Đề tài Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam

docx 32 trang thiennha21 16/04/2022 4360
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxde_tai_tinh_hinh_xuat_nhap_khau_nganh_det_may_viet_nam.docx

Nội dung text: Đề tài Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam

  1. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 1
  2. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. LỜI CẢM ƠN Em xin gửi lời trân trọng cảm ơn đến ban giám hiệu trường ĐH Công Nghiệp đã tạo mọi điều kiện cho em trong các năm học để em có thể học tốt các môn học. Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến cho Giảng viên dạy em môn Kinh tế Vi mô, cũng như Giảng viên hướng dẫn chuyên đề- là người cho em có cơ hội được hoàn tất chuyên đề này. Vì sự nghiên cứu còn giới hạn, nên bài nghiên cứu còn nhiều sai sót, mong thầy bỏ qua. Em xin chân thành cảm ơn! Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 2
  3. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU 1. Mục tiêu nghiên cứu 5 2. Đối tượng nghiên cứu5 3. Phạm vi nghiên cứu5 4. Kết cấu chuyên đề5 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT KINH TẾ VI MÔ 1.1. Khái quát về kinh tế vi mô 1.1.1. Khái quát về kinh tế học6 1.1.2. Kinh tế vi mô 6 1.2. Cung cầu hàng hóa và giá cả thị trường 1.2.1. Cầu6 1.2.2. Cung 7 1.2.3. Cân bằng cung cầu- Giá cả9 1.2.4. Chính sách nhà nước 11 1.3. Lý thuyết về hành vi của người tiêu dùng 1.3.1. Thuyết hữu dụng 12 1.3.2. Đường bàng quan (đường đẳng ích) 12 1.4. Lý thuyết doanh nghiệp 1.4.1. Phân tích chi phí 13 1.4.2. Thị trường cạnh tranh hoàn toàn 15 1.4.3. Thị trường độc quyền hoàn toàn 15 1.4.4. Thị trường cạnh tranh không hoàn toàn 16 CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM TRONG CÁC NĂM GẦN ĐÂY- GIẢI PHÁP ĐỀ RA 2.1. Tổng quan ngành dệt may Việt Nam 18 2.2. Thực trạng xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam 2.2.1. Nhập khẩu 19 2.2.2. Xuất khẩu 20 2.3. Nhận xét về tình hình xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam 2.3.1. Thuận lợi 24 2.3.2. Khó khăn 25 2.4. Một số giải pháp đề ra 26 CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ MÔN HỌC 3.1. Giảng dạy học phần Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 3
  4. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. 3.1.1. Giáo trình, tài liệu học tập, giảng viên 30 3.1.2. Cơ sở vật chất 30 3.1.3. Tính thiết thực, hữu ích của môn học 30 3.2. Một số giải pháp đề ra nhằm cải thiện học phần 30 KẾT LUẬN 31 TÀI LIỆU THAM KHẢO 32 Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 4
  5. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. LỜI MỞ ĐẦU 1. Mục tiêu nghiên cứu Với tư cách là một sinh viên trường Đại học Công nghiệp, đã và đang học tập tại trường, nay em xin thực hiện chuyên đề môn học. Với mục đích thống kê lại kiến thức một môn học đã được học, em chọn môn học Kinh tế vi mô, là môn học nghiên cứu Kinh tế cơ bản nhằm hệ thống lại kiến thức cho bản thân. Bên cạnh đó, qua thực tế, tin tức và tìm hiểu, em nhận thấy ngành dệt may Việt nam là một ngành rất có tiềm năng phát triển và hội nhập với thế giới, đặc biệt là ngành Xuất khẩu dệt may, với những bước tiến vươn ra thị trường thế giới và được đón nhận, khẳng định mình. Tuy nhiên vẫn còn những khó khăn xung quanh, bao gồm cả nguyên nhân khách quan và cả chủ quan. Vì vậy, em xin được chọn nghiên cứu đề tài: “TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM QUA CÁC NĂM” với mong muốn tìm hiểu về thực trạng xuất nhập khẩu Việt Nam cũng như tìm hiểu những biện pháp cải thiện để phát triển ngành Xuất nhập khẩu Việt Nam. 2. Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu tổng quát về thực trạng, tình hình Xuất nhập khẩu dệt may Việt nam qua các năm, cũng như khái quát sơ về Lịch sử ngành dệt may Việt Nam. Đặc biệt đi sâu vào ngành xuất khẩu dệt may. Từ đó, đưa ra những định hướng, biện pháp nhằm cải thiện tình hình xuất nhập khẩu Dệt may Việt Nam. 3. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu đề tài thông qua các kênh tin tức, báo đài, Internet để tìm hiểu về thực trạng xuất nhập khẩu dệt may Việt Nam,cũng như đề ra biện pháp cải thiện. Ngoài ra em có tham khảo giáo trình Kinh tế vi mô ĐH Công Nghiệp và ĐH Kinh tế để tổng hợp lý thuyết. 4. Kết cấu chuyên đề Chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận thì bao gồm có 3 chương: - Chương 1: TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT KINH TẾ VI MÔ - Chương 2: TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM QUA CÁC NĂM - GIẢI PHÁP ĐỀ RA - Chương 3: NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ MÔN HỌC Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 5
  6. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT KINH TẾ VI MÔ 1.1. Khái quát về kinh tế vi mô 1.1.1. Khái quát về kinh tế học Khái niệm: Kinh tế học là một môn khoa học xã hội nghiên cứu việc lựa chọn cách sử dụng hợp lý các nguồn lực khan hiếm để sản xuất ra những sản phẩm và dịch vụ nhằm thỏa mãn cao nhất nhu cầu cho mọi thành viên trong xã hội. Theo góc độ nghiên cứu, kinh tế học được chia thành hai ngành nhỏ: kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô. 1.1.2. Kinh tế vi mô Kinh tế vi mô là môn khoa học quan tâm đến việc nghiên cứu, phân tích, lực chọn các vấn đề kinh tế cụ thể của các tế bào kinh tế trong một nền kinh tế. Hay nói cách khác, kinh tế vi mô nghiên cứu nền kinh tế ở góc độ chi tiết, riêng lẻ; nghiên cứu các cách thức mà các doanh nghiệp, các hộ gia đình ra quyết định tác động lẫn nhau trong một thời hạn nào đó như các vấn đề về cung cầu, giá cả thị trường, thái độ người tiêu dùng và người sản xuất trong các quyết định kinh tế Kinh tế vi mô hướng đến việc nghiên cứu một khía cạnh của hành vi kinh tế, trong khi ít quan tâm đến mối quan hệ trực tiếp với phần còn lại của nền kinh tế để giữ cho việc phân tích được đơn giản hóa. 1.2. Cung cầu hàng hóa và giá cả thị trường 1.2.1. Cầu Khái niệm: Cầu về một loại hàng hoá biểu thị những khối lượng hàng hoá mà người tiêu dùng mong muốn và sẵn sàng mua tương ứng với các mức giá xác định. Nói đến cầu là nói về một loại hàng hoá cụ thể, trước hết ta quan tâm đến khối lượng hàng hoá mà người tiêu dùng muốn mua và có khả năng mua trong giới hạn một khoảng thời gian nào đó. Khối lượng này lại tuỳ thuộc vào từng mức giá của hàng hoá ở thời điểm mà người tiêu dùng ra quyết định. Khi giá hàng hoá thay đổi, lượng hàng mà người tiêu dùng muốn mua cũng sẽ thay đổi. Vì thế, cầu về một loại hàng hoá, thực chất, biểu thị mối quan hệ giữa hai biến số: một bên là lượng hàng hoá mà người tiêu dùng muốn và có khả năng mua, một bên là các mức giá tương ứng. Lượng hàng hoá mà người tiêu dùng sẵn lòng mua được gọi là lượng cầu hay mức cầu về hàng hoá. Lượng cầu luôn gắn với một mức giá cụ thể. Thứ hai, khi thể hiện quan hệ giữa lượng cầu và giá cả hàng hoá, chúng ta giả định rằng các yếu tố khác có liên quan đến nhu cầu của người tiêu dùng như thu nhập, sở thích v.v. là xác định. Nói cách khác, một quan hệ cầu cụ thể về một loại hàng hoá được xem xét trong điều kiện các yếu tố khác được coi là đã biết và được giữ nguyên, không thay đổi. Ớ đây, điều người ta quan tâm là lượng cầu thay đổi như thế nào khi các mức giá của hàng hoá thay đổi. Thứ ba, khái niệm mức giá được đề cập ở đây là mức giá hiện hành của chính hàng hoá mà chúng ta đang xem xét. Mức giá của chính hàng hoá này nhưng được hình thành ở thời điểm khác (chẳng hạn mức giá dự kiến trong tương lai) hay mức giá của các hàng hoá khác được coi là các yếu tố khác. Thứ tư, ta có thể đề cập tới cầu cá nhân của một người tiêu dùng, song cũng có thể nói đến cầu của cả thị trường như là cầu tổng hợp của các cá nhân. Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 6
  7. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. Cách biểu thị cầu: Có thể biểu thị cầu về một loại hàng hoá theo nhiều cách khác nhau: thông qua một biểu cầu, một phương trình đại số hay một đồ thị. Biểu cầu thể hiện quan hệ cầu về một loại hàng hoá trong một khoảng thời gian nào đó thông qua hai dãy số liệu tương ứng với nhau. Biểu cầu bao gồm hai cột (hay hai hàng) số liệu: một cột (hay hàng) thể hiện các mức giá của hàng hoá ta đang phân tích, cột (hay hàng) còn lại thể hiện những lượng cầu khác nhau, tương ứng. Ví dụ, bảng 2.1 là một biểu cầu thể hiện nhu cầu của những người tiêu dùng về thịt bò trong một khoảng thời gian giả định nào đó. Bảng 2.1: Cầu về thịt bò của một người tiêu dùng Mức giá (nghìn đồng/kg) Lượng cầu (kg) 40 60.000 50 55.000 60 50.000 70 45.000 80 40.000 90 35.000 100 30.000 Biểu cầu chỉ cho ta một hình dung nhất định về cầu của người tiêu dùng theo những mức giá “rời rạc” khác nhau. Mặc dù trên thực tế, các mức giá trên thị trường xuất hiện như những giá trị “rời rạc”, nhưng sẽ là cồng kềnh, và không khái quát khi chúng ta muốn biểu thị phản ứng mua hàng của người tiêu dùng tại quá nhiều mức giá trên một biểu cầu. Vì thế, để có thể diễn đạt quan hệ cầu một cách khái quát hơn, người ta có thể biểu thị cầu dưới dạng các phương trình đại số hay các đồ thị. Hàm số cầu của hàng hoá X biểu thị mối quan hệ giữa lượng cầu hàng hoá đó với các nhân tố ảnh hưởng đến nó trong một thời kỳ nhất định. Nó có dạng tổng quát là: QD = f (PX, R, PY ) Tuy nhiên để đơn giản trong nghiên cứu, hàm số cầu thường chỉ biểu thị mối quan hệ giữa lượng cầu hàng hoá đó với giá cả của chính nó, các nhân tố khác được giả định là không đổi. Do đó: QD = f (PX) Hàm số cầu còn có thể được biểu thị dưới dạng một biểu cầu gồm hai cột: giá và lượng cầu tương ứng. Hàm số cầu thường là hàm nghịch biến và đường biểu diễn của nó gọi là đường cầu. Quy luật cầu: Nếu các điều kiện khác được giữ nguyên, không thay đổi, lượng cầu về một loại hàng hoá điển hình sẽ tăng lên khi mức giá của chính hàng hoá này hạ xuống và ngược lại 1.2.2. Cung Khái niệm: Cung về một loại hàng hoá cho ta biết số lượng hàng hoá mà người sản xuất sẵn sàng cung ứng và bán ra tương ứng với các mức giá khác nhau. Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 7
  8. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. Ớ mỗi mức giá nhất định của hàng hoá mà ta đang xem xét, người sản xuất sẵn lòng cung cấp một khối lượng hàng hoá nhất định. Khối lượng này gọi tắt là lượng cung (Qs). Vì vậy, cung về một loại hàng hoá thực chất thể hiện mối quan hệ giữa hai biến số: lượng cung và mức giá của chính hàng hoá đó, trong một khoảng thời gian xác định. Tương tự như khái niệm cầu, khi nói đến cung về một loại hàng hoá, thứ nhất, trước tiên người ta tập trung vào việc xem xét xem sự thay đổi của biến số giá cả (P) có ảnh hưởng như thế nào đến biến số sản lượng (Q S) trong khi giả định các yếu tố khác có liên quan là được giữ nguyên. Chẳng hạn, khi lựa chọn các quyết định sản xuất, người ta không thể không tính đến sự biến động của giá cả các đầu vào hay sự thay đổi về trình độ công nghệ v.v. Tuy nhiên, để làm nổi bật quan hệ giữa Q S và P, tạm thời các yếu tố này được coi là không đổi và sẽ được khảo sát ở các bước sau. Thứ hai, có thể nói đến cung riêng biệt của một người sản xuất (một doanh nghiệp) hoặc cung nói chung của cả thị trường. Sự khác biệt giữa hai khái niệm này chẳng qua chỉ là sự phân biệt “người sản xuất” (trong định nghĩa về cung nói trên) với tư cách là một nhà sản xuất riêng lẻ hay người sản xuất với tư cách tổng hợp tất cả các nhà sản xuất về một loại hàng hoá nói chung trên thị trường. Cách biểu thị cung: cũng như cầu, người ta có thể biểu thị cung bằng một biểu cung, một hàm số (phương trình đại số) cung hay một đường cung trên một hệ trục tọa độ. Biểu cung là một bảng số liệu gồm hai dãy số liệu đặt tương ứng với nhau. Một dãy số thể hiện các mức giá khác nhau của hàng hoá mà người ta phân tích. Dãy số còn lại thể hiện các khối lượng hàng hoá tương ứng mà người sản xuất sẵn sàng cung ứng. Bảng 2.2 cho ta một ví dụ về một biểu cung. Bảng 2.2: Cung về thịt bò trình bày dưới dạng một biểu cung Mức giá (nghìn đồng/kg) Lượng cung về thịt bò (kg) 40 0 50 10.000 60 20.000 70 30.000 80 40.000 90 50.000 100 60.000. Hàm số cung của hàng hoá X biểu thị mối quan hệ giữa lượng cung hàng hoá đó với các nhân tố ảnh hưởng đến nó trong một thời kỳ nhất định. Nó có dạng tổng quát là: Qs = 0 (PX T, PYT.) Tuy nhiên để đơn giản trong nghiên cứu, hàm số cung thường chỉ biểu thị mối quan hệ giữa lượng cung hàng hoá đó với giá cả của chính nó, các nhân tố khác được giả định là không đổi. Do đó: Qs = 0 (PX) Hàm số cung còn có thể được biểu thị dưới dạng một biểu cung gồm hai cột: giá và lượng cung tương ứng. Hàm số cung là hàm đồng biến và đường biểu diễn của nó gọi là đường cung. Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 8
  9. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. Trên đồ thị, giá và lượng cân bằng được xác định tại giao điểm của hai đường cung và cầu. Giá và lượng cân bằng sẽ thay đổi khi đường cung, đường cầu dịch chuyển do ảnh hưởng của các nhân tố khác. Quy luật cung: Nếu các điều kiện khác được giữ nguyên, lượng cung về một loại hàng hoá điển hình sẽ tăng lên khi mức giá của chính hàng hoá đó tăng lên và ngược lại. 1.2.3. Cân bằng cung cầu – Giá cả Trên thị trường, người mua thường muốn mua rẻ, còn người bán thường muốn bán đắt. Những nhóm người này có thể đề nghị những mức giá khác nhau. Không phải mức giá nào cũng đem lại sự hài lòng chung cho cả người mua lẫn người bán. Trong trạng thái không được thoả mãn, khi coi mức giá hình thành trên thị trường là thấp so với mức giá mà mình trông đợi, như quy luật cung chỉ ra, người bán sẽ phản ứng bằng cách cắt giảm sản lượng cung ứng. Ngược lại, một khi mức giá hình thành trên thị trường được coi là cao so với mức giá dự kiến, phù hợp với quy luật cầu, người tiêu dùng sẽ có xu hướng cắt giảm lượng hàng hoá mà anh ta (hay chị ta) dự định mua. Những phản ứng kiểu như vậy tạo ra một sự tương tác lẫn nhau giữa người mua và người bán, giữa cầu và cung. Rốt cục, thị trường sẽ vận động về một trạng thái cân bằng, theo đó một mức giá và một mức sản lượng cân bằng sẽ được xác lập. Cân bằng thị trường là một trạng thái trong đó giá cả và sản lượng giao dịch trên thị trường có khả năng tự ổn định, không chịu những áp lực buộc phải thay đổi. Đó cũng là trạng thái tạo ra được sự hài lòng chung của cả người mua lẫn người bán. Tại mức giá cân bằng, sản lượng hàng hoá mà những người bán sẵn lòng cung cấp ăn khớp hay bằng với sản lượng mà những người mua sẵn lòng mua (vì thế, sản lượng này cũng được gọi là sản lượng cân bằng). Trên đồ thị, điểm cân bằng được xác định bằng chỗ cắt nhau của đường cầu và đường cung. Trên một thị trường có tính chất cạnh tranh, có nhiều người mua, nhiều người bán, đồng thời không có sự can thiệp của nhà nước, giá cả thị trường sẽ có xu hướng hội tụ về mức giá cân bằng - mức giá mà tại đó, lượng cầu bằng chính lượng cung. ❖ Vai trò của giá cả Cũng qua sự phân tích trên, ta thấy được vai trò quan trọng của giá cả. Chính nhờ sự thay đổi linh hoạt của giá cả mà thị trường đạt đến được trạng thái cân bằng. Sở dĩ giá cả thực hiện được điều đó vì: Thứ nhất, sự thay đổi của giá cả luôn tác động đến hành vi của người tiêu dùng. Khi mức giá tăng lên, người tiêu dùng có xu hướng cắt giảm nhu cầu tiêu dùng của mình. Ngược lại, khi mức giá hạ xuống, người tiêu dùng được khuyến khích gia tăng mức sử dụng hàng hoá. Giá hàng hoá cao sẽ khiến cho người tiêu dùng phải cân nhắc nhiều hơn mỗi khi ra quyết định mua sắm, đồng thời có ý thức tiết kiệm hơn trong việc tiêu dùng hàng hoá. Ngược lại, khi giá một loại hàng hoá được xem là quá thấp, người tiêu dùng sẽ có khuynh hướng sử dụng hàng hoá một cách “hào phóng” hơn. Thứ hai, sự biến động của giá cả cũng luôn ảnh hưởng đến hành vi của những người sản xuất. Giá hàng hoá tăng cao sẽ khuyến khích người sản xuất gia tăng sản lượng hàng hoá. Giá hàng hoá hạ xuống thấp lại tạo ra áp lực buộc những người này phải cắt giảm sản lượng. Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 9
  10. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. Thứ ba, trong nền kinh tế thị trường, sự lên xuống linh hoạt của hệ thống giá cả chính là một “kênh” thông tin hữu ích về tình hình thị trường để những người sản xuất và tiêu dùng ra quyết định. Khi giá của một loại hàng hoá đang tăng, nó có thể là một tín hiệu cho thấy sự thiếu hụt hàng hoá trên thị trường. Trong trường hợp này, việc mở rộng sản xuất hay hạn chế tiêu dùng là thích hợp không chỉ với cá nhân những người sản xuất, tiêu dùng mà cả với xã hội nói chung. Còn khi giá của một loại hàng hoá đang đi xuống, đó sẽ là “thông điệp” của thị trường về sự dư thừa tương đối của hàng hoá. Dựa trên “thông điệp” này, phản ứng cắt giảm lượng hàng hoá cung ứng của người sản xuất hay mở rộng tiêu dùng của người tiêu thụ được thực hiện. Thứ tư, trong quan hệ giữa các thị trường với nhau, sự vận động của hệ thống giá cả còn tạo ra một cơ chế phân bổ nguồn lực hữu hiệu. Dựa vào sự lên xuống của các mức giá, nguồn lực được phân bổ cho các ngành kinh tế khác nhau theo hướng: ở ngành nào mà giá tương đối của hàng hoá (so với giá của các hàng hoá khác) càng cao (chứng tỏ nhu cầu tương đối của xã hội về hàng hoá này càng lớn), thì ở đó càng thu hút được nhiều nguồn lực của xã hội và ngược lại. Thứ năm, vai trò cung cấp thông tin nhằm tạo ra một cơ chế phân bổ nguồn lực kiểu như vậy của giá cả là cực kỳ quan trọng đối với nền kinh tế. Nó làm cho giá cả trở thành tín hiệu có khả năng kết nối các quyết định riêng rẽ của hàng nghìn, hàng triệu cá nhân khác nhau trong nền kinh tế với nhau nhằm tạo ra sự cân đối hay ăn khớp với nhau giữa cung và cầu, giữa sản xuất và tiêu dùng. Sự vận động của giá cả hướng về mức giá cân bằng nói lên khả năng tự vận hành, tự điều chỉnh của nền kinh tế thị trường. ❖ Sự co giãn của cung- cầu •Hệ số co giãn của cầu theo giá của một hàng hoá (E D) là tỉ lệ giữa phần trăm biến đổi của lượng cầu hàng hoá đó với phần trăm biến đổi giá của chính nó. Hệ số này luôn là một số âm. Khi | ED | = 1: Cầu co giãn đơn vị | ED | > 1: Cầu co giãn nhiều | ED | 1: Muốn tăng tổng doanh thu thì áp dụng chính sách giảm giá. | ED | 0: X là hàng hoá bình thường ER > 1: X là hàng hoá xa xỉ ER < 1: X là hàng hoá thiết yếu Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 10
  11. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. •Hệ số co giãn chéo (E XY) là tỉ lệ giữa phần trăm biến đổi của lượng cầu hàng hoá X với phần trăm biến đổi của hàng hoá Y. Khi (EXY) > 0: X và Y là hai hàng hoá thay thế (EXY) 1: Cung co giãn nhiều (Es) < 1: Cung co giãn ít Trong nền kinh tế hỗn hợp Nhà nước can thiệp đến sự hình thành giá cả thị trường với các hình thức như: áp dụng chính sách thuế,ấn định giá tối đa, giá tối thiểu, quy định giá đối với sản phẩm độc quyền. 1.2.4. Chính sách nhà nước Chính sách của nhà nước có ảnh hưởng to lớn đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Bằng chính sách của mình, nhà nước có thể điều chỉnh hành vi và tác động đến các điều kiện sản xuất của các doanh nghiệp. Khi mà các doanh nghiệp có thể tiến hành sản xuất trong những môi trường dễ dàng hay thuận lợi hơn, chi phí sản xuất của chúng thường hạ và cung về hàng hoá sẽ tăng. Ngược lại, những quy định chính sách khiến cho các quá trình sản xuất trở nên tốn kém hơn, ít thuận lợi hơn, chi phí sản xuất của các doanh nghiệp sẽ tăng lên và cung về hàng hoá sẽ giảm. Tác động trực tiếp đến chi phí sản xuất của các doanh nghiệp là chính sách thuế của nhà nước. Khi nhà nước tăng thuế đánh vào một loại hàng hoá, chi phí toàn bộ của việc sản xuất hàng hoá tăng theo. Cung về hàng hoá trong trường hợp này sẽ giảm và đường cung về nó sẽ dịch chuyển sang trái và lên trên. Khi được giảm thuế, chi phí chung để sản xuất hàng hoá hạ xuống. Cung về hàng hoá sẽ tăng. Đường cung về hàng hoá sẽ dịch chuyển sang phải và xuống dưới. Chính sách trợ cấp của nhà nước đối với một số ngành sản xuất ảnh hưởng đến chi phí sản xuất của các doanh nghiệp trong các ngành này theo hướng ngược lại với thuế. Khi việc sản xuất một loại hàng hoá được trợ cấp, chi phí sản xuất ròng của các doanh nghiệp tương ứng sẽ giảm xuống. Trong trường hợp này, cung về hàng hoá sẽ tăng và đường cung của nó sẽ dịch chuyển sang phải và xuống dưới. Việc giảm trợ cấp, ngược lại, sẽ làm cung hàng hoá giảm và đường cung hàng hoá sẽ dịch chuyển sang trái và lên trên. Ngoài chính sách thuế và trợ cấp, các quy định khác nhau của nhà nước về tiêu chuan môi trường, tiêu chuan an toàn sản xuất và tiêu dùng, về thông tin sản pham v.v đều ảnh hưởng đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp. về nguyên tắc, nếu các quy định điều tiết sản xuất của nhà nước càng mang tính chất khắt khe, những khoản chi phí nhất định mà doanh nghiệp phải bỏ ra để đáp ứng càng lớn. Khi đó, chi phí sản xuất của doanh nghiệp càng tăng và cung về hàng hoá sẽ giảm. Trái lại, việc nới lỏng các quy định điều tiết sẽ giảm nhẹ chi phí sản xuất đối với các doanh nghiệp. Lúc này, cung về hàng hoá sẽ tăng lên. Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 11
  12. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. 1.3. Lý thuyết về hành vi của người tiêu dùng 1.3.1. Thuyết hữu dụng Hữu dụng là lợi ích mà người tiêu dùng đạt được khi tiêu dùng sản phẩm. Tổng hữu dụng là toàn bộ lợi ích mà người tiêu dùng đạt được khi tiêu dùng một số lượng nhất định về một loại sản phẩm trong một đơn vị thời gian. Hữu dụng biên là mức thay đổi trong tổng hữu dụng khi tăng hay giảm một đơn vị sản phẩm tiêu dùng. Hữu dụng biên có xu hướng giảm dần. Mục đích của người tiêu dùng là tối đa hoá hữu dụng (cân bằng tiêu dùng) trong giới hạn về thu nhập của họ và giá cả của các hàng hóa. Điều kiện cân bằng tiêu dùng ở người tiêu dùng là: Mux MUy MUn = = . . . = (1) Px Py Pn và x.PX + y.PY +. . . + z.Pn (2) Có nghĩa là hữu dụng biên đạt được khi chi tiêu một đơn vị tiền cho mỗi loại sản phẩm là bằng nhau. Có nghĩa là số lượng sản phẩm tiêu dùng phải nằm trong giới hạn của thu nhập. Nguyên tắc tối đa hoá hữu dụng và tính chất hữu dụng biên giảm dần được sử dụng để giải thích sự hình thành đường cầu cá nhân đối với một sản phẩm và từ đó suy ra đường cầu thị trường. Đường cầu thị trường của một sản phẩm là tổng cộng theo hoành độ của các đường cầu cá nhân về sản phẩm đó. 1.3.2. Đường bàng quan (đường đẳng ích) •Đường đẳng ích biểu thị những phối hợp về hai sản phẩm X và Y mà người tiêu dùng đạt được cùng một mức lợi ích. Những đường đẳng ích càng xa gốc toạ độ biểu thị mức lợi ích đạt được càng cao và ngược lại độ dốc của đường đẳng ích là tỉ lệ thay thế biên giữa hai sản phẩm. Ba đặc điểm cơ bản của các đường đẳng ích là: - Độ dốc âm. - Lồi về phía gốc trục tọa độ. - Không cắt nhau. Đường ngân sách mô tả các giỏ hàng hóa (x,y) tối đa mà người tiêu dùng có thể mua được. Nó cho chúng ta biết số lượng hàng hóa Y tối đa mà người tiêu dùng có thể mua được khi đã mua một lượng hàng hóa X nhất định, hay số lượng hàng hóa X tối đa mà người tiêu dùng có thể mua được khi đã mua một lượng hàng hóa Y nhất Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 12
  13. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. định. Khi đã mua một lượng x nhất định, số lượng y tối đa có thể mua được chính là lượng thu nhập I còn lại sau khi đã mua x chia cho mức giá Pỵ: y = (I - x.Px )/Pỵ Tập hợp các giỏ hàng hóa (x,y) tối đa ở đây phải thỏa mãn đẳng thức hay phương trình: x.Px + y.Pỵ = I Vị trí của đường ngân sách phụ thuộc vào mức thu nhập I và các mức giá của các hàng hóa X,Y. Độ dốc của đường ngân sách phụ thuộc vào mức giá tương đối của hai hàng hóa này và đo bằng (- PX/PY) 1.4. Lý thuyết doanh nghiệp 1.4.1. Phân tích chi phí trong doanh nghiệp ❖ Chi phí kế toán và chi phí kinh tế Chi phí thể hiện các phí tổn hay thiệt hại mà doanh nghiệp phải gánh chịu, hy sinh khi sản xuất một khối lượng hàng hóa hay dịch vụ nào đó. Chi phí kế toán là những khoản chi phí trực tiếp mà doanh nghiệp thực tế phải bỏ ra khi sản xuất hàng hóa. Nó bao gồm những khoản chi phí như: khấu hao. máy móc, thiết bị, nhà xưởng, mua sắm nguyên, nhiên, vật liệu; trả tiền thuê nhân công hay thanh toán các khoản lãi vay. Các chi phí này luôn luôn gắn với một khối lượng hàng hóa đầu ra cần sản xuất nhất định. Chi phí kinh tế của việc sản xuất một khối lượng hàng hóa nào đó chính là toàn bộ các chi phí cơ hội có liên quan. Nó là tổng cộng của các khoản chi phí cơ hội của việc doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực để sản xuất khối lượng hàng hóa trên. Ứng với một mức sản lượng, có một mức tổng chi phí. Khi cần sản xuất ra một lượng đầu ra lớn hơn, doanh nghiệp cần phải bỏ ra nhiều chi phí hơn. Vì thế cần coi tổng chi phí là một hàm số của sản lượng: TC = TC(q) trong đó, TC là ký hiệu của tổng chi phí, q biểu thị mức sản lượng đầu ra. Hàm tổng chi phí là một hàm đồng biến, thể hiện sự vận động cùng chiều của sản lượng và mức tổng chi phí. Đường tổng chi phí điển hình thường được xem là một đường cong bậc ba, mà phương trình tổng quát của nó có dạng: TC(q) = aq3 + bq2 + cq + d (trong đó a, b, c, d là các tham số ). Chi phí bình quân (ATC) Chi phí bình quân biểu thị mức chi phí tính trung bình cho mỗi đơn vị sản lượng. Nó bằng tống chi phí chia cho mức sản lượng: ATC(q) = TC(q) : q Chi phí biên (MC) Chi phí biên biểu thị phần chi phí tăng thêm khi sản xuất thêm một đơn vị sản lượng đầu ra. Nó cho chúng ta biết mức phí tốn mà doanh nghiệp phải bỏ ra hoặc hy sinh thêm để đánh đối lấy việc có thêm được một đơn vị đầu ra. Điều đó có nghĩa là chi phí biên của việc in cuốn sách thứ 301 là 30 nghìn đồng. Nói một cách khác, chi phí biên của đơn vị sản phẩm thứ q là: Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 13
  14. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. MCq = TCq - TC(q-1) trong đó TCq biểu thị tống chi phí khi doanh nghiệp sản xuất q đơn vị đầu ra, còn TC(q-1) biểu thị tống chi phí khi doanh nghiệp sản xuất (q-1) đơn vị đầu ra. ❖ Chi phí ngắn hạn và chi phí dài hạn Ngắn hạn biểu thị khoảng thời gian mà doanh nghiệp chỉ có thể điều chỉnh hay thay đổi được một số yếu tố đầu vào, trong khi không điều chỉnh hay thay đổi một số yếu tố đầu vào khác. Dài hạn là khoảng thời gian đủ dài để doanh nghiệp có thể thay đổi hay điều chỉnh được tất cả các yếu tố đầu vào. Chi phí ngắn hạn: Trong ngắn hạn, do bị ràng buộc bởi một số yếu tố đầu vào không thay đổi được, nên một số chi phí của doanh nghiệp là cố định. •Chi phí cố định (FC) là khoản chi phí không phụ thuộc vào mức sản lượng. Khi sản lượng tăng hay giảm, chi phí cố định vẫn không thay đổi. •chi phí biến đổi (VC). Những loại chi phí về nguyên, nhiên, vật liệu hay tiền lương, nói chung là chi phí biến đoi. Sản lượng sản xuất ra càng lớn, lượng đầu vào này được sử dụng càng nhiều, chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra càng cao. Vì vậy, trong khi chi phí cố định độc lập với mức sản lượng, chi phí biến đổi lại được coi là một hàm của sản lượng. Đây cũng là một hàm đồng biến, thể hiện quan hệ thuận giữa q và VC. Sản lượng càng tăng thì chi phí biến đổi càng lớn và ngược lại. Như vậy, trong ngắn hạn, tổng chi phí bằng các chi phí cố định cộng các chi phí biến đổi: TC = FC + VC. Vì độc lập với sản lượng, đường chi phí cố định được thể hiện như một đường nằm ngang, song song với trục hoành, trục biểu thị các mức sản lượng. Trong khi đó, do VC = TC - FC nên đường chi phí biến đổi có hình dáng y hệt như đường tổng chi phí. Nó chính là đường tổng chi phí tịnh tiến song song xuống dưới một đoạn chính bằng FC. Vì khi sản lượng bằng 0, chi phí biến đổi cũng bằng không, nên đường chi phí biến đổi có điểm xuất phát chính từ gốc tọa độ. •Chi phí cố định bình quân (AFC) là chi phí cố định tính đều cho mỗi đơn vị sản lượng: AFC= FC/q. •Chi phí biến đổi bình quân (AVC) là chi phí biến đổi tính đều cho mỗi đơn vị sản lượng: AVC = VC / q -Trong dài hạn, không tồn tại các chi phí cố định. Điều này liên quan đến định nghĩa về khoảng thời gian dài hạn. Do mọi yếu tố liên quan đến các đầu vào đều có thể thay đổi được nên trong dài hạn, mọi chi phí đều là chi phí biến đổi. Nói cách khác, tổng chi phí dài hạn (LTC) bằng tổng chi phí biến đổi dài hạn (LVC): LTC = LVC hay LFC = 0. Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 14
  15. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. -Tại mỗi mức sản lượng, các chi phí (tổng và bình quân) dài hạn thường nhỏ hơn hoặc bằng các chi phí ngắn hạn tương ứng: LTC =< STC LATC =< SATC 1.4.2. Thị trường cạnh tranh hoàn toàn Trong thị trường cạnh tranh hoàn toàn có vô số người bán và vô số người mua nên mỗi cá nhân tham gia thị trường chỉ đóng vai trò là người chấp nhận giá. Họ gia nhập hoặc rút lui khỏi thị trường rất dễ dàng. Sản phẩm mang tính đồng nhất hoàn toàn và người mua dễ dàng có được đầy đủ các thông tin cần thiết về sản phẩm này. Đường cầu về sản phẩm của mỗi doanh nghiệp là một đường thẳng nằm ngang song song với trục hoành. Đường doanh thu biên MR trùng với đường cầu này. Trong ngắn hạn mỗi doanh nghiệp sẽ tối đa hoá lợi nhuận (cân bằng ngắn hạn) ở mức sản lượng Q sao cho: SMC = P = MR Mức giá bằng chi phí trung bình tối thiểu được gọi là ngưỡng sinh lời; mức giá bằng chi phí biến đổi trung bình tối thiểu được gọi là ngưỡng đóng cửa. Đường cung của doanh nghiệp trong ngắn hạn là phần đường chi phí biên ngắn hạn SMC kể từ điểm thấp nhất của đường chi phí biến đổi trung bình trở lên. Đường cung của toàn ngành trong ngắn hạn là tổng cộng theo hoành độ đường cung của các doanh nghiệp trong ngành. Trong dài hạn, các doanh nghiệp có thời gian thay đổi quy mô sản xuất, đồng thời số xí nghiệp trong ngành cũng có thể thay đổi. Doanh nghiệp đạt được cân bằng dài hạn khi sản xuất mức sản lượng có LMC = P = MR. Ngành sẽ đạt được cân bằng dài hạn khi mỗi doanh nghiệp trong ngành sản xuất mức sản lượng có: SMC = LMC = P = MR = SACmm = LACmm Đây cũng chính là mức sản lượng tối ưu ứng với quy mô sản xuất tối ưu. Đường cung dài hạn của ngành là đường nối tất cả các điểm cân bằng dài hạn của ngành. Đó là một đường dốc lên, nằm ngang hay dốc xuống tuỳ theo đó là ngành sản xuất có chi phí tăng dần, không đổi hoặc giảm dần. Trong đó, trường hợp chi phí sản xuất gia tăng là phổ biến nhất. Thặng dư sản xuất của doanh nghiệp là chênh lệch giữa tổngdoanh thu của doanh nghiệp (ứng với một mức sản lượng Q nào đó) và tổng chi phí biến đổi để sản xuất ra số lượng Q này. Trên thị trường cạnh tranh hoàn toàn, hiệu quả kinh tế của mỗi doanh nghiệp đạt đến tối đa, giá cả bằng chi phí trung bình nên người tiêu dùng được mua sản phẩm với số lượng nhiều và giá rẻ. Việc điều chỉnh năng lực sản xuất diễn ra dễ dàng nhằm đáp ứng sự thay đổi của nhu cầu. Trong ngắn hạn, sự điều chỉnh chủ yếu nhằm vào giá, còn trong dài hạn, sự điều chỉnh chủ yếu nhằm vào sản lượng. 1.4.3. Thị trường độc quyền hoàn toàn Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 15
  16. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. Trên thị trường độc quyền hoàn toàn chỉ có một doanh nghiệp duy nhất bán một loại sản phẩm mà không có sản phẩm khác thay thế tốt cho nó. Việc gia nhập thị trường bị ngăn trở bởi hai lý do chính là: độc quyền tự nhiên và độc quyền do luật lệ của Nhà nước nên doanh nghiệp độc quyền hoàn toàn có quyền kiểm soát giá cả trên thị trường. Đường cầu về sản phẩm của doanh nghiệp độc quyền hoàn toàn chính là đường cầu của thị trường. Đường doanh thu biên luôn nằm phía dưới đường cầu. Trong độc quyền không hình thành đường cung sản phẩm. Doanh nghiệp độc quyền sẽ tối đa hóa lợi nhuận (hoặc tối thiểu hóa lỗ) khi sản xuất mức sản lượng Q sao cho: MC = MR. Trong ngắn hạn doanh nghiệp độc quyền có thể có những mục tiêu khác như: tối đa hóa doanh thu, tối đa hóa sản lượng bán mà không bị lỗ, đạt tỉ lệ lợi nhuận mong muốn trên chi phí trung bình. Doanh nghiệp độc quyền có thể xác định mức giá bán ra để tối đa hóa lợi nhuận bằng cách lấy chi phí biên MC nhân với một hệ số định giá K (K phụ thuộc vào độ co giãn cầu theo giá ED). Thế lực độc quyền có thể được đo thông qua mức chênh lệch giữa giá bán và chi phí biên của doanh nghiệp (hệ số Lerner). Với vị thế độc quyền, một doanh nghiệp có thể định ra những mức giá khác nhau theo những đối tượng, khu vực và thời gian tiêu dùng khác nhau để tận dụng hết khả năng thu lợi. Trong dài hạn nhà độc quyền có thể chọn quy mô sản xuất tối ưu, nhỏ hơn tối ưu hoặc lớn hơn tối ưu tùy theo quy mô thị trường nhỏ hay lớn. So với doanh nghiệp cạnh tranh hoàn toàn, sản lượng bán của nhà độc quyền thấp hơn mà giálại cao hơn nhưng trong ngắn hạn không nhất thiết là lúc nào doanh nghiệp độc quyền cũng luôn có lợi nhuận. Để điều tiết độc quyền, Nhà nước có thể áp dụng một số biện pháp: ấn định mức giá tối đa cho nhà độc quyền, đánh thuế theo sản lượng hoặc thuế không theo sản lượng, trong đó chỉ có biện pháp ấn định mức giá tối đa là mang lại lợi ích trực tiếp cho người tiêu dùng. 1.4.4. Thị trường cạnh tranh không hoàn toàn Trên thị trường cạnh tranh độc quyền có nhiều người bán cùng một loại sản phẩm nhưng không hoàn toàn giống nhau. Sự gia nhập và rút lui khỏi ngành của các xí nghiệp khá dễ dàng. Đường cầu về sản phẩm của xí nghiệp dốc xuống ở một mức độ nào đó, đường doanh thu biên luôn ở phía dưới đường cầu và đường cung của xí nghiệp là không thể hình thành được. Vì không có một mức giá cả và mức sản lượng chung cho toàn ngành nên việc thiết lập đồ thị về đường cầu và đường cung của ngành là không thể thực hiện được. Trong ngắn hạn, tính cạnh tranh chưa thể hiện rõ, doanh nghiệp cạnh tranh độc quyền sẽ tối đa hoá lợi nhuận với mức sản lượng Q thoả điều kiện doanh thu biên bằng chi phí biên. Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 16
  17. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. Trong dài hạn, nếu số doanh nghiệp trong ngành không đổi, ngành chưa đạt đến cân bằng dài hạn, lợi nhuận tối đa của mỗi doanh nghiệp được thực hiện tại mức sản lượng Q sao cho: MR = LMC = SMC và LAC = SAC Nếu số doanh nghiệp trong ngành thay đổi, ngành đạt đến cân bằng dài hạn, mỗi doanh nghiệp sản xuất mức sản lượng Q sao cho: MR = LMC = SMC và LAC = SAC = P Những hoạt động yểm trợ bán như quảng cáo, cải tiến sản phẩm, dịch vụ hậu mãi được doanh nghiệp tiến hành nhằm mở rộng phần thị trường riêng của nó. Trên thị trường cạnh tranh độc quyền hàng hoá rất đa dạng, sản lượng hạn chế hơn và giá cả cao hơn so với ngành cạnh tranh hoàn toàn; trong dài hạn giá cả sẽ bằng hay cao hơn chi phí trung bình tuỳ theo sự gia nhập vào ngành là dễ dàng hay khó khăn; hiệu quả của mỗi doanh nghiệp cá nhân sẽ không tối đa. Thị trường thiểu số độc quyền chỉ bao gồm một số ít xí nghiệp nên chúng có sự phụ thuộc lẫn nhau. Đường cầu về sản phẩm của xí nghiệp thiểu số độc quyền khó thiết lập và nhanh chóng thay đổi. Sự gia nhập vào ngành thiểu số độc quyền có thể bị hạn chế một phần hoặc hạn chế hoàn toàn. Điều này ảnh hưởng nhiều đến sự hình thành lợi nhuận trong dài hạn của mỗi doanh nghiệp. Với các doanh nghiệp thiểu số độc quyền hợp tác chính thức (Cartel), Phân tích tối đa hoá lợi nhuận giống như thị trường độc quyền hoàn toàn với một xí nghiệp duy nhất có nhiều cơ sở. Khi Cartel đã xác định được sản lượng và giá bán, các doanh nghiệp thành viên sẽ thực hiện phần sản lượng được phân chia với giá bán thống nhất mà Cartel đã quyết định. Với các doanh nghiệp thiểu số độc quyền hợp tác ngầm, doanh nghiệp có ưu thế sẽ giữ vai trò dẫn đạo giá, các doanh nghiệp còn lại phải chấp nhận mức giá này. Tuy nhiên trong dài hạn, không nhất thiết lợi nhuận của các doanh nghiệp này bằng không vì giá ấn định có thể cao hơn chi phí trung bình tối thiểu (LACmin) của họ. Với các doanh nghiệp thiểu số độc quyền không hợp tác, đường cầu về sản phẩm của một doanh nghiệp nào đó sẽ là đường gấp khúc vì khi nó tăng giá bán, các doanh nghiệp khác sẽ không tăng giá theo nên thị phần của nó bị giảm. Ngược lại nếu nó giảm giá, các doanh nghiệp khác sẽ giảm giá theo nên nó không tăng được thị phần. Các doanh nghiệp thiểu số độc quyền áp dụng chiến lược cạnh tranh bằng giá cả hoặc cạnh tranh không qua giá thông qua các hoạt động quảng cáo, cải tiến kiểu dáng sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm và các dịch vụ hậu mãi. Trên thị trường thiểu số độc quyền, sản phẩm tương đối đa dạng; sản lượng nhỏ hơn và giá cả cao hơn so với ngành cạnh tranh hoàn toàn; giá cả có thể cao hơn chi phí trung bình do sự gia nhập vào ngành thường không dễ dàng và do đó hiệu quả kinh tế của xí nghiệp thường không đạt đến mức tối đa. Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 17
  18. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM TRONG CÁC NĂM GẦN ĐÂY 2.1. Tổng quan ngành dệt may Việt Nam Hiện nay ngành dệt may trên thế giới đã đạt được những thành tựu vượt bậc đó chính là thành quả đáng tự hào của quá trình hình thành và phát triển từ thời xa xưa của ngành này trên thế giới. Mốc lịch sử đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của ngành dệt may là vào thế kỉ 18 khi máy dệt ra đời ở nước Anh và từ đó sức lao động đã được thay bằng máy móc nên năng suất dệt vải tăng chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Và bắt đầu từ khi cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra thì các thành tựu khoa học kĩ thuật được chuyển giao và có mặt ở nhiều nước trên thế giới. Kinh tế đời sống xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu ăn mặc không chỉ dừng lại ở chỗ chỉ để phục vụ cho việc bảo vệ cơ thể, sức khoẻ con người mà còn để làm đẹp thêm cho cuộc sống. Ở Việt Nam, mặc dù là một nước lạc hậu, kém phát triển nhưng so với ngành dệt may trên thế giới thì cũng có rất nhiều điểm nổi bật. Trước đây, vào thời phong kiến khi máy móc, khoa học kĩ thuật chưa phát triển ở nước ta thì ngành dệt may Việt Nam đã hình thành từ ươm tơ, dệt vải với hình thức đơn giản thô sơ nhưng mang đầy kĩ thuật tinh sảo và có giá trị rất cao. Sau đó ươm tơ dệt vải đã trở thành một nghề truyền thống của Việt Nam được truyền từ đời này qua đời khác nhờ vào những đôi bàn tay khéo léo của người phụ nữ Việt Nam. Dù những công việc đó rất giản đơn nhưng chính những nghề truyền thống này đã tạo ra một phong cách rất riêng cho ngành dệt may Việt Nam ta mà không một nước nào có được. Ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam bắt đầu phát triển từ những năm 1958 ở miền Bắc và đến năm 1970 ở miền Nam, nhưng mãi tới năm 1975 khi đất nước thống nhất, ngành dệt may mới được ổn định. Nhà máy được hình thành ở 3 miền: miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Các nhà máy này đã thu hút và giải quyết công ăn việc làm cho hàng vạn lao động. Khi đất nước vừa thoát khỏi ách thống trị, đang còn trong tình trạng kinh tế trì trệ kém phát triển thì các nhà máy của ngành đóng một vai trò rất to lớn đối với đất nước. Lúc đầu, các nhà máy chỉ sản xuất hàng hoá để phục vụ nhu cầu trong nước. Sản lượng sản xuất ra không nhiều vì lúc đó máy móc, thiết bị còn lạc hậu, toàn là những máy cũ nhập từ các nước xã hội chủ nghĩa, hơn nữa trình độ quản lý cũng còn rất hạn chế. Ngay cả hàng sản xuất để phục vụ cho nhu cầu trong nước cũng không đáp ứng đủ yêu cầu về chất lượng, mẫu mã còn nghèo nàn ít ỏi. Thời kì từ năm 1975 đến năm 1985 nền kinh tế nước ta hoạt động theo cơ chế tập trung bao cấp, đầu vào và đầu ra của sản xuất được cung ứng theo chỉ tiêu của Nhà nước, việc sản xuất và quản lý theo ngành khép kín và hướng vào nhu cầu tiêu dùng nội địa là chính còn xuất khẩu trong giai đoạn này chỉ thực hiện trong khuôn khổ Hiệp định và Nghị định thư của nước ta kí kết với khu vực Đông Âu - Liên Xô trước đây. Do đó ngành dệt may Việt Nam xuất khẩu đi nước ngoài chủ yếu là sang thị trường Liên Xô và thị trường Đông Âu. Tuy nhiên, hàng xuất khẩu chủ yếu là gia công hàng bảo hộ lao động cho hai thị trường này với nguyên liệu, thiết bị do họ cung cấp. Sản lượng dệt may cho tới năm 1980 đạt 50 triệu sản phẩm các loại, 80% xuất sang Liên Xô còn lại là Đông Âu và khu vực II. Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 18
  19. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. Đến cuối năm 1990, khi hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa bị tan rã, nước ta rơi vào thế hoàn toàn cô lập so với nhiều nước lớn mạnh khác, thị trường xuất khẩu bị ảnh hưởng mạnh mẽ. Nền kinh tế nước ta trở nên đình trệ, thất nghiệp tăng, nhiều xí nghiệp bị đóng cửa, ngành dệt may cũng không thoát khỏi tình trạng này. Cùng thời gian đó Đảng và Nhà nước ta bắt đầu chính sách đổi mới nền kinh tế, chuyển đổi từ kinh tế bao cấp sang cơ chế quản lý tự hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Thời kì này, ngành dệt may gặp nhiều khó khăn phải đối mặt với việc: thiếu vốn, thiếu công nghệ, đặc biệt thiếu đối tác đầu mối tiêu thụ hàng hoá. Trong nhiều năm qua ngành đã phải đưa ra nhiều chiến lược, biện pháp để duy trì sản xuất, đảm bảo cung cấp sản phẩm cho thị trường nội địa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đồng thời tự lo vốn đổi mới thiết bị, tăng cường thiết bị chuyên dùng, áp dụng khoa học kĩ thuật tiên tiến, hoàn thiện dần hệ thống quản lí tổ chức Giai đoạn 1990 - 1995 nhờ có chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngành dệt may Việt Nam. Mặc dù phát triển chậm hơn so với các nước láng giềng Châu Á, nhưng ngành đã tự đứng dậy vươn lên, phát triển một cách đầy ấn tượng. Bước đầu năm 1993 kim ngạch xuất khẩu đạt 350 triệu USD và đến cuối năm 1997 xuất khẩu đạt 1,35 tỷ USD. Không dừng lại ở con số này, hàng dệt may xuất khẩu đã trở thành một trong 10 mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam nằm trong chiến lược phát triển CNH, HĐH của đất nước trong thời gian tới. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu đạt 2,75 tỷ USD, trong 8 tháng đầu năm 2003 này kim ngạch xuất khẩu đạt được xấp xỉ 2,597 tỷ USD và dự kiến đến cuối năm 2003 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sẽ đạt được 3,5 tỷ USD. Với tốc độ tăng mạnh của công nghiệp dệt may nước ta hiện nay, các chuyên gia có thể khẳng định ngành dệt may có thể đạt mục tiêu 4,5 - 5 tỷ USD xuất khẩu vào năm 2005 và đến năm 2010 là 8 tỷ USD. (Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam số 143 - ngày 2 tháng 8 năm 2003). 2.2. Thực trạng xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam 2.2.1. Nhập khẩu Theo số liệu thống kê, trong 8 tháng đầu năm 2012, kim ngạch nhập khẩu mặt hàng nguyên phụ liệu dệt may da giày đạt hơn 2,02 tỷ USD, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong 8 tháng đầu năm 2012, Trung Quốc là thị trường lớn nhất cung cấp nguyên phụ liệu dệt may, da giày cho Việt Nam, với trị giá 606.886.502 USD, chiếm 29,9% tổng trị giá nhập khẩu, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước. Đứng thứ hai là thị trường Hàn Quốc, Việt Nam nhập khẩu mặt hàng này trị giá 379.761.962 USD, tăng 4,4%; tiếp đến là thị trường Đài Loan, trị giá 257.445.104 USD, chiếm 12,7%, giảm 0,9%. Ba thị trường trên chiếm 61,4% tổng trị giá nhập khẩu. Ngoài ra Việt Nam còn nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may, da giày từ các thị trường khác như Hồng Công, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Thái Lan, Italia, Ấn Độ, Braxin, Indonêsia Số liệu nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may, da giày 8 tháng đầu năm 2012 Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 19
  20. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. Thị trường ĐVT Tháng 8/2012 8 Tháng/2012 Tổng USD 253.113.044 2.024.096.472 Trung Quốc USD 77.138.678 606.886.502 Hàn Quốc USD 47.251.111 379.761.962 Đài Loan USD 31.518.047 257.445.104 Hồng Công USD 16.562.289 139.951.011 Nhật Bản USD 17.146.772 139.273.459 Hoa Kỳ USD 12.831.779 100.003.130 Thái Lan USD 8.481.601 76.986.885 Italia USD 4.832.402 52.517.764 Ấn Độ USD 6065616 42552625 Braxin USD 5177029 38806567 Indonêsia USD 3007571 25612584 Achentina USD 3316444 18672154 Đức USD 1908645 15676854 Malaysia USD 1097898 14150904 New zilân USD 2355626 11590456 Tây Ban Nha USD 1746271 10981971 Pakistan USD 1399111 9327423 Ôxtraylia USD 1038875 7925336 Anh USD 1046694 7617900 Pháp USD 602717 7425937 Ba Lan USD 1058295 7325213 Canađa USD 511010 4564483 Singapore USD 381002 2003282 Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 20
  21. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. Hà Lan USD 63504 1116705 Áo USD 129758 1064015 Theo Bộ Công Thương 2.2.2. Xuất khẩu Ngành dệt may Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong những năm vừa qua. Xuất khẩu hàng dệt may cũng đạt được những kết quả tăng trưởng khá ấn tượng. Tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may đã tăng liên tục từ mức 1,15 tỷ USD vào năm 1996 lên gần 2 tỷ USD vào năm 2001 và xấp xỉ 7,8 tỷ USD vào năm 2007 và khoảng 9,1 tỷ USD vào năm 2008. Trong 10 tháng đầu năm 2009, dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, ngành dệt may đạt giá trị xuất khẩu gần 7,5 tỷ USD, chỉ giảm khoảng 1,5% so với cùng kỳ năm 2008. Đáng chú ý, giá trị xuất khẩu đã tăng khá nhanh kể từ năm 2002 đến nay, với mức tăng trung bình trong giai đoạn 2002-2008 khoảng 22%/năm. Theo thị trường, Hoa Kỳ có mức tăng trưởng xuất khẩu cao nhất, đặc biệt là kể từ năm 2002 trở lại đây khi Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực. Chỉ riêng trong năm 2002, giá trị xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ đã tăng hơn 21 lần lên hơn 950 triệu USD, so với mức 45 triệu USD của năm 2001. Kể từ năm 2002 đến nay, xuất khẩu của hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ cũng luôn tăng trưởng nhanh, đạt mức 3,8 tỷ USD vào năm 2007. Tỷ trọng xuất khẩu sang Hoa Kỳ trong tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam cũng tăng tương ứng, từ mức xấp xỉ 34,6% vào năm 2002 lên gần 50,7% vào năm 2007. Các thị trường chủ yếu khác của hàng dệt may Việt Nam là EU và Nhật Bản. Thị trường EU có mức tăng khá ổn định, từ mức 225 triệu USD vào năm 1996 lên 1,5 tỷ USD vào năm 2007. Trong khi đó, xuất khẩu hàng dệt may vào Nhật Bản có diễn biến phức tạp hơn, mặc dù vẫn thể hiện xu hướng tăng: giá trị xuất khẩu năm 2000 là 620 triệu USD, giảm xuống còn 514 triệu USD vào năm 2003 và tăng liên tục lên 800 triệu USD vào năm 2007. Chỉ riêng ba thị trường này đã chiếm hơn 81% giá trị xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam, mặc dù đã giảm so với mức đỉnh điểm gần 85,9% vào năm 2004. Việc mở rộng tiếp cận thị trường xuất khẩu cũng góp phần tạo điều kiện cho ngành dệt may không ngừng lớn mạnh. Trong giai đoạn 2000-2006, ngành đã tạo thêm việc làm cho khoảng 600.000 lao động. Tính theo giá so sánh (năm 1994), trong giai đoạn 2000-2008, giá trị sản xuất của ngành dệt đã tăng gần 2,7 lần, từ gần 10.040 tỷ đồng lên hơn 26.950 tỷ đồng. Ngành may mặc thậm chí còn đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh hơn, từ mức 6.040 tỷ đồng lên gần 26.620 tỷ đồng. Tuy nhiên, nguyên phụ liệu phục vụ cho ngành may mặc chủ yếu là từ nguồn nhập khẩu. Trong khi đó, ngành dệt hầu như chưa đáp ứng được đủ yêu cầu (cả về số lượng và chất lượng) cho ngành may. Nói cách khác, mối liên kết giữa ngành dệt và ngành may mặc còn chưa thật sự chặt chẽ. Ngành dệt còn mang hơi hướng thay thế nhập khẩu, nhưng lại chưa đạt hiệu quả và quy mô sản xuất cần thiết. Trong khi đó, ngành may mặc có tính định hướng xuất khẩu cao, nhưng lại phải dựa vào nguyên phụ liệu nhập khẩu. Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 21
  22. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. Giá trị xuất khẩu hàng dệt may trong giai đoạn 2000-2003 thậm chí còn thấp hơn giá trị nguyên phụ liệu nhập khẩu, và chỉ đạt giá trị tương đương trong những năm gần đây. Điều này là do ngành may mặc còn phải phục vụ cả nhu cầu trong nước và nhu cầu xuất khẩu, nên phải nhập khẩu nhiều nguyên phụ liệu hơn. Mặc dù vậy, điều này lại ảnh hưởng đến việc cân đối ngoại tệ trong ngành dệt may. _Bảng: Tình hình xuất nhập khẩu hàng dệt may, 2000-2008 Đơn vị tính: Triệu USD 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Nhập khẩu Bông 105.4 190.2 167.21 219.0 268 468 Sợi 317.5 338.8 339.59 544.6 744 788 Vải các loại 1.805,4 1.926,7 2.398,96 2.984,0 3.980 4.454 Nguyên phụ liệu máy 1.825,9 1.724,3 1.774,2 1.952,0 2.152 2.376 móc,phụ tùng Cộng nhập (chưa kể 4.054,2 4.180,0 4.679,96 5.699,6 7.144 8.086 hóa chất thuốc nhuộm) Kim ngạch xuất khẩu 3.609,1 4.385,6 4.838,4 5.834,0 7.794 9.082 Nguồn: Tài liệu xúc tiến kêu gọi đầu tư phát triển ngành dệt may Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã làm giảm đáng kể nhu cầu đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam. Mặc dù đã có nhiều biện pháp điều chỉnh, nhưng việc thực hiện mục tiêu xuất khẩu 9,5 tỷ USD trong năm 2009 của các doanh nghiệp dệt may dường như rất khó khăn. Tại thị trường Hoa Kỳ - thị trường lớn nhất với tỷ trọng trên 55% trong giá trị xuất khẩu dệt may - các doanh nghiệp đã nỗ lực phối hợp với các nhà nhập khẩu trong việc xác định lại cơ cấu giá cả hợp lý trên cơ sở vẫn giữ vững chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Nhờ đó trong năm 2008, hàng dệt may Việt Nam đạt kim ngạch vào Hoa Kỳ trên 5,1 tỷ USD, tăng 15% so với năm 2007. Trong 9 tháng đầu năm 2009, nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ giảm đến 12,7% và hàng nhập từ hầu hết các nước sản xuất chính đều giảm (từ Hồng Kông giảm 21%, từ Indonesia giảm 2,9%, từ Thái Lan giảm 25,6% và từ Ấn Độ giảm 7,7%). Tuy nhiên, hàng dệt may Việt Nam xuất vào thị trường này vẫn tăng 18% về lượng và chỉ giảm 4,5% về giá trị. Tại thị trường Châu Âu - chiếm khoảng 20% giá trị xuất khẩu, các doanh nghiệp đã cải thiện chất lượng và mở rộng dịch vụ hỗ trợ cho nhà nhập khẩu cũng như tuân thủ quy chế mới về an toàn cho người tiêu dùng. Nhờ đó, giá trị xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2009 đạt xấp xỉ 1,25 tỷ USD, chỉ giảm 3,5% trong điều kiện nhập khẩu chung vào thị trường này giảm hơn 11% so với cùng kỳ năm trước. Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 22
  23. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. Tại thị trường Nhật Bản - thị trường lớn thứ ba của ngành dệt may Việt Nam, các doanh nghiệp đã tăng cường hoạt động xúc tiến hợp tác đầu tư, thương mại với đối tác Nhật Bản. Nhờ đó kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này không ngừng tăng trưởng (năm 2008 tăng 12% và 9 tháng đầu năm 2009 tăng 15,3 %). Đây là kết quả đáng ghi nhận trong điều kiện nền kinh tế Nhật Bản cũng bị suy giảm nghiêm trọng. Bên cạnh đó, doanh nghiệp đã có nhiều nỗ lực để xúc tiến các thị trường mới. Trong 9 tháng đầu năm 2009, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Hàn Quốc đã tăng 50%, Ảrập Xêut tăng 23%, Thụy Sĩ tăng 12,7% và các nước ASEAN tăng 7,8%. Tại thị trường nội địa, nhiều doanh nghiệp đã tập trung đổi mới toàn diện chiến lược phục vụ cho người tiêu dùng. Các biện pháp đã và đang được thực hiện bao gồm đầu tư mạnh hơn vào nghiên cứu thị trường, thị hiếu, tăng cường công tác thiết kế thời trang và sản phẩm mới, tổ chức dây chuyền sản xuất chuyên biệt phù hợp, đẩy mạnh các hoạt động tiếp thị tại các thành phố lớn kết hợp với chương trình đưa hàng về nông thôn và tăng uy tín thương hiệu. Những biện pháp này cũng thể hiện nỗ lực của doanh nghiệp trong việc thực hiện chiến lược lấy nội địa làm thị trường cơ bản để tồn tại và vượt qua suy thoái của nhiều doanh nghiệp. Hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam năm nay bị ảnh hưởng mạnh bởi tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, nhưng vẫn đạt mức tăng trưởng khá, đặc biệt là thị trường lớn. Trong năm 2012, hoạt động xuất khẩu (XK) của các doanh nghiệp (DN) dệt may Việt Nam đã bị ảnh hưởng mạnh bởi tác động của khủng hoảng kinh tế, đặc biệt là đối với thị trường châu Âu - thị trường trọng điểm của ngành dệt may. Tuy nhiên, ngành dệt may vẫn là mặt hàng chủ lực trong các ngành XK của Việt Nam. Theo Trung tâm Thông tin Thương mại (Bộ Công Thương), trong 11 tháng năm 2012, kim ngạch XK dệt may đạt hơn 13,73 tỷ USD, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm 2011, chiếm 13,1% tổng kim ngạch XK của cả nước. Đặc biệt, kim ngạch XK dệt may vào các thị trường lớn vẫn giữ được mức tăng trưởng. Theo đó, tính đến hết tháng 11, kim ngạch XK dệt may vào thị trường Mỹ đã tăng 0,8% so với cùng kì, với 6,8 tỉ USD, chiếm 49,5% tổng kim ngạch XK của ngành dệt may cả nước. Đứng thứ hai là thị trường Nhật Bản với 1,79 tỉ USD, tăng 16,8% so với cùng kì năm 2011. Đặc biệt, thị trường Hàn Quốc đang trở thành một thị trường tiềm năng của các DN dệt may, bởi sức tiêu thụ ở thị trường này là khá lớn. Hiện thị trường Hàn Quốc đứng thứ 4 trong số các nước nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam chỉ sau Mỹ, Nhật và EU. Kim ngạch XK sang thị trường này 11 tháng năm 2012 đã tăng 20,9% so với cùng kì và đạt trên 994 triệu USD./. Bảng cân đối xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam trước T11 2012 Đơn vị: triệu USD ChủngT T10/2 So 10T/20 10T/ So ƯT11/ So Ư11T/ T loại 012 T9/12 12 11 10T 12 T10/1 12 (%) 12/11 2 (%) Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 23
  24. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. Xuất1 khẩu 0.75 7.8% -3.27 Dệt May 1,344 12,486 11,58 1,300 13,786 6 Xuất khẩu 0.00 0.5% -7.41 Xơ Sợi 162 1,526 1,518 150 1,676 Tổng 0.67 6.9% -3.72 1,506 14,012 13,10 1,450 15,462 4 Nhập2 16.38 - 2.59 khẩu 1,062 9,325 9,462 1.4% 1,089 10,594 Bông 85 40.19 732 899 - 87 2.68 986 18.6 % Xơ sợi 128 16.37 1,156 1,295 - 119 -6.76 1,414 các loại 10.7 % Vải 643 16.10 5,717 5,591 2.2% 685 6.51 6,276 NPL DM 206 9.57 1720 1677 2.6% 198 -3.88 1918 NK3 cho 16.56 - 1.67 XK 814 7,027 7,179 2.1% 827 7,989 Cân4 đối - 17.9 - X-NK (1-3) 692 13.24 6,985 5,925 % 623 10.06 7,473 Tỷ5 lệ 46.0 -0.07 49.9% 45.2 4.6% 42.9% - 48.3% GTGT (4/1) % % 3.0% 2.3. Nhận xét về tình hình xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam 2.3.1. Thuận lợi Ngành dệt may Việt Nam có thể tận dụng một số điểm mạnh. Trước hết, trang thiết bị của ngành may mặc đã được đổi mới và hiện đại hoá đến 90%. Các sản phẩm đã có chất lượng ngày một tốt hơn, và được nhiều thị trường khó tính như Hoa Kỳ, EU, và Nhật Bản chấp nhận. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp dệt may đã xây dựng được mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhiều nhà nhập khẩu, nhiều tập đoàn tiêu thụ lớn trên thế giới. Bản thân các doanh nghiệp Việt Nam cũng được bạn hàng đánh giá là có lợi thế về chi phí lao động, kỹ năng và tay nghề may tốt. Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 24
  25. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. Cuối cùng, Việt Nam được đánh giá cao nhờ ổn định chính trị và an toàn về xã hội, có sức hấp dẫn đối với các thương nhân và các nhà đầu tư nước ngoài. Bản thân việc Việt Nam tích cực tham gia hội nhập kinh tế khu vực và thế giới cũng mở rộng tiếp cận thị trường cho hàng xuất khẩu nói chung và hàng dệt may xuất khẩu nói riêng. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam vẫn thể hiện được xu hướng tăng trong giai đoạn 2000-2007, mặc dù có giảm mạnh trong năm 2008. Ngành dệt may Việt Nam còn có khá nhiều tiềm năng cho xuất khẩu. Tiềm năng này trước hết là do nguồn lao động còn lớn, đặc biệt là nhờ cấu trúc dân số trẻ, nên chi phí cho lao động không tăng nhanh như tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của hàng dệt may. Bên cạnh đó, Việt Nam có môi trường đầu tư ổn định, với tiềm năng tăng trưởng cao, nên có sức hấp dẫn với nhà đầu tư và bạn hàng nước ngoài. Hơn nữa, Việt Nam cũng đang tham gia ngày một sâu rộng vào quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Cùng với việc cải thiện hình ảnh của Việt Nam, quá trình này còn giúp gia tăng tiếp cận thị trường cho hàng hóa của Việt Nam nói chung và hàng dệt may của Việt Nam nói riêng. 2.3.2. Khó khăn Mặc dù vậy, triển vọng xuất khẩu này cũng đi kèm những diễn biến đáng lo ngại. Trước hết, cán cân thương mại ngành dệt vẫn có mức thâm hụt lớn, mặc dù mức thâm hụt đã giảm mạnh trong năm 2009 và trong giai đoạn 2011-2013. Điều này cho thấy ngành may mặc của Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục phải dựa vào nguyên liệu dệt nhập khẩu để phục vụ cho các đơn hàng xuất khẩu của mình. Triển vọng nhập khẩu các nguyên phụ liệu phục vụ cho ngành may mặc cũng được trình bày trong bảng sau. Bảng: Cân đối nhu cầu đối với một số nguyên phụ liệu dệt may trong giai đoạn 2005-2020 Mặt hàng Đơn vị 2005 2010 2020 Năng Nhu Nhập Năng Nhu Nhập Năng Nhu cầu Nhập lực cầu khẩu lực cầu khẩu lực khẩu Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 25
  26. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. Bông 1000 tấn 11 165 154 20 255 235 60 430 370 Sợi nhân tạo 1000 tấn 140 140 260 220 600 370 Chỉ và 1000 tấn 260 510 250 350 790 440 650 1.350 700 filamen Vải Triệu m2 618 2.280 1.662 1.000 3.525 2.525 2.000 5.950 3.950 Nguồn: Đại sứ quán Đan Mạch tại Hà Nội Trong điều kiện kinh tế bình thường, vấn đề nguyên liệu đối với ngành may mặc sẽ không phải là quá nghiêm trọng. Tuy nhiên, trong điều kiện khủng hoảng, khi các đơn hàng xuất khẩu không còn nhiều và các doanh nghiệp may mặc phải chuyển hướng sang phục vụ thị trường trong nước, việc phụ thuộc vào nguyên phụ liệu nhập khẩu sẽ làm các doanh nghiệp mất tính chủ động trong kế hoạch kinh doanh và còn gặp khó khăn về nguồn ngoại hối để chi trả cho nhập khẩu. Ngành dệt may vẫn còn những điểm yếu nhất định. May xuất khẩu phần lớn theo phương thức gia công, công tác thiết kế mẫu, mốt chưa phát triển, tỷ lệ làm hàng theo phương thức FOB thấp, hiệu quả sản xuất thấp. Trong khi đó, ngành dệt và công nghiệp phụ trợ còn yếu, phát triển chưa tương xứng với ngành may, không đủ nguồn nguyên phụ liệu đạt chất lượng xuất khẩu để cung cấp cho ngành may, do đó giá trị gia tăng không cao. Như đã phân tích ở trên, tính theo giá so sánh, giá trị sản phẩm của ngành dệt luôn tăng chậm hơn so với giá trị sản phẩm của ngành may mặc, cho thấy sự phụ thuộc của ngành may mặc đối với nguyên phụ liệu nhập khẩu. Hơn nữa, hầu hết các doanh nghiệp dệt may là vừa và nhỏ, khả năng huy động vốn đầu tư thấp, hạn chế khả năng đổi mới công nghệ, trang thiết bị. Chính quy mô nhỏ đã khiến các doanh nghiệp chưa đạt được hiệu quả kinh tế nhờ quy mô, và chỉ có thể cung ứng cho một thị trường nhất định. Do đó, khi thị trường gặp vấn đề, các doanh nghiệp dệt may sẽ gặp khó khăn trong việc điều chỉnh phương thức thâm nhập thị trường và/hoặc chuyển đổi sang thị trường khác. Những khó khăn, ít nhất là ban đầu, trong việc chuyển đổi định hướng sang thị trường nội địa trong thời điểm các thị trường xuất khẩu chính như Hoa Kỳ, EU đều gặp suy thoái kinh tế chính là những dẫn chứng tiêu biểu. Mặt khác, kỹ năng quản lý sản xuất và kỹ thuật còn kém, đào tạo chưa bài bản, năng suất thấp, mặt hàng còn phổ thông, chưa đa dạng. Năng lực tiếp thị còn hạn chế, phần lớn các doanh nghiệp dệt may chưa xây dựng được thương hiệu của mình, chưa xây dựng được chiến lược dài hạn cho doanh nghiệp. 2.4. Một số giải pháp đề ra •Xây dựng, củng cố các yếu tố nền tảng cho phát triển XNK nhanh và bền vững. - Tiếp tục quá trình tự do hoá kinh tế, thương mại theo lộ trình cam kết quốc tế, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, công bằng theo quy tắc lợi thế so sánh; huy động và dùng một cách có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Tiếp tục hoàn thiện cấu trúc kinh tế thị trường, xây dựng đồng bộ các loại thị Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 26
  27. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. trường để nhanh chóng có một nền kinh tế thị trường đầy đủ theo cam kết với Tổ chức thương mại thế giới. Xây dựng thị trường điện, nước có tính cạnh tranh; hình thành thị trường nhân tài và tạo bước đột phá trong phát triển thị trường khoa học và công nghệ. Nâng cao hiệu quả dùng nguồn lực và vai trò chủ đạo của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Mở rộng quan hệ đối tác chiến lược, đối tác kinh tế toàn diện với các nước, thân thiện với các nhà đầu tư nước ngoài, tạo dựng được vị thế chiến lược của quốc gia trên trường quốc tế. Cần nỗ lực và quyết liệt cơ cấu lại và đổi mới mô hình tăng trưởng xuất, nhập khẩu theo hướng hạn chế khai thác tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường. Nâng nhanh tỷ trọng nhóm hàng công nghệ cao trong cấu trúc XNK. - Chủ động và quyết tâm cao để chuyển đổi mô hình tăng trưởng xuất khẩu đang chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, dùng lao động rẻ, các ngành dùng nhiều vốn, giá trị gia tăng thấp, gây ô nhiễm môi trường và tiêu hao nhiều năng lượng sang mô hình tăng trưởng mới. - Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng giảm tỷ trọng của nhóm sản phẩm thô và sơ chế, tăng nhanh tỷ trọng của nhóm sản phẩm chế biến chế tạo trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Ưu tiên phát triển ngành công nghiệp áp dụng công nghệ cao để tăng nguồn hàng xuất khẩu có hàm lượng công nghệ cao, có sức cạnh tranh và giá trị gia tăng cao. Phát triển nhập khẩu phải hướng mạnh vào tăng cường phần cốt lõi của CNH, HĐH. Cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ chính sách, cơ chế quản lý nhập khẩu để tăng tỷ trọng của nhóm máy móc, thiết bị và công nghệ trong tổng kim ngạch nhập khẩu, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH. Phải quyết liệt trong việc kiểm soát và hạn chế tối đa việc nhập khẩu công nghệ thấp, công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm môi trường, có hệ số tiêu hao nguyên nhiên liệu và tiêu hao năng lượng cao cho một đơn vị sản phẩm. •Phát triển nhanh kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, gắn với bảo vệ môi trường. - Tạo bước đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, sân bay, bến cảng và quy hoạch đô thị. Đảm bảo độ mở hợp lý của nền kinh tế, khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu; tăng cường đàm phán ký kết các Hiệp định thương mại tự do song phương, các Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Hình thành hợp lý tỷ lệ của FDI so với GDP, của kim ngạch XNK so với GDP, tỷ lệ dư nợ nước ngoài so với GDP để đảm bảo độ mở hợp lý cho tăng trưởng nhanh và mức an toàn cần thiết cho nền kinh tế. Chủ động điều chỉnh chiến lược thị trường gắn với lộ trình hội nhập các FTA; coi trọng phát triển thị trường trong nước gắn với thị trường ngoài nước, đa dạng hoá phương thức xuất khẩu qua biên giới và xuất khẩu tại chỗ. - Giảm dần tỷ trọng của các thị trường công nghệ thấp và trung bình ở khu vực châu Á, tăng dần tỷ trọng của các thị trường có công nghệ cao như EU, Bắc Mĩ, Nhật Bản, Liên Bang Nga. Hướng mạnh vào các thị trường tiềm năng lớn, các nền kinh tế mới nổi để đón bắt cơ hội thị trường dài hạn cho phát triển xuất khẩu. - Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tham gia các FTA có chọn lọc, theo lộ trình phù hợp với trình độ phát triển và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Việc tham gia ký kết các FTA mới cần phù hợp định hướng điều chỉnh thị trường trong thời kỳ Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 27
  28. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. chiến lược. Chủ động ứng phó có hiệu quả với những tác động bất lợi của các FTA đã ký kết đến tình hình nhập khẩu và nền kinh tế xã hội để giữ vững an ninh kinh tế, an toàn sức khoẻ cho cộng đồng. •Cấu trúc lại nền kinh tế để đảm bảo độ an toàn cần thiết trong điều kiện hội nhập, nâng cao năng lực cạnh tranh và chất lượng tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng tăng trưởng xuất khẩu. - Chuyển dịch nền kinh tế theo hướng hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và đảm bảo độ an toàn cần thiết nhưng tham gia ngày càng sâu rộng vào các chuỗi giá trị toàn cầu. Tiếp tục củng cố các ngành chủ chốt để đảm bảo độ an toàn cần thiết cho nền kinh tế, trước hết là đảm bảo an ninh lương thực, an toàn năng lượng và an toàn tài chính quốc gia. - Cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng ưu tiên phát triển những ngành sản phẩm có tiềm năng phát triển quy mô lớn, có hiệu quả kinh tế cao, tạo ra sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cao đủ khả năng thoả mãn nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho đất nước và có dự trữ một phần để dự trữ và xuất khẩu, củng cố các vùng sản xuất lương thực để đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài. - Cơ cấu lại ngành công nghiệp, ưu tiên phát triển mạnh các ngành áp dụng công nghệ cao, các ngành công nghiệp định hướng xuất khẩu có lợi thế cạnh tranh, có giá trị gia tăng cao và có khả năng tham gia mạng lưới sản xuất và các chuỗi giá trị toàn cầu. Thúc đẩy phát triển nhanh công nghiệp hỗ trợ, coi trọng phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn và các ngành sản phẩm từ công nghệ mới, công nghệ cao. Tạo bước đột phá trong nâng cấp trình độ kỹ thuật và công nghệ sản xuất công nghiệp để chuyển nhanh động năng chính của tăng trưởng công nghiệp từ lao động và vốn sang tăng năng suất lao động, từ phát triển công nghiệp dựa vào các yếu tố sản xuất là chính sang dựa vào hiệu quả và sáng tạo là chính. - Cơ cấu lại các ngành dịch vụ theo hướng phát triển mạnh các dịch vụ tài chính, tiền tệ, gắn với cấu trúc lại hệ thống NH, hệ thống tài chính - tiền tệ để làm nòng cốt cho xây dựng nền tài chính lành mạnh, an toàn có nguồn dự trữ ngoại hối mạnh, giảm thiểu sự phụ thuộc vào nước ngoài về tài chính. - Tập trung sức phát triển một số ngành dịch vụ mà Việt Nam có tiềm năng, lợi thế phát triển định hướng xuất khẩu như: Hàng hải, Hàng không, Viễn thông, Du lịch, Y tế, Xuất khẩu lao động để giảm dần thâm hụt và hướng tới có thặng dư cán cân dịch vụ. Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu hàng hoá XNK theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của nhóm hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng cao, tăng nhanh tỷ trọng nhóm máy móc thiết bị và công nghệ nhập khẩu trong cơ cấu hàng hoá nhập khẩu. Tăng tỷ trọng công nghệ cao và trung – cao trong cấu trúc XNK hàng hoá. Trên cơ sở đó, giảm nhanh thâm hụt và hướng tới thặng dư cán cân thương mại, làm nòng cốt để xác lập cán cân vãng lai một cách khoa học, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. •Tiếp tục xây dựng, củng cố các trụ cột của năng lực cạnh tranh quốc gia. - Tập trung các nỗ lực của cả nước tăng nhanh năng suất lao động để tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, nâng cao mức sống của người dân. Để tăng nhanh năng suất lao động, cần thực hiện các nhiệm vụ chiến lược sau: Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 28
  29. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. + Nâng cao năng lực khoa học và công nghệ, gắn khoa học công nghệ với đào tạo và với sản xuất kinh doanh, tạo lập tiềm lực khoa học công nghệ đủ mạnh để sáng tạo và làm chủ các công nghệ cần thiết cho phát triển nền kinh tế. + Xây dựng đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng nhân tài khoa học và công nghệ. Củng cố và phát triển các yếu tố nâng cao hiệu quả của nền kinh tế như giáo dục và đào tạo bậc trung học phổ thông, bậc đại học và cao đẳng, đào tạo nghề, nâng cao hiệu quả của thị trường hàng hoá, sức lao động, thị trường tài chính để tăng hiệu suất, vận dụng các yếu tố nguồn lực, tăng cường mức độ sẵn sàng về công nghệ cho nền kinh tế. + Khuyến khích xu hướng xã hội và tôn vinh những nỗ lực của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân vượt lên trước trong các hoạt động sản xuất kinh doanh dựa vào yếu tố sáng tạo và hiện đại. - Phát huy tối đa vai trò của Chính phủ trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Nâng cao hiệu năng của Chính phủ trong giải quyết các nhiệm vụ cơ bản sau: + Có các biện pháp quyết liệt để giảm thiểu các tổn thương cho nền kinh tế khi có chấn động đột ngột từ bên ngoài. + Việc xây dựng chính sách và việc ban hành các quyết định quản lý điều hành cần quy tụ được đội ngũ đông đảo các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế, các viện nghiên cứu và các trường đại học. Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 29
  30. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ MÔN HỌC 3.1. Giảng dạy học phần 3.1.1. Giáo trình, tài liệu học tập, giảng viên Giáo trình học Kinh tế vi mô và các tài liệu tham khảo tương đối hoàn chỉnh, đầy đủ kiến thức cho sinh viên, trình bày rõ ràng, dễ hiểu Giảng viên giảng dạy tận tâm, truyền đạt tốt những kiến thức cơ bản cho sinh viên, có những ví dụ thực tế, bài giảng sinh động, hướng dẫn bài tập giúp cho sinh viên tiếp thu tốt 3.1.2. Cơ sở vật chất Nhìn chung, trường ĐH Công Nghiệp trang bị cơ sở vật chất khá tốt, cụ thể phòng học, bàn ghế, máy chiếu, quạt, loa. tạo mọi điều kiện cho sinh viên tiếp thu bài. 3.1.3. Tính thiết thực, hữu ích của môn học Kinh tế vi mô là môn học nghiên cứu cơ bản, là môn học không thể thiếu, vì nó là nền tảng kiến thức căn bản làm tiền đề cho các môn khoa học nghiên cứu khác, biết được cơ sở của những lý luận thực tiễn khác. 3.2. Một số giải pháp đề ra nhằm cải thiện học phần Kinh tế vi mô là một học căn bản và cần thiết, bao hàm nhiều lý luận và công thức, vì vậy, nhà trường và giảng viên nên áp dụng nhiều thực tiễn vào môn học này để giúp sinh viên dễ tiếp thu và biết ứng dụng môn học bổ ích này vào thực thế. Bên cạnh đó, nhà trường có thể hỗ trợ sinh viên trong việc thực hành các kiến thức này, cũng như có thể tăng số tiết học để sinh viên đươc nghiên cứu sâu hơn môn học này. Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 30
  31. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. KẾT LUẬN Kinh tế vi mô là một môn học nghiên cứu kinh tế căn bản, thiết thực và hữu ích bắt đầu với các môn học chuyên ngành kinh tế, giúp cho người học nắm được cốt lõi mà mối tương quan giữa các nhân tố trong nền kinh tế. Ngành dệt may Việt Nam là một ngành rất quan trọng trong cơ cấu GDP hiện nay. Đặc biệt là Xuất khẩu ngành may mặc đang nhận được rất nhiều sự quan tâm của nền kinh tế. Kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO thì ngành Dệt may có cơ hội mở cửa thị trường, vươn ra ra thị trường quốc tế và từng bước vươn lên, có chỗ đứng trên thương trường dệt may quốc tế, xuất khẩu mạnh sang các cường quốc Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc Kim ngạch xuất nhập khẩu không ngừng tăng qua các năm. Bên cạnh đó cũng còn nhiều mặt hạn chế như khoa học kĩ thuật công nghệ, tìm kiếm thị trường mới, khả năng huy động vốn, bị ảnh hưởng bởi nền kinh tế suy thoái khiến cho xuất nhập khẩu dệt may vẫn chưa ổn định và có bước đột phá. Mong rằng nền kinh tế nước nhà thực sự có sự phát triển đột phá trong những năm tới. Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 31
  32. Chuyên đề môn học GVHD: Ths. TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách, giáo trình Giáo trình Kinh tế Vi mô trường ĐH Công Nghiệp Giáo trình Kinh tế Vi mô trường ĐH Kinh tế Các website www.thuongmai.vn/ Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam Page 32