưới 80%; cải cách TTHC bị hạn chế trong việc thực hiện các nội dung công bố, công khai TTHC và tỷ lệ TTHC được giải quyết đúng hạn theo quy định. Trong đó, chỉ số thành phần hiện đại hóa hành chính có giá trị trung bình thấp nhất, 75.61%. Các chỉ số đánh giá kết quả thực hiện cải cách thủ tục hành chính của Bộ và cơ quan ngang Bộ Năm 2016 Công tác chỉ đạo điều hành cải cách TTHC có giá trị trung bình 72.93%. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Bộ Tư pháp; Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Ủy ban Dân tộc và Bộ Giao thông vận tải là 5 đơn vị đứng đầu Chỉ số thành phần cải cách TTHC, đạt kết quả 100%. Bộ Nông nghiệp 56
  60. và Phát triển nông thôn là đơn vị đứng cuối Chỉ số thành phần cải cách TTHC, với kết quả là 61.90%. Trong đó, lĩnh vực hiện đại hóa hành chính có kết quả thấp nhất trong số 8 lĩnh vực của Chỉ số CCHC, với giá trị trung bình 61.15%. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đạt chỉ số thành phần hiện đại hóa hành chính cao nhất 90.48%. Trong khi đó, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có Chỉ số thành phần Hiện đại hóa hành chính thấp nhất với kết quả là 28.57%. Năm 2017 Giá trị trung bình của lĩnh vực cải cách TTHC năm 2017 của các Bộ đaṭ 76.30%. Có 09 Bộ đạt kết quả Chỉ số thành phần cải cách TTHC trên mức giá trị trung bình trên tổng số 19 bộ, bao gồm: Ngân hàng nhà nước Việt Nam; Bộ Ngoại giao; Bộ Thông tin và Truyền thông; Bộ Giáo dục và Đào tạo; Ủy ban Dân tộc; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Thanh tra Chính phủ; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Bộ Y tế là đơn vị đứng cuối Chỉ số thành phần cải cách TTHC, với kết quả là 49.78%. Chính phủ đã ban hành 17 nghị quyết phê duyệt phương án đơn giản hóa TTHC, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư. Ngoài ra, Chính phủ đã ban hành 04 nghị quyết yêu cầu các bộ rà soát, loại bỏ các điều kiện kinh doanh bất hợp lý, hạn chế cạnh tranh lành mạnh và gây cản trở đến hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân, doanh nghiệp. Theo thống kê, đã có hơn 2.000 kiến nghị của người dân, doanh nghiệp về điều kiện kinh doanh đã được Chính phủ giải quyết trong thời gian qua. Điển hình như: Bộ Công Thương, sau khi rà soát đã ban hành phương án cắt giảm 675/1.216 điều kiện kinh doanh của 27 ngành, nghề thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ, đạt tỷ lệ 55,5%. Bộ Nông nghiệp và Phát 57
  61. triển nông thôn đã đề xuất bãi bỏ, sửa đổi 118/345 điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ, chiếm tỷ lệ 34,2%, trong số đó, bãi bỏ 65 điều kiện, sửa đổi theo hướng rút gọn 53 điều kiện[15]. Trên cơ sở đó, các bộ đã tích cực rà soát, đề xuất cắt giảm và đơn giản hóa nhiều TTHC, trên cơ sở là qui định tại Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP; nhất là việc bãi bỏ các thành phần hồ sơ không phù hợp, loại bỏ nhiều điều kiện kinh doanh, rút ngắn thời gian giải quyết TTHC, tạo mọi thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp khi thực hiện TTHC. Kết quả Chỉ số CCHC năm 2017 cho thấy, lĩnh vực hiện đại hóa hành chính có kết quả thấp nhất trong số 7 lĩnh vực, với giá trị trung bình 75.61%. Bộ Công Thương có kết quả 94.68%, đứng đầu Chỉ số thành phần hiện đại hóa hành chính. Trong khi đó, Ủy ban Dân tộc với kết quả 34.31%, xếp vị trí 19 tại lĩnh vực hiện đại hóa hành chính (Bảng 9). Khoảng cách giữa đơn vị đứng đầu là Bộ Công Thương với đơn vị xếp cuối cùng, Ủy ban Dân tộc là 60.37%. Các bộ, ngành đã có nhiều nỗ lực trong việc đầu tư, nâng cấp hạ tầng kỹ thuật để triển khai đồng bộ các nhiệm vụ ứng dụng CNTT được giao tại Nghị quyết số 36a/NQ-CP của Chính phủ và Quyết định số 1819/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, các Nghị quyết và quyết định của Chính phủ đều đi sát với 6 tiêu chí chính để cải thiện lĩnh vực hiện đại hóa hành chính gồm: “ứng dụng CNTT”, “cung cấp dịch vụ công trực tuyến”, “thực hiện tiếp nhận hồ sơ”, “trả kết quả giải quyết TTHC qua dịch vụ bưu chính công ích”, “áp dụng hệ thống quản lý chất lượng (ISO 9001) theo quy định” và cuối cùng là “tác động của cải cách đến hiện đại hóa hành chính.” [15] Theo Báo cáo số 04/BC-BCĐCCHC ngày 13/02/2018 của Ban Chỉ đạo CCHC của Chính phủ 58
  62. Năm Chỉ số tổng Chỉ số thành phần đánh Chỉ số thành phần hợp giá tác động CCHC đánh giá kết quả CCHC Cải cách Hiện đại Cải cách Hiện đại TTHC hóa HC TTHC hóa HC 2016 80.94% 80.22% 83.09% 72.93% 61.15% 2017 79.92% 80% 75.61% 76.30% 75.61% Bảng 2.3: Bảng chỉ số CCHC PAR INDEX của Bộ và cơ quan ngang Bộ[16] Các chỉ số thành phần đánh giá kết quả thực hiện cải cách thủ tục hành chính của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Năm 2016 Cải cách TTHC, đạt giá trị trung bình 82,98%. Có 09/63 địa phương đạt tỷ lệ điểm tối đa ở Chỉ số thành phần Cải cách TTHC, gồm có: Đà Nẵng, Hà Nội, Phú Yên, Lạng Sơn, Hải Phòng, Quảng Ninh, Tuyên Quang, Bắc Giang, Thái Nguyên. 02 địa phương có kết quả Chỉ số thành phần Cải cách TTHC thấp nhất trong năm 2016 là Hải Dương và Hậu Giang, cùng đạt 58,33%. Lĩnh vực hiện đại hóa hành chính có giá trị trung bình thấp nhất với kết quả đạt 37,11%. Đà Nẵng là đơn vị dẫn đầu về Chỉ số thành phần này với tỷ lệ điểm đạt 77,78%, đơn vị đứng cuối bảng xếp hạng là tỉnh Lai Châu chỉ đạt tỷ lệ điểm là 5,56%. [16] Nguồn: Báo cáo về chỉ số cải cách hành chính Par Index 2016, 2017 59
  63. Năm 2017 Dựa trên việc phân tích giá trị trung bình của 07 Chỉ số thành phần, chúng ta có thể dễ nhận thấy Chỉ số thành phần có giá trị trung bình cao nhất là Chỉ số cải cách TTHC với 86.08%. Tuy nhiên, chỉ số thành phần hiện đại hóa hành chính có kết quả thấp nhất trong 7 chỉ số thành phần với mức đạt 62.12%. Song, chỉ số này đã thể hiện sự tiến bộ vượt bậc, khi tăng 25,01% so với năm 2016 (37,11%). Kết quả này cũng phản ánh đúng thực tế khi trong năm 2017, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương đã dành sự quan tâm đặc biệt cho công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, nhất là việc rà soát, cắt giảm các điều kiện kinh doanh, các TTHC không cần thiết, không hợp lý. Số liệu thống kê cho thấy, các bộ, ngành đã kiến nghị cơ quan có thẩm quyền cắt giảm và đơn giản hóa đối với hàng trăm điều kiện kinh doanh, tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp khởi nghiệp và phát triển; tiếp theo đó, các địa phương đã tích cực rà soát, không ngừng đổi mới quy trình, phương pháp làm việc để rút ngắn thời gian giải quyết TTHC, tạo thuận lợi tối đa cho người dân, doanh nghiệp. Năm 2017, các địa phương đã quan tâm đầu tư và triển khai mạnh mẽ các nội dung về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước và trong cung cấp dịch vụ công. Hầu hết các địa phương đã đẩy mạnh việc sử dụng phần mềm quản lý điều hành thông suốt giữa các cấp chính quyền; tỷ lệ văn bản trao đổi điện tử ngày càng tăng cao. Bên cạnh đó, người dân, doanh nghiệp bắt đầu quen dần với việc sử dụng dịch vụ công trực tuyến, tỷ lệ sử dụng ngày càng cao, nhất là ở các lĩnh vực tư pháp, giao thông vận tải, kho bạc, thuế, hải quan 60
  64. Năm Chỉ số tổng hợp Chỉ số thành phần đánh giá kết quả thực hiện trung bình cải cách HC Cải cách TTHC Hiện đại hóa HC 2016 74.64% 82.98% 37.11% 2017 77.72% 86.09% 62.12% Bảng 2.4: Bảng chỉ số CCHC PAR INDEX của tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương[17] Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước- SIPAS Năm 2015 Đây là lần đầu tiên Bộ Nội vụ tiến hành đo lường, xác định chỉ số hài lòng của người dân trên phạm vi cả nước. 06 TTHC được chọn khảo sát là những TTHC có liên quan mật thiết tới đời sống của người dân, được người dân và xã hội đặc biệt quan tâm, bao gồm cả các thủ tục phức tạp, khó khăn cũng như các thủ tục đơn giản, dễ dàng. 6 TTHC được lựa chọn khảo sát bao gồm: Thủ tục cấp Giấy chứng minh nhân dân; Thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất - Xây dựng; Thủ tục cấp Giấy phép xây dựng nhà ở; Thủ tục cấp Giấy đăng ký kết hôn; Thủ tục chứng thực; Thủ tục cấp Giấy khai sinh. Phân tích chỉ số SIPAS 2015, Bộ Nội vụ cho rằng, chỉ số hài lòng thấp nhất là 70%, cao nhất là trên 80%, đó là con số khá cao. Kết quả SIPAS 2015 [17] Nguồn: Báo cáo về chỉ số cải cách hành chính Par index 2016, 2017 61
  65. cho thấy, người dân đánh giá tốt về kết quả giải quyết TTHC. Con số hài lòng về toàn bộ quá trình giải quyết TTHC là: Thủ tục cấp CMND: 83,4%; Thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: 74,4%; Thủ tục cấp giấy phép xây dựng nhà ở: 78,4%; Thủ tục chứng thực: 86%; Thủ tục kết hôn: 89,5%; Thủ tục cấp giấy khai sinh: 87,5% [18] Qua khảo sát cho thấy, hình thức tiếp cận thông tin phổ biến mà người dân thường sử dụng với các TTHC là thông qua chính quyền phường, xã (62% - 76%), tiếp đến là hình thức hỏi người thân, bạn bè (11% - 17%), chỉ có từ 4% - 8% người dân sử dụng hình thức tiếp cận qua mạng. Từ đó cho thấy, để Chính phủ điện tử thành công, để người dân thành công dân điện tử thì cần tuyên truyền nhiều cũng như tạo điều kiện để người dân tiếp cận mạng. Đáng lưu ý, toàn bộ 6 THHC được khảo sát đều có tình trạng người dân phải trả thêm tiền ngoài lệ phí, phí phải nộp/không nộp theo quy định. Hiện nay, 2 loại TTHC mà dân không phải nộp phí, lệ phí là giấy đăng ký kết hôn, giấy khai sinh, lại là 2 thủ tục có nhiều người trả tiền ngoài quy định nhất (20% - 30% số người được hỏi). SIPAS cũng đưa ra những công bố về chỉ số đánh giá mức độ hài long của người dân về đánh giá chất lượng TTHC dựa trên ba tiêu chí: (1) sự công khai đầy đủ các quy định về TTHC; (2) sự đơn giản, dễ kê khai của hồ sơ làm TTHC; (3) sự thuận tiện trong thực hiện quy trình giải quyết TTHC. Thứ nhất, sự công khai đầy đủ các quy định về TTHC Có 55,5% - 71,7% người dân được hỏi cho rằng các quy định về TTHC liên quan đến công việc của bản thân họ đã được công khai đầy đủ. Thủ tục cấp Giấy [18] Báo cáo về chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước- SIPAS 2015+2017 62
  66. chứng nhận quyền sử dụng đất được đánh giá thấp nhất về sự công khai đầy đủ các quy định về TTHC, chỉ có 55,5% người dân được hỏi đồng ý. Thủ tục cấp Giấy đăng ký kết hôn được đánh giá tốt nhất về nội dung này, với tỷ lệ 71,7% người dân được hỏi đồng ý. Thứ hai, về sự đơn giản, dễ kê khai của hồ sơ làm TTHC Trong 06 TTHC được khảo sát, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có hồ sơ phức tạp, khó kê khai nhất, chỉ có 49,2% số người được hỏi cho rằng đơn giản, dễ kê khai và tiếp đến là thủ tục cấp Giấy phép xây dựng nhà ở, với tỷ lệ là 56,1%. Thủ tục đăng ký kết hôn có hồ sơ được đánh giá đơn giản, dễ kê khai nhất, với tỷ lệ 71,3% số người được hỏi đánh giá; 03 thủ tục còn lại có 60% và trên 60% số người được hỏi cho rằng hồ sơ đơn giản, dễ kê khai. Tuy nhiên, số người được hỏi cho rằng các hồ sơ phức tạp, khó kê khai cũng không nhiều, chỉ từ 1% - 4,7% số người được hỏi. Cuối cùng là tiêu chí đảm bảo sự thuận tiện trong thực hiện quy trình giải quyết TTHC Ở tiêu chí này, người dân đánh giá không cao về sự thuận tiện trong thực hiện quy trình giải quyết TTHC của 06 TTHC được khảo sát. Mặc dù số người cho rằng quy trình giải quyết TTHC là phức tạp, khó khăn chiếm tỉ lệ khá thấp, từ 0,7% - 5% số người được hỏi nhưng số người dân đánh giá là dễ dàng, thuận tiện cũng không cao lắm, từ 49,4% - 70,6% số người được hỏi. Cũng tương tự như đánh giá về sự đơn giản, dễ kê khai của hồ sơ TTHC, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhận được ít đánh giá tích cực nhất (49,4%) và thủ tục cấp Giấy đăng ký kết hôn nhận được nhiều đánh giá tích cực nhất (70,6%). 63